BÀI ĐỌC NHIỀU NHẤT
(Xem: 73344)
(Xem: 62242)
(Xem: 39427)
(Xem: 31174)
SỐ LƯỢT XEM TRANG
0

Về những cái tên của ông Hồ trong từng thời kỳ (Kỳ 2/2)

19 Tháng Năm 200912:00 SA(Xem: 1209)
Về những cái tên của ông Hồ trong từng thời kỳ (Kỳ 2/2)
52Vote
40Vote
30Vote
20Vote
10Vote
52
- Từ 1930 đến đầu năm 1933, tại các vùng Thượng Hải, Hương Cảng, Cửu Long, Hạ Môn Nguyễn Tất Thành vẫn dùng tên Lão Vương, nhưng khi bị bắt ở Thượng Hải thì ông khai là Tống Văn Sơ (Sung Man-ch’o) hay Đoàn Văn Sơ. Nhà cầm quyền Anh đã giữ được một giấy thông hành (nhận từ Singapore) có hình của Hồ, mang tên Sung Man Ch’o khi họ bắt giữ ông vào tháng 6, 1931. Vụ này, "nhà sử học Pháp Daniel Hemery (là người đã khám phá ra lá thư bằng chữ Hán mà Hồ Chí Minh gửi cho người vợ Tàu Tăng tuyết Minh), trong trang 143 của cuốn sách "Ho Chi Minh: de l’Indochine au Vietnam" do nhà xuất bản Gallimard ấn hành năm 1990 cho biết là vào ngày 1 tháng 6 năm 1931, Cảnh sát Anh tại Singapore bắt được một nhân viên người Pháp của Quốc tế Cộng sản (Comintern) tên Joseph Ducroux (bí danh Serge Lefranc). Từ chuyện bắt bớ này, họ truy ra một nhân viên Quốc tế Cộng sản khác. Vào 2 giờ sáng ngày 6 tháng 6 năm 1931, Cảnh sát Hồng Kông tới số nhà 186 đường Tam Kaw, Cửu Long (Kowloon) để bắt một người đàn ông tên Sung Man Ch’o sống với một người đàn bà trẻ tên Ly Ung Thuan, đó là người đàn bà mà người đàn ông cho là cháu của ông ta. Cuối cùng thì cuộc điều tra cho biết Ly Ung Thuan không phải là người Tàu mà là người Việt tên Le Thi Tam, vợ của Hồ Tùng Mậu, là người dưới tay của Hồ." 30

- Sau khi bị xử tại Toà án Hồng Kông, cuối năm 1931 ông Hồ được chuyển vào bệnh viện vì bệnh lao phổi. Vào mùa hè 1932 tin tức báo chí về "một người Việt Nam nhỏ bé, có thân thể bị suy nhược vì lao lực và tinh thần của một lãnh tụ" bắt đầu xuất hiện. Sau này truyền thông cộng sản đã loan báo rằng Hồ đã chết vì lao phổi vào tháng 8, 1932. Nhưng người Pháp đã không tin vào những báo cáo này. Lãnh sự quán của họ tại Hồng Kông đã cập nhật cho nhà cầm quyền tại Hà Nội những bước đi của Hồ trong nỗ lực rời khỏi mảnh đất thuộc địa của Anh. Lung.31

- Một chỉ điểm cho Pháp tại Thái Lan nói rằng Hồ Chí Minh đã lẩn trốn tại khu vực Nakhon Phanom từ đầu tháng 1, 1933, nhưng sau này được tiết lộ là nhầm người. Vào tháng 9, 1933 một chỉ điểm cho Pháp khác nói rằng đã phát hiện Hồ đang sống tại Nam Ninh (Nan Ning - ND) cùng với một nhóm nhỏ người Việt. Mật vụ "Maria" nói rằng trong số 4 người Việt Nam đang sống tại số 78 đường Cau Song Kai có một người giống với ảnh chụp Hồ Chí Minh. Người chỉ điểm này cũng nhắc đến 3 phụ nữ cùng với hai bé gái và một bé trai cũng đang sống chung trong ngôi nhà này. Hồ được cho là đang dùng tên Lý Sính Sáng (ngài Lý). 32

