Ngày 18 Tháng 9 vừa qua trên hệ thống website xuất hiện bài viết dài của Phúc Huy (Là ai? Là những ai?) đã đăng trên Báo Công An/TP/HCM/VN theo một kế hoạch cáo buộc, chụp mũ, kết án các trung tâm trình diễn, sản xuất ca nhạc hải ngoại, riêng đối với Tổ Hợp ASIA/SBTN và cá nhân Việt Dzũng với những tội danh đã thực hiện theo suốt ba thập niên kể từ sau 1975.. "Một tay gangster" của tổ chức "xã hội đen" chuyên "chống phá quê hương và đầu độc trẻ thơ"! Một tên "côn đồ chính trị" khủng bố trí thức và văn nghệ sĩ, làm tan nát sự nghiệp và hạnh phúc gia đình của nhiều người (?!).. Sáng tác những ca khúc "Kinh Tỵ Nạn" hoặc "Lưu Vong Khúc" là để "khích động nạn vượt biên trái phép", khiến nhiều người phải bỏ mình trên biển cả, hoặc bị hải tặc cướp bóc, hãm hiếp, chịu đau đớn cả đời..!!
Chúng tôi không thể liệt kê thêm những điều cáo buộc vô lại như trên do quan niệm: Nếu một cá nhân có đôi phần lương tri, giáo dục tối thiểu không thể nào xử dụng chữ, nghĩa để viết nên những điều tệ hại đáng hổ thẹn như kia xong đem phổ biến trên trang báo của một cơ quan công quyền. Chúng tôi cũng không thể hình dung đầu Thế Kỷ 21 (sau hơn một trăm năm báo chí Việt Ngữ) sự kiện một cơ quan thông tin thuộc tổ chức nhà nước đang cầm quyền đã điều động, phổ biến những bài viết có mục tiêu bôi bẩn một cá nhân bằng cách dựng đứng, lu loa những "tội ác" không tưởng - Nội dung thể loại phóng sự hạ đẳng của thứ hạng báo chí cố gây kích thích nơi những người đọc nhỏ tuổi, tò mò, văn hóa thấp, không khả năng suy luận.. Nhưng tất cả đã được hợp lý hóa, hợp pháp hóa, quyền lực hóa bởi những cơ quan gọi là "công an nhân dân; toà án nhân dân"- Những cơ quan đầu não của hệ thống cầm quyền có chức năng, nhiệm vụ gọi là "bảo vệ an ninh tổ quốc". Để tìm hiểu quái tượng vô nghĩa lý nầy, bài viết nầy từ đấy cần phải viết nên
1. Nguyên Nhân/Diễn tiến:
Không phải bất ngờ và vô cớ những người cầm quyền ở Việt Nam đồng lần gây nên một loạt "sự cố" nói theo ngôn ngữ của chế độ cộng sản trong nước những vụ việc sau đây:
1/ Yêu cầu dẫn độ Lý Tống về Việt Nam (Với mục đích giø? Xét về tội danh gì? Hình phạt dự trù như thế nào?) mà chúng tôi quan niệm rằng, đây chỉ là một chiêu thức (cố ý dằn mặt) của kẻ cầm quyền ở trong nước (nhân kỳ thăm viếng sắp tới của Tổng Thống Hoa Kỳ), để sau đó sẽ khoan hồng ân xá Lý Tống (cũng để cố ý chứng tỏ họ có thực quyền và lòng khoan hồng), đồng thời hóa giải mục tiêu đấu tranh của cộng đồng người Việt hải ngoại.. Tóm lại, đây là một mũi tên với nhiều mục tiêu mà bất luận diễn tiến kết quả như thế nào cũng đem lại nhiều tác dụng ưu thế cho nhà cầm quyền Hà Nội.
2/Sự kiện Đỗ Thành Công (9/20/2006), cư dân San José được trả về Mỹ, sau khi công an (lại là Công An TP/HCM chư không ai khác) cáo buộc người nầy những tội danh vô cớ: Kêu gọi đấu tranh dân chủ trên Internet, dự định phá Toà Lãnh Sự Mỹ tại Sài Gòn!
3/Vụ việc trả tự do cho Phạm Hồng Sơn (Hà Nội) sau lần bị kêu án (8/2003) vì tội danh dịch văn kiện "Dân Chủ Là Gì?" - Một bản văn được phổ biến trên mạng lưới thông tin của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ để ai cũng có thể đọc được với một máy computer xách tay!! Tóm lại, qua những sự việc kể trên, chúng tôi không thể quan niệm bài viết trên Báo Công An kia là sản phẩm của một cá nhân tên gọi là Phúc Huy (?!).. Giả thử như bài viết ấy được xuất hiện nơi mục Xã Luận của Báo Nhân Dân, cơ quan thông tin trung ương của đảng cộng sản, hoặc các Tạp Chí Học Tập, Cộng Sản những cơ quan lý luận, tuyên huấn thuộc ủy ban trung ương đảng đi chăng nữa - Chúng ta phải cần nhớ nguyên tắc bất biến, cố định của người, tổ chức cộng sản: Tập thể lãnh đạo. Cá nhân phụ trách. Nhưng tại sao phải đến thời điểm nầy, tháng 9, 2006 mới có loạt bài đả kích, cáo buộc nặng nề với danh tính từng người.. Việt Dũng, Nam Lộc , Trịnh Hội.. nêu lên hàng đầu và đằng sau là những bộ DVD ASIA 50, 51 của Tổ Hợp ASIA/SBTN? Chúng ta cần lưu ý những nguyên nhân khách quan đang xẩy ra..Trong văn kiện dự thảo những điều khoản (sẽ) thi hành về quy chế "Bình Thường Hóa Mậu Dịch-Permanent Normal Trade Relation" (PNTR) có danh mục những văn hóa phẩm của hải ngoại sẽ chính thức được đưa vào trong nước.. Và một trong những mối sợ - Mối lo sợ có thật của những người không tự tin - Như tập đoàn cộng sản cầm quyền ở Việt Nam hằng chứng tỏ họ luôn mắc phải suốt hơn nửa thế kỷ tranh đoạt và củng cố quyền lực.. Cụ thể từ 1975, dẫu đã đoạt thắng quân sự, ổn định chính trị, trục lợi kinh tế, thâu tóm độc quyền tài chánh nhưng họ chưa hề thắng được trên mặt trận Thông Tin- Tuyên Truyền mà đây là sở trường đầy kinh nghiệm (của nhiều lần thâu đoạt thắng lợi) Có thể kể ra: Lần thất bại với vụ việc Trần Trường; lần Cộng Đồng Người Việt Hải Ngoại biểu dương khí thế đoàn kết tri ân Người Lính trong Đại Hội Âm Nhạc Xây Dựng Tượng Đài Việt Mỹ; và gần nhất, dịp Đại Nhạc Hội "Cám Ơn Anh" tháng 6, 2006.
Xuyên qua những sự kiện vừa kể, người cầm quyền Hà Nội phải nhận ra sự thật cay đắng: Chính Nghĩa thuộc về Chúng Ta - Khối Người Việt Hải Ngoại - Những người không chấp nhận chế độ cộng sản bởi một điều giản dị: Đấy là một chế độ độc tài chính trị; áp bức xã hội. Nói theo thành ngữ thông thường: Nhà nước cộng sản Việt Nam hiện tại là một tổ chức "Buôn Dân-Bán Nước". Sợ rằng từ ngữ nầy không diễn tả đủ những tệ hại tập đoàn cầm quyền Hà Nội đã gây nên nếu liệt kê tất cả những tai họa chính trị, thảm trạng xã hội: Nhường đất vùng biên giới, vùng biển cho Trung Cộng; đầy dân ra nước ngoài làm lao nô, ở mướn, mải dâm; áp bức tôn giáo; phá hoại công điền, công thổ; suy thoái môi trường sinh hoạt; bày nên một nền giáo dục vô tính xuống cấp, phi nhân, vô đạo trên học thuyết lỗi thời, không tưởng gọi là xã hội chủ nghĩa..
Nếu phải nhắc lại những tàn phá, hư hoại chi tiết đầy đủ do nhà nước cộng sản gây nên từ sau 1975, e rằng phải lập một bản tường trình không đoạn kết. Thế nên, bây giờ, sắp tiến vào với thế giới văn minh (cụ thể với xã hội Mỹ nơi có Cộng Đồng Người Việt với 1.5 Triệu trong tổng số 3 triệu người hải ngoại thủ đắc tài lực, trí lực..) tập đoàn cầm quyền ở Việt Nam với một "bộ thần kinh đầy lo sợ, mặc cảm" (của kẻ Ác do biết miønh đã gây tội), bày ra những lá chắn hộ thân, thu phục: Nghị Quyết 36, chế lập chính sách đối với Người Việt Hải Ngoại. Một mặt khác, đánh phủ dầu lên những tổ chức, nhân sự hạt nhân tốt lành của hệ thống truyền thanh, truyền hình..