- Không có thông tin gì về việc ông đã sống như thế nào trong giai đoạn giữa mùa thu 1933 cho đến những tháng đầu của năm 1934. Rồi người ta thấy ông xuất hiện ở Mạc Tư Khoa. Ngày 16-9-1934, ông nhập học khóa tình báo ngắn hạng 6 tháng của KGB với tư cách là học viên nội trú của đại học Lênin, mang tên giả là Linov với bí số 375. Sau đó theo học tại Đại Học Lenin vào tháng 10.33

- Rồi tại học viện Nghiên Cứu Các Vấn Đề Thuộc Địa, ông lãnh đạo tiểu tổ các học sinh Việt Nam và dùng tên giả là Lin. “Ba đại biểu người Việt là Lê Hồng Phong, thành viên chủ chốt của Ban Chỉ Huy Hải Ngoại; một thành viên dân tộc Tày tên là Hoàng Văn Nọn; và Nguyễn Thị Minh Khai, được nhắc đến trong bức thư của Hà Huy Tập gửi cho QTCS là "vợ của Quốc". Hồ cũng được phân công làm đại biểu đại hội từ hội nghị ĐCS Đông Dương họp vào tháng 3, 1935. Trong bản khai lý lịch mà Minh Khai đã điền sau khi đến nơi, bà viết rằng bà đã lập gia đình và cho biết tên của chồng mình là "Lin", bí danh mới nhất của Hồ”. 34Tuy nhiên hồ sơ vào học tại trường Lênin Hồ không khai chuyện này. Hà Huy Tập cũng đã tố cáo Trần Văn Giàu và Hồ Chí Minh trong báo cáo gửi Đệ Tam Quốc Tế nên thời gian đại hội 7 có lẽ Hồ Chí Minh mất tín nhiệm thê thảm nhất, và kết luận: “Chúng tôi đề nghị đồng chí Lin phải đích thân viết một cuốn sách nhỏ tự phê chính mình và những sai sót đã qua.”. Hà Huy Tập cáo buộc Hồ Chí Minh chịu trách nhiệm về hàng trăm đảng viên bị bắt... (như phần đông các tác giả trước đã viết) và còn cho biết Hà Huy Tập quả quyết chính tổng bí thư cộng đảng Xiêm, từng theo chân Hồ cũng nói trước 1930 Hồ không phải là cộng sản. Theo tác giả, Hồ đã bị điều tra bởi bộ ba gồm Manuilsky, Kang Cheng và Vera Vasilieva. Manuilsky trung lập, Kang Cheng (Khang Sinh) đòi hành quyết, còn Vera thì bênh, viện lẽ Hồ sai lầm chỉ vì thiếu kinh nghiệm.35 Và “Trong một danh sách đại biểu Đại Hội, vì tính chất bắt buộc của nó, ai đó đã viết "cần phải loại bỏ" bên cạnh tên của Hồ”36

- Teng Man Huon: đại biểu của Đông Phương Bộ Quốc Tế Cộng Sản tham gia Đại Hội Quốc Tế Thanh Niên lần 6 khai mạc tại trụ sở công đoàn Liên Xô, Mạc Tư Khoa ngày 25-9-1935 là Hồ Chí Minh, Minh Khai và Tú Hưu tức Hoàng Văn Nọn. Tài liệu ghi rõ tên trong Đảng của Hồ Chí Minh lúc đó là Teng Man Huon, còn tên trong Đại Hội là Lin.