Nhưng sự việc không hẳn chỉ xẩy ra trong tháng 9 vừa qua mà thật sự nhà nước cộng sản Hà Nội đã "báo động đỏ" từ 2005 sau một loạt bị đánh sập bởi Chiến Dịch Tình Thương Chính Nghĩa vừa kể mà thành quả "chiến thắng" có liên quan trực tiếp đến Trung Tâm ASIA với những bộ DVD như Những Tình Khúc Thời Chinh Chiến (ASIA21); Chiến Tranh& Hòa Bình (ASIA29); Người Lính (ASIA36); Hành Trình Tìm Tự Do (ASIA30 Năm: 1975-2005)... Những phát đại pháo có sự tham dự của những MC: Nam Lộc, Thụy Trinh, Lâm Quỳnh.. với góp mặt thường trực trên tuyến đầu là Việt Dzũng. Tập đoàn cầm quyền ở Việt Nam bắt buộc phải báo động - Nhạc Vàng Đang Trở Lại cũng trên tờ Công An TP/HCM (30/7/2005) - Lá chắn hữu hiệu của chế độ công an trị như lời tự đánh giá với cách kiêu ngạo thô tục, quê kệch: "Mắt công an/Gan bộ đội". Cuộc phản công của công an cộng sản không có kết quả vì người dân Việt Nam bây giờ không là những nông dân lạc hậu vùng quê sông Hồng, sông Mã của đầu Thế Kỷ 20, của "Cách mạng tháng 8, 1945" mà là những thị dân (chủ yếu với Sàigòn, miền Nam) với tốc độ phát triển nhanh của Internet, hiện nay có hàng chục website nhạc vàng được mở với những công cụ sao, chuyển tải các ca khúc.. (Bản tin Báo CA/TP/HCM ngày 30/7/05).
Chưa kịp lập lại trận địa thiø ASIA50 bắn phát súng ân huệ khai tử tất cả huyền thoại về "Người lính Cụ Hồ - Quân Đội Nhân Dân anh Hùng - Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành. Kẻ thù nào cũng đánh thắng".. Qua DVD "Nhật TrườngTrần Thiện Thanh" chân dung đích thực của Người Lính VNCH ĐƯỢC TÁI DỰNG LẠI TRUNG TRỰC VAø ĐẦY ĐỦ - Bởi Nhật Trường không hề viết những ca khúc theo lệnh Cục Tâm Lý Chiến, Bộ Chiêu Hồi.. Toàn thể văn nghệ sĩ Miền Nam không hề sáng tác theo yêu cầu chính trị định đặt bởi những ủy viên trung đảng đặc trách văn hóa, tư tưởng - Tiønh trạng dẫn đến sự kiện, những người sáng tác ở Miền Bắc (trước 1975) phải từ chối đứng tên sáng tác phẩm của chính mình. Có người nghệ sĩ nào lại đan tâm hãnh diện với những "tác phẩm" máu me như "Bác cùng chúng cháu hành quân; Giải phóng Miền Nam; Tiếng chày trên sóc Bom Bo.." Trịnh Công Sơn, Phạm Trọng Cầu không hề nhắc những "bài hát cách mạng" của mình.
Cuối cùng, đến ASIA51 thì Nhạc Vàng chính thức chiếm lãnh lại vị trí cao quý sau 30 Năm Nhạc Vàng/Tình Khúc Sau Cuộc Chiến - Nhạc Vàng không hề chết như Tiếng Gọi Bất Diệt tên là Tự Do. Hơn thế nữa, phần lớn nghệ sĩ sáng tác, trình diễn hiện tại không hề là "Ngụy Quân-Ngụy Quyền" mà là những Thật Nghệ Sĩ của Thế Hệ Người Việt thứ Hai nơi hải ngoại - Thế hệ trẻ không chấp nhận chế độ cộng sản dưới những hiønh thức, cường độ, điều kiện xã hội khác nhau.. Chúng tôi những người Việt thuộc thế hệ thứ Nhất (đã hứng chịu đủ đòn thù từ lần thất trận 30/4/75) hãnh diện đứng chung đội ngũ với họ, tin tưởng nơi những người trẻ tuổi trong trận chiến quyết liệt thủ thắng nầy. Con rắn độc cộng sản khi bị đánh dập đầu tất phải quẫy mạnh chiếc đuôi tuyệt vọng của nó.