- Nguyễn Tất Thành rời Mạc Tư Khoa về lại Trung Quốc vào cuối năm 1938. Cho đến tháng 2-1941, ông hoạt động tại vùng Diên An, Hành Dương, Quế Lâm, Long Châu, Quí Dương, Trùng Khánh, Côn Minh, Tĩnh Tây và dùng các tên giả và bút danh là: P.C.Lin (có tài liệu nói thêm là Kwilin, Đường Lối), có khi chỉ đơn gian là ký là L; Hồ Quang (Hu Kwang, thiếu tá Bát lộ quân), Lão Trần, Hoàng Quốc Tuấn. 37

Dụng bút danh P.C.Lin để viết bài gởi về Hà Nội đăng trong báo Notre Voix (Tiếng Nói của Chúng Ta) của Mặt Trận Dân Chủ (của ĐCSĐD) do Võ Nguyên Giáp phụ trách. "Những bài viết này mang bút hiệu "Kwilin" và ký tên là "Đường Lối", với hy vọng rằng các đồng chí lãnh đạo trong đảng sẽ đoán được tác giả là ai và đang ở đâu. Nhưng hy vọng này vẫn chưa thành sự thật," Hồ viết. Ông đã thiết lập được những mối liên hệ tốt đẹp với vị chủ bút (Võ Nguyên Giáp), người này vẫn cho rằng ông là một nhà báo người Trung Quốc. Mãi cho đến cuối tháng 7, 1939, ông nói, ông mới có thể gửi địa chỉ của mình cũng như những chỉ thị của QTCS đến Uỷ Ban Trung Ương qua một người bạn và vị chủ bút của tờ Notre Voix. Tên giả Hồ Quang, với cấp bực thiếu tá, được dùng lúc công tác tại văn phòng (trạm liên lạc) của Lộ Quân 8 (thường gọi Bát lộ quân) Trung Cộng ở Quí Dương (tỉnh lị của tỉnh Quí Châu) vào năm 1938. Với bí danh là ông Trần, Hồ Chí Minh đến Côn Minh do tổ chức liên lạc của Trung Cộng tại địa phương. Với tên giả Hoàng Quốc Tuấn để đảm trách chức chủ tịch Việt Nam Dân Tộc Giải Phóng Ủy Viên Hội tại Tĩnh Tây mà 2 cán bộ chính là Dương Hoài Nam (Võ Nguyên Giáp) và Lâm Bá Kiệt (Phạm Văn Đồng) với chủ trương Thân Hoa Kháng Nhật. 38

- Phong: Bùi San, một đại biểu Trung kỳ được tiến cử vào Hội nghị 8 (ĐCSĐD) sau này đã bị người Pháp bắt và đã khai với Sở Liêm Phóng rằng ông đã gặp Phan Đăng Lưu tại Vinh vào cuối năm 1940. Bùi San cũng đã khai với người Pháp rằng một người tên Phong (được nhận diện là Hồ) đã là chủ toạ của phiên họp Uỷ Ban Trung Ương (tức Hội nghị 8 vào đầu 1941 tại Tĩnh Tây), trong khi đó "Mạnh" (được nhận diện là Hoàng Quốc Việt) làm thư ký, "Xuyên" hay Đặng Xuân Khu, sau này trở thành Trường Chinh, đã báo cáo những hoạt động tại các tỉnh Thái Bình và Hà Đông. Đặng Xuân Khu đã được phê chuẩn làm Tổng Bí Thư ĐCS Đông Dương tại hội nghị này. Khi "Phong" phát biểu trên cương vị đại diện của Chi Bộ Hải Ngoại, ông đã phê bình hoạt động trong quốc nội. v.v… 39

- Tháng 2/1941, HCM rời Tĩnh Tây về căn cứ Pác Bó ở Cao Bằng. Lúc đó ông đã có một số cán bộ nhờ mưu lược lợi dụng tổ chức của Trương Bội Công khi hoạt động tại TQ trong giai đoạn Thân Hoa Kháng Nhật. Trong thời gian này, HCM hoạt động khắp vùng rừng núi Việt Bắc với các tên giả Sáu Sán, “Chú Thu” (tức Già Thu), “Ong Ké” (2 cái tên theo lời bà Nông Thị Ngát/Trưng – người được cho là thân mẫu của đương kim tổng bí thư Nông Đức Mạnh? – trong bài viết Cô học trò nhỏ của bác Hồ, tác giả Thiên Lý, báo Phụ nữ, Xuân Đinh Sửu - 1997). Như vậy là từ cái tên của ông Hồ người viết đã… lan man đến ông Mạnh!? Nhân tiện cũng xin hầu Quý bạn đọc một điều sau đây:

Ông Hồ thì nay ai cũng biết đích thuộc dòng Hồ Sĩ ở Quỳnh Lưu, xứ Nghệ An rồi.40 “Cũng với khoảng thời gian chưa xa, Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh đã có buổi trò chuyện thân mật với một số con cháu họ Hồ.” 41Quý bạn đọc nghĩ sao về mối liên hệ “cô học trò nhỏ” Trưng – Chú Thu; bà Trưng – Nông Đức Mạnh; Nông Đức Mạnh – “thân mật với một số con cháu họ Hồ”; và họ Hồ là họ thật của ông Hồ? Quý bạn đọc nghĩ gì nữa khi tác giả Trường Lam viết tiếp: “Chắc rằng mọi chuyện vẫn chưa phải đã hết. Còn có những điều sâu kín, dài dài, chưa thể nói ra, nhưng cũng rất con người, đang ở sân sau…” ?

- Khi HCM trở lại sang Trung Quốc và bị bắt vì bị tình nghi là gián điệp của Nhật. (Lần này, ông được Nguyễn Hải Thần và Vũ Hồng Khanh bảo lãnh nên tướng Trương Phát Khuê mới trả tự do cho ông.) Khi được thả, nhờ khả năng tình báo do KGB đào luyện, HCM được tướng Trương Phát Khuê tin dùng và cho phục vụ trong tình báo Trung Hoa qua Bộ Tư Lệnh Đệ Tứ Chiến Khu ở Hoa Nam. Rồi từ tình báo của Trung Hoa, vào đầu năm 1945 ông bắt liên lạc với tình báo Huê Kỳ do Charles Fenn và thiếu tá Archimedes Patti, đặc vụ phụ trách chiến trường Đông Dương của OSS (Office of Strategic Services), tiền thân của CIA, cơ quan Trung Ương Tình Báo Huê Kỳ. Ông trở thành một trong 25 điệp viên của Charles Fenn với bí danh Lucius,42 Nhân viên số 19 (hay 9?). Ông được Charles Fenn cung cấp cho 6 khẩu súng lục 38 cùng với 120 băng đạn.

- Cuối cùng là Hồ Chí Minh. Theo Sophie Quinn-Judge, thì tên này được dùng từ cuối năm 1940, khi ông Hồ vẫn còn ở bên Tầu: “Họ [Võ Nguyên Giáp, Vũ Anh và Cao Hồng Lãnh] khuyên Hồ rằng ông nên đến Trịnh Tây cùng với họ. Khi Hồ đi về phía nam cùng với Phạm Văn Đồng, Phùng Chí Kiên và Hoàng Văn Hoan, ông đã đem theo 3 thẻ căn cước, đều được làm trong năm 1940. Theo lời kể của Trương Phát Khuê, những giấy này chứng nhận ông là (1) thành viên của Hội Phóng Viên Thanh Niên Trung Quốc; và (2) Phóng Viên Đặc Biệt của Dịch Vụ Tin Tức Quốc Tế; tấm căn cước thứ ba là Giấy Phép Đi Lại của Nhân Viên thuộc Bộ Chỉ Huy Đệ Tứ Chiến Khu. Tất cả các giấy tờ trên đều mang tên "Hồ Chí Minh".”43