2. Tiếng Gọi của Tự Do:
Trình bày tổng quát như trên cũng chưa hẳn đầy đủ cho một lời giải thích toàn diện.. Phải có một điều giø riêng biệt khác đối với trường hợp cá nhân Việt Dzũng bị Báo Công An/TPHCM (Tờ báo có số lượng bán nhiều nhất ở Sàigòn, ở Miền Nam, cũng là cả nước) phải nêu đích danh tấn công, tiếp theo là Nam Lộc, Trịnh Hội.. Nhưng Việt Dzũng vẫn là mục tiêu (bị) tập trung tấn công Số 1 mà theo nhận xét của nhiều người thì từ trước tới nay chưa hề có một nhân sự thuộc phía quốc gia nào bị đánh phá dữ dội như thế (kể cả trường hợp Lý Tống(!)..
Với khách quan cần thiết, đến đây chúng ta phải nhận ra rằng, tờ báo công an kia (Ở đâu trên thế gian nầy có những tờ báo riêng của ngành công an (của mỗi thành phố) hở trời?) quả đã chọn "đúng mục tiêu, đối tượng" để dồn lực vây đánh, truy nã. Bởi nếu xem lại những DVD ASIA21, 29, 35.. và 50, 51 kể trên chúng ta hẳn thấy đây là một cuộc tấn công theo ngôn ngữ quân sự là một kế hoạch đồng bộ, dứt điểm, diệt gọn.. Bảy mươi năm hơn kể từ ngày thành lập Đảng Cộng Sản Đông Dương (3/2/1930); sáu mươi năm hơn thành lập nhà nước cộng sản (2/9/1945), sau những lần gọi "thắng lợi từng phần 1954, 1968, 1972.." để tiến tới đoạt thắng 30 tháng 4, 1975 làm "bạn bè năm châu phải hãnh diện; kẻ thù cũng khâm phục - Nhóm từ ngữ mà người và chế độ cộng sản tự tuyên dương"...
Cuối cùng, nhà nước, chế độ đánh lừa được cả thế giới kia lộ nguyên trạng là một chế độ vô nhân, vô đạo, vô tính, phi dân tộc gớm ghê thâm độc nhất của lịch sử dân tộc Việt và nhân loại. Đốt sách chôn học trò của Tần Thủy Hoàng đầu Công Nguyên đâu thấm gì so với chính sách tận diệt "văn hóa ngụy và bọn ngụy miền Nam"; chước "ăn cướp ban ngày" dấy lên từ người đến miền Bắc đối với thị dân "Ngụy dân Miền Nam" sau ngày 30 tháng Tư, 1975. Sự kiện nầy hiện thực: "Sinh Bắc Tử Nam" không là Khẩu hiệu chiến thuật để kích thích tác chiến nơi chiến trường nhưng là Chính sách chiến lược đưa người-việc-vật từ Miền Bắc vào xâm thực, đồng hóa Miền Nam.." Tây Nguyên nay là "Hà-Nam-Ninh hóa"; Huế là "Quảng Bình Hóa"; toàn bộ khu Lê Lợi, Tự Do, Lê Thánh Tôn Sài Gòn nay tràn ngập một loại cư dân với cách phát âm vùng núi Thanh-Nghệ-Tỉnh. Và Người Việt trả lời cuộc xâm thực bất cận nhân tình nầy với HÀNH TRÌNH TÌM TỰ DO nên thành với 600,000 NGƯỜI CHẾT dọc biên giới Việt-Miên-Thái; trên biển Đông, nơi vùng Đất Không Người ở phương Bắc. Khối đông Văn Nghệ Sĩ thuộc nhiều thế hệ đã hiện thực sứ mạng Phát Ngôn cuộc hành trình vĩ đại bi thảm không tiền khoáng hậu của Dân Tộc Việt.