Cho đến ngày 19-8-1945, khi Đảng Cộng Sản cướp chính quyền ở Hà Nội, thì toàn quốc không ai biết nhân vật Hồ Chí Minh là ai! Chính Cựu Hoàng Bảo Đại lúc đó ở Huế cũng không biết, ngài bèn hỏi Phạm Khắc Hoè. Ô. Hoè cũng không biết, bèn đi hỏi Tôn Quang Phiệt và Đào Duy Anh, thì cả 2 cũng không biết. Vào lúc đó, Vũ Văn Hiền vừa từ Hà Nội về mới cho biết Hồ Chí Minh là Nguyễn Ái Quốc. Khi Cựu Hoàng biết Hồ Chí Minh là Nguyễn Ái Quốc thì Cựu Hoàng mới nói: “Nếu quả người cầm đầu Việt Minh là Thánh Nguyễn Ái Quốc, thì trẫm sẵn sàng thoái vị ngay”.44 Sau khi làm “cố vấn” cho Hồ Chí Minh, Bảo Đại “thoát” được tới Hồng Kông. Trong một buổi tiếp Trần Trong Kim từ trong nước sang vào đầu tháng 8, 1946, ông đã nói với cụ Trần “lời đầu tiên” (sic): “Chúng mình già trẻ [đều] mắc lừa bọn du côn” 45 – Có lẽ chỉ sau ít tháng… làm việc bên… “Thánh Nguyễn Ái Quốc”, Cựu hoàng mới/đã nhìn ra chân tướng của người CS.

Còn cái tên Hồ Chí Minh? “Trong quyển Anh Thư Nước Việt Từ Lập Quốc Đến Hiện Đại, tác giả Phương Lan viết về một vị anh thư tham gia cách mạng vào đầu thế kỷ 20 là bà Ngô Thị Khôn Nghi như sau (trang 238): “Bà Ngô Thị Khôn Nghi, con gái cụ Ngô Quảng, một nhà Tiền bối cách mạng, một tướng lãnh xuất sắc trong nghĩa quân Cần Vương và Quang Phục ở làng Tam Đa, tổng Vạn Trình, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Bao phen vào sanh ra tử, qua nhiều lần thất bại, cụ Ngô Quảng phải bôn tẩu qua Xiêm rồi thất lộc ở đó. Cụ qua Xiêm đặng một năm, thì cụ có được hai người con, một trai một gái. Chị gái tức là Khôn Nghi, em trai tên Ngô Chính Học, được đoàn thể cách mạng đem sang Tàu cả hai”.46

Trong sách đã dẫn, tác giả cẩn thận đặt một phụ đề là Ngô Thị Khôn Nghi Vợ Cụ Hồ Chí Minh Thật và viết tiếp: “Bà Khôn Nghi qua Tàu cũng vào trường học, sau đó kết duyên cùng cụ Hồ Học Lãm. Bao nhiêu năm cụ Lãm hoạt động cách mạng Việt Nam, ở Tàu bao nhiêu năm thì bà Khôn Nghi cùng hoạt động cách mạng ở bên cạnh chồng và nhiều đồng chí khác. Nhóm làm cách mạng Việt Nam ở Tàu, không ai không biết gia đình này, từ người quốc gia cho tới người Cộng sản.”.47

Vậy Hồ Chí Minh thật là Hồ Học Lãm! – cháu Án Sát Hồ Bá Ôn, 48đã hy sinh năm 1883 trong chiến đấu khi Pháp đánh thành Nam Định. Hồ Học Lãm tham gia phong trào Đông Du và Duy Tân do Phan Bội Châu lãnh đạo, sang Nhật du học rồi trở về Tàu, gia nhập Quân đội Trung Hoa QDĐ, mang quân hàm trung tá, sáng lập viên của Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội (1936) – gọi tắt là Việt Minh. “Việc ông Hồ Học Lãm đứng ra lập Việt Minh là một việc có tác dụng rất quan trọng…” 49; “Ông không phải là cộng sản, điều này Quốc Dân Đảng Trung Quốc biết rõ trăm phần trăm. Ông đứng ra lập Việt Minh trong lúc này đối với chúng ta mà nói là một sự che chở rất có hiệu lực.” 5050 Khi Hồ Học Lãm qua đời (1942), Nguyễn Tất Thành – Nguyễn Ái Quốc – Lý Thụy (gia nhập tổ chức của cụ Lãm trước đó) đã xử dụng 3 chứng minh thư của Hồ Học Lãm mang tên Hồ Chí Minh để che dấu tông tích cộng sản của mình, để tiện việc di chuyển trên đất Tàu và xài luôn tên Hồ Chí Minh (vì vào lúc đó, Trung Hoa Dân Quốc dưới quyền Tổng Thống Tưởng Giới Thạch đã từ bỏ chính sách Liên Nga Dung Cộng nên không chấp nhận cộng sản). Tại sao lại là 3 cái chứng minh thư? Có phải đây là 3 cái chứng minh thư mang tên Hồ Chí Minh có ghi chức danh đàng hoàng ông mang theo mình khi “Họ [Võ Nguyên Giáp, Vũ Anh và Cao Hồng Lãnh] khuyên Hồ rằng ông nên đến Trịnh Tây cùng với họ” đã nói ở trên không? Thật khó mà khác biệt!

Vậy là sau khi thuổng tên chung (Nguyễn Ái Quốc) của nhóm, nay “bác kính yêu” lại thuổng tên riêng (Hồ Chí Minh) của một người cho riêng mình!

Lại có một tin nữa: “Theo ông Vũ Hồng Khanh, Bác đã mua hay “thuổng” 1 căn cước của 1 người ăn mày có tên là Hồ Chí Minh và xử dụng căn cước này khi bị bắt”.51 Vậy điều ông Vũ Hồng Khanh nói có đúng như cha tôi (cụ Ng. Văn T. – Nguyễn Hữu chú) thì một lần bị lùng sục, N.A.Q. trốn tránh trong một bệnh viện, và đã tráo giấy tờ thùy thân cho một người tên Hồ Chí Minh đã chết, và với tên H.C.M. ông đã thoát được ra ngoài. Từ đó mang tên Hồ Chí Minh. (Độ chính xác bao nhiêu tôi không dám bảo đảm, chỉ xin nêu để bạn đọc cùng tham khảo).

- Cùng bút danh: T.Lan, Nghe Lỏm (?), Trần Lực, CB, Lê Nhân đã dùng để viết bài... ca ngợi “Bác” “tài ba, sáng suốt”... và để “giải thích thêm cho thật rõ” những “lời dạy dỗ của Hồ Chủ tịch” mà chính “Bác” và Vương Sơn Nhi, Trương Nhược Trừng, P.C.Lin v.v… khi ở Nga, ở Trung Quốc đã viết như nói ở trên.

Và đặc biệt hơn hết, không thể không nói đến cái bút danh: Trần Dân Tiên (1948). Ngày nay thì ai ai trên thế giới này, người chỉ quan tâm “sơ sơ” đến chính trị một chút cũng biết Trần Dân Tiên là “một nhà báo cộng sản số một” của ĐCSVN, nhưng lại… không có tên trong danh sách Hội Nhà báo hoặc Hội Nhà văn Việt Nam (!); người đã từng viết trong “kiệt tác” của mình rất nhiều câu “cực kỳ khiêm tốn”, trong đó có câu: “Một người như Hồ Chủ tịch của chúng ta, với đức tính khiêm tốn nhường ấy và đương lúc bề bộn bao nhiêu công việc, làm sao có thể kể lại cho tôi nghe bình sinh của Người được?”; 52 lại chính là… “Người”!53 Ô hô!