Nam Lộc "Gã Gangster Trên Sân Khấu Hải Ngoại"
Người cộng sản hẳn nhiên phải phản công bằng cách bôi bẩn bằng lượng máu đầm điøa ác độc dính tràn trên miệng lưỡi của họ (Máu của vạn triệu người xé thân, chấp nhận trả giá cái chết để được Sống (hoặc Chết) Tự Do) qua cáo buộc ngang ngược: Những ca khúc "Kinh Tỵ Nạn; Lưu Vong Khúc"của Việt Dzũng là nhân tố kích thích, thúc dục làn sóng người vượt biên trong hai hập niên 70, 80!! Tóm lại, cá nhân Việt Dzũng chỉ là một "cái cớ" - Cái cớ cụ thể mang tổng số của nhiều người thuộc thế hệ của anh và những người trẻ hơn. Chúng tôi có thể lập lại nguyên tắc đã một lần nói rõ: KHÔNG HỀ CÓ VẤN ĐỀ CÁ NHÂN TRONG VẬN ĐỘNG ĐẤU TRANH CỦA CỘNG SẢN. Cá Nhân hoàn toàn chỉ là công cụ của Tổ Chức. Cũng thế, họ không đả kích một cá nhân vì lỗi riêng của mỗi cá nhân ấy - Mà vì Cá Nhân ấy là thành phần của Tổ Chức Địch. Cũng cần nhắc lại lý do nẩy sinh từ sự kiện sẽ gia nhập WTO, hưởng quy chế PNTR (như trên đã trình bày).. Nhà nước cộng sản SẼ KHÔNG NHẬN NHỮNG VĂN HÓA PHẨM HẢI NGOẠI DO NẠI CỚ - "CHÚNG ĐƯỢC THỰC HIỆN BỞI NHỮNG NHÂN SỰ, TỔ CHỨC BỊ DƯ LUẬN QUẦN CHÚNG NHÂN DÂN CHỐNG ĐỐI" – CÔNG VIỆC MÀ HIỆN NAY HỌ ĐANG CHUẨN BỊ, THỰC HIỆN VỚI "CỚ SỰ VIỆT DŨNG VÀ NHỮNG SẢN PHẨM CỦA ASIA".
Với tư cách là Người Lính, cá nhân bản thân có thể thêm lời nhận xét mà không sợ sai lầm: DVD/ASIA50 với Nhật Trường Trần Thiện Thanh đã hoàn thành một cách xuất sắc công việc mà cả Tổng Cuộc Chính Tranh Chính Trị/QLVNCH ngày trước đã không thực hiện được.. Người Thương Phế Binh được phục hồi lại danh dự cao quý của Người Lính Chiến Đấu Giữ Quê Hương qua Đại Nhạc Hội "Cám Ơn Anh".. Sức mạnh nhân bản của Nhóm Nhân Văn-Giai Phẩm ở Miền Bắc (1956, 1957) với lời thơ xa xót thương tâm, "..Em bé lên sáu tuổi. Lủi thủi kiếm miếng ăn. Cha cường hào nợ máu. Đã trả trước nhân dân.." nay được sống lại qua đoạn đối thoại giải bày thương tâm của Hoàng Cầm thực hiện bởi Trịnh Hội trong ASIA51.. Ai làm được thành quả đáng tự hào nầy nếu không phải Thế Hệ Người Việt thứ Hai nơi hải ngoại nầy cùng với các hội đoàn của thế hệ người Việt thứ Nhất - Nạn nhân trực tiếp của đòn thù cộng sản.
3. Mặt Trận Văn Hóa-Tư tưởng:
Qua kinh nghiệm thực tế (cụ thể từ 1975) chúng tôi nhận ra rằng chính sách chuyên chế của nhà nước cộng sản Hà Nội quả là một chủ nghĩa độc tài toàn trị mà mặt trận "Văn Hóa-Tư Tưởng" là diễn trường hàng đầu trong "Ba Dòng Thác Cách Mạng" - Cuộc cách mạng suýt nữa đã xô đẩy cả nhân loại vào vực thẳm hủy diệt nếu không có lần sụp đổ của Liên Sô (1991). Nhưng đau thương và oan nghiệt thay, dân tộc Việt vẫn phải mãi vác nặng cơn đày đọa trầm kha không dấu hiệu chấm dứt.. Năm 1948, Trường Chinh khởi động thực hiện "Đề Cương Văn Hóa Việt Nam" tại Đại Hội Văn Hóa Liên Khu IV để vận động, hiện thực hóa "12 Điều Dạy của Hồ Chủ Tịch"- Những huấn thị có giá trị chỉ đạo tối thượng như 10 Điều Răn của Chúa, Đạo Ky-Tô; hoặc Ngũ Giới của Đạo Phật.. Tất cả không là chữ nghĩa suông, mà còn có tác dụng mạnh mẽ, hiệu lực về mặt chính trị, quân sự, xã hội, đạo đức không chỉ riêng đối với đảng viên cộng sản. Chúng đã biến tướng nên thành một thái độ sống, nguyên lý đạo đức, loại hiønh văn hóa chỉ đạo, khống chế toàn bộ xã hội Việt Nam trước 1975 ở Miền Bắc, và sau 1975 chung cho cả nước.
Lấy đan cử một trường hợp với nạn nhân điển hiønh của chính sách bức hại văn hóa có hệ thống nầy.. Tiên Siuh Phan Khôi thuộc về một gia điønh với những nhân vật kiệt liệt như Tổng Đốc Hoàng Diệu (người tự vẫn cùng thành Hà Nội năm 1882). Năm 1908, vừa qua hai mươi tuổi, khi đang theo học ở Hà Nội, do cớ tham gia phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục, cũng như bị nghi ngờ có dính líu với vận động xin giảm xâu thuế ở Quảng Nam, chính quyền bảo hộ Pháp dẫn độ Phan Khôi về quê nhà, tống giam ông vào nhà lao Hội An chung với những nhà cách mạng Trần Quý Cáp, Huỳnh Thúc Kháng, và nhiều nhân sĩ đồng hươngï người Quảng khác. Mãi đến năm 1914, nhân có chiến tranh với Đức (Đại chiến thế giới lần I), Toàn Quyền Đông Dương Albert Sarraut cho lệnh ân xá tù nhân chính trị, ông Tú Phan Khôi mới được ra khỏi nhà giam cùng lần với những nhà hoạt động chính trị thuộc lớp lớn tuổi hơn sau khi lợi dụng năm tháng trong tù để học thêm Pháp Ngữ với cụ Ưng Diễn, một nhà giáo sinh ngữ hiếm hoi đầu thế kỷ.
Với tâm chất, trí sáng và khả năng văn hóa nêu trên, từ những năm đầu tiên của thập niên 30, Phan Khôi đã là một ngôi sao sáng của làng văn, báo giới nước Việt từ Bắc vào Nam. Đối với những vấn đề của hoàn cảnh xã hội Việt Nam buổi đầu Thế Kỷ 20, khi đề cập những người nữ gặp cảnh truân chuyên, ông đã có nhận xét thắm thiết nhân ái do từ mối từ tâm, xúc động chân thật: "..Đàn bà con gái, có những người nết na tài sắc, mười phần được cả mười mười, chỉ viø lỡ cái bước đầu, thành ra lỡ luôn, thậm chí có khi ra con người hư, bị xã hội rẽ rúng.. Những người ấy nếu là người dốt thì thôi, cái bạc mạng của họ sẽ cùng nước chảy hoa trôi mà biến đi đâu mất. Nhưng nếu là người có chút tài hoa, biết đem câu thơ mà tả cái khổ tâm, khổ cảnh của mình, thì chẳng khác nào lưu lại một vết thương tâm chung cho cả người đời". Hoặc ông đặt vấn đề thủ tiết của người đàn bà (bị cảnh góa bụa lúc còn trẻ) một cách hợp lý, và nhân bản hơn: "..Khi hạ người đàn bà tái giá (chồng mất khi còn trẻ) xuống, thì trưng người đàn bà thủ tiết lên. Nhà vua bèn ban chiếu sắc, cấp bảng vàng sinh biểu cho những người nào ở goá trọn đời hay chết theo chồng. Những ân điển ấy thường tiønh lấy làm vinh hạnh lắm, song nghĩ cho kỹ chỉ là cái biểu hiện ích kỷ của đàn ông, và cũng là cái xiềng trói đàn bà lại". Chúng ta lưu ý, Phan Khôi đã đặt vấn đề "Nam Nữ Bình Quyền" trước nhóm Tự Lực Văn Đoàn hơn một thập niên; khởi đầu luận lý giải phóng phụ nữ qua văn tự, báo chí trước Simone de Beauvoir, Germain Greer hằng nửa thế kỷ.
Nhưng quan trọng hơn hết, về phương diện chính trị, con người chính trực, trí sáng nầy hiểu rõ thực chất của chủ nghĩa cộng sản (ngụy trang qua phong trào giải phóng dân tộc của Mặt Trận Việt Minh do Hồ Chí Minh lãnh đạo) sớm sủa và chính xác hơn ai hết, do đã chứng kiến sự kiện cán bộ cộng sản trong Mặt Trận Việt Minh tàn sát lực lượng cách mạng quốc gia, vụ đòi phá đền thờ Hoàng Diệu.. Nhưng bởi Phan Thao, con của ông đang là ủy viên trong Ủy Ban Trung Bộ, cụ Huỳnh Thúc Kháng, bạn tù, cũng là người đồng hương đang làm bộ trưởng nội vụ, nên đám cán bộ địa phương chỉ báo cáo ra Bắc để nơi trung ương nầy giải quyết. Cuối cùng, Hồ Chí Minh đích thân viết thư mời Phan Khôi ra Bắc, thực chất là để giam lỏng qua tay người em họ, Phan Bôi hay Hoàng Hữu Nam, thứ trưởng nội vụ. Chín năm chiến tranh (1945-1954), Phan Khôi chuyên dịch sách chữ Pháp, Hán văn sang tiếp Việt, chịu đựng tiønh cảnh bi thiết, lẻ loi giữa những con người mà ông không hề có ý niệm sống cùng. Đêm Giao Thừa, ông viết bài thơ ngắn diễn tả niềm u uất:
Độc dạ quá trừ tịch
Cánh võ đăng khả thân..
"Qua giao thừa
một mình Đèn làm bạn không có"
(PNN)
Tháng 10, 1955 bộ đội cộng sản tiếp thu Hà Nội, ông về thành phố, trong một bữa ăn khoản đãi, chỉ vào dĩa thịt gà, nói câu cay đắng bi hài: "Chín năm nay mới thấy lại mặt mày". Nhưng thời gian khổ cực nơi núi rừng, sự thiếu thốn vật chất, nỗi cách xa gia điønh, đơn độc giữa đồng loại
không làm ôngï ngã lòng, mối khổ tâm nhất là phải chịu im lặng trước những điều bất công, sự áp đặt. Nay về lại Hà Nội, không phải gánh nặng yêu cầu của nghĩa vụ kháng chiến nữa, ông khai pháo mở đầu phong trào Nhân Văn với Giai Phẩm Mùa Thu, 1956, qua bài viết Phê Bình Lãnh Đạo Văn Nghệ: "Tôi thấy vấn đề (lãnh đạo văn nghệ) đặt như thế không đúng. Sự thật trước mặt chúng ta không có vấn đề như thế. Bao nhiêu văn nghệ sĩ không luận ở Việt Bắc, ở Nam Bộ, ở Khu V đều đã ở trong Hội Văn Nghệ, đều đã bằng lòng chịu lãnh đạo rồi. Còn những văn nghệ sĩ ở trong vùng mới giải phóng, họ còn ở lại đây tức là họ rắp tâm chịu lãnh đạo, nếu không thì họ đã đi vào Nam. Tóm lại, văn nghệ sĩ hiện nay có mặt ở Miền Bắc không ai tự do bừa bãi hết."
Đến đây, chúng ta có thể kết luận về một điều khắc nghiệt thê thảm qua tìm hiểu về những bản văn mà Phan Khôi đã viết nên trong giai đoạn sau khi về Hà Nội mà hậu quả tác dụng thật sự là vô hại (nếu không nói là hữu ích) cho việc xây dựng, củng cố quyền lực chính trị của chế độ: Hóa ra, con người có thể là nạn nhân do những chữ viết trung thực của mình với hoàn cảnh oan ức bi thiết nhất. Trái lại ở đây, Phan Khôi đã trở nên là đối tượng bị lăng nhục, đánh dập do cớ sự đã tạo nên một nhân vật (của một loại truyện ngắn, hồi ký) có đôi điều nhận xét về những vụ việc, phong tục đơn giản, hằng ngày mà bị kết án là viết, nói lên những điều "xảo hoạt, ranh vặt để đả kích chế độ, xúc phạm lãnh tụ (!)" Hơn thế nữa, vấn đề không chỉ hạn chế với phê bình, và phản phê bình trong lãnh vực văn hoáù, phạm vi văn nghệ qua những bài bút chiến. Quyền lực chính trị vận dụng dựng nên một phong trào chưởi hùa.. Người làm văn hóa, văn nghệ miền Bắc được lệnh chưởi theo cách a dua, tập trung đánh dập vùi anh em văn hữu của miønh không thương tiếc. Và họ đã chưởi tận tình ("Chưởi có khí thế": Từ ngữ đặc trưng miền Bắc), chưởi đạt, vượt quá "chỉ tiêu yêu cầu do lãnh đạo đề ra" ..Chúng ta nghe qua một đoạn chưởi: Bây giờ - mà có phải mới bây giờ đâu - cái bộ mặt thật của Phan Khôi đã bị lột trần ra, cũng như nhiều khi y bị lột trần ra, Phan Khôi là một tên xão quyệt, phản phúc, một tên làm tay sai cho đế quốc, lợi dụng sự khoan hồng của cách mạng và chính sách đãi ngộ rất tốt của đảng, để chống lại đảng, chống lại chế độ."(9). Kẻ "chửi mướn" nầy là Đoàn Giỏi, nhưng sau khi dùng hết chữ, nghĩa kể trên, y ta bị hạ tầng công tác vì có kẻ khác thế chỗ với lập luận phản phé: "Giỏi chỉ "chưởi giả vờ". Rút kinh nghiệm của Giỏi, Phùng Bảo Thạch chửi hay hơn, có căn cơ ngọn ngành kiểu đàn bà thôn quê miền Bắc khi bị mất gà với bài bản gồm khởi đầu, đoạn giữa, và kết thúc.
Hãy nghe "bản chưởi" của Thạch: "Năm 1916, Pháp bị sa lầy trong chiến tranh ở Châu Âu.. Ngay từ buổi đầu mất nước, mối thù không đội trời chung với thực dân âm ỉ cháy trong lòng người Việt. Thái Phiên và Trần Cao Vân bắt liên lạc với vua Duy Tân rồi cùng mưu tính cuộc khởi nghĩa. Nhưng có kẻ phản bội ngầm báo cho Pháp, nên khi vua Duy Tân ban đêm bí mật vừa ra khỏi thành Huế thì bị bắt. Phan Khôi cũng là một người được tham dự trong việc thảo tờ chiếu chỉ của vua Duy Tân gởi cho những nhân sĩ yêu nước Quảng Nam, Quảng Ngãi, và sau đó lại báo cáo cho tụi quan cai trị Pháp và tổng đốc tỉnh để tâng công" Hoá ra vụ khởi nghĩa của vua Duy Tân và các vị Trần Cao Vân, Thái Phiên thất bại là do Phan Khôi báo cho mật thám Pháp?!
Tương tự như thế, chúng ta nghe tiếp luận cứ buộc tội của người cộng sản: "Các ông Phan Điønh Phùng, Cao Thắng sở dĩ thua trận quân Pháp là do bọn ngụy quân, ngụy quyền phá hoại xưởng làm súng của hai ông... Và sau nầy chúng (bọn Ngụy (?!) "giả vờ" lấy đặt tên hai ông đặt cho trường học, đường phố Sài Gòn để đánh lừa nhân dân yêu nước vậy!".
Để điều cáo buộc trên có cơ sở, nên Phùng Bảo thạch đưa chứng cớ: "Sau đó Phan Khôi ra Bắc viết báo Nam Phong của Phạm Quỳnh với công tác mật. Phan Khôi được Mác-ty (Chánh sở mật thám) gọi ra làm việc cạnh nó và viết báo cho Nam Phong. Trong phòng kín, Phan Khôi hàng ngày làm việc gì cho Mác-ty để được nó tin dùng hơn?" Thạch có kết luận: "Trên giấy trắng mực đen, Phan Khôi chỉ mới bộc lộ phần nào lời trắng trợn tệ bạc lòng bất nhân đê tiện đối với đất nước, đối với đồng bào.. Những người không bao giờ ngờ y đã đều đặn ký giấy nhận tiền của các tên trùm mật thám.. với cái lý luận đê mạc "chó ăn cứt" của y trong phòng Mác-ty!!"
Hơn nửa thế kỷ đi qua, hôm nay, chúng ta đọc lại những bản văn chưởi bới từ một quán tính hạ tiện không khỏi đặt nên câu hỏi nặng lòng: "Người có thể hạ nhục nhau nặng nề từ, với cớ sự gây nên bởi những dòng chữ viết như thế hay sao?" Cuối cùng, nghệ thuật chưởi hùa được "nâng cấp" cao nhất với Nguyễn Công Hoan để lấy lòng đảng sau khi bị thất sủng. Nhân ngày 70 tuổi, Phan Khôi viết bài thơ ngắn, mở đầu với hai câu tự thán:
"Lên 70 rồi mẹ nó ơi.
Thọ ta ta chúc nọ phiền ai