- Dùng lại tên Nguyễn Tất Thành! Đúng, đó là cuối năm 1956, khi nàng “cung tần” người Tày (hay Nùng?) Nông Thị Xuân (được Trần Đăng Ninh, Chủ nhiệm Tổng Cục Hậu Cần tìm được từ vùng người Nùng Cao Bằng đưa về Phủ Chủ tịch tại HN để “phục vụ Bác”) sinh cho ông một đứa con trai, ông liền đặt tên cho con là Nguyễn Tất Trung.54 Qua cách đặt tên con như vậy, hiển nhiên ông nhìn nhận liên hệ phụ tử. Này nhé: cha là Nguyễn Tất Thành thì con là Nguyễn Tất Trung. Trong Tình Tự Dân Tộc, tên hai cha con hợp lại là Thành Trung / Trung Thành; thật có ý nghĩa, thật đẹp vô cùng! Nhưng cũng thật… bất hạnh vô cùng vì đứa con đó chưa một lần được công khai nhận cha! Có lẽ đây là một trong “Mười điều bất hạnh của bác Hồ” 55 mà ông Hoàng Tùng không dám “dũng cảm” (hay không nỡ?) kể ra trong bài viết của mình?!

- Nghe nói ông Hồ còn bút hiệu hay bí danh là Yên Sơn, Vương Chí Sơn nhưng kẻ viết chưa biết ổng dùng trong giai đoàn nào? ở đâu? Mong được Quý bạn đọc vui lòng chỉ dẫn nếu hay.

Nguyễn Hữu – Hà Nội
19/5/2009


30 Bí ẩn tù tội của Hồ Chí Minh ở Hồng Kông (1931-1932), Trần Viết Đại Hưng http://www.hungviet.org/tranvietdaihung/tranvietdaihung1004_2.html

31 Sophie Quinn-Judge, sđd, Chương 6. http://www.x-cafevn.org/forum/showthread.php?t=8991&page=4

32 như trên

33 như trên

34 như trên

35 như trên

36 như trên

37 Nhóm Tâm Viêt Sydney, bđd

38 Sophie Quinn-Judge, sđd, Chương 7, http://www.x-cafevn.org/forum/showthread.php?t=8991&page=4

39 như trên

40 Chuyện ở sân sau: Về ông nội và người cha của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Trường Lam http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=10781&rb=0302 hoặc Lời truyền miệng dân gian về nỗi bất hạnh của một số nhà trí thức Nho gia (Kinh nghiệm điền dã, in trong quyển Trong Cõi, NXB Trăm Hoa, California, 1993), Trần Quốc Vượng http://www.bbc.co.uk/vietnamese/entertainment/story/2005/08/050808_trongcoi.shtml

41 Trường Lam, bđd

42 Góp ý với sử gia William J. Duiker về cuộc đời Hồ Chí Minh, Trần Viết Dại Hưng http://www.hungviet.org/tranvietdaihung/tranvietdaihung140304.html

43 như trên

44 Bài của Phạm Khắc Hòe, viết chung trong tập Chín Chúa Mười Ba Vua, tác giả Tôn Thất Bình, trang 158

45 Một cơn gió bụi, Lệ Thần Trần Trọng Kim, nxb Vĩnh Sơn, 1969 – Sàigòn, tr.146

46 Nhóm Tâm Việt Sydney, bđd

47 như trên

48 Giọt nước trong biển cả, Hoàng Văn Hoan, nxb Tin Việt Nam (TQ), 09/1989, tr.88

49 Hoàng Văn Hoan, sđd, tr.105

50 Hoàng Văn Hoan, sđd, tr.105

51 Song Nguyễn, bđd, http://www.ledinh.sitesled.com/Bai%20Le%20Dinh%20Song%20Nguyen.html

52 Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Trần Dân Tiên, Nhà xuất bản Sự thật – Hà Nội 1975, trang 9.

53 Những tác phẩm văn của chủ tịch Hồ Chí Minh, Hà Minh Đức, tr.132, nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội – 1985

54 Đêm giữa ban ngày, Vũ Thư Hiên.

55 Những kỷ niệm về Bác Hồ, Hoàng Tùng http://vantuyen.net/index.php?view=story&subjectid=6185
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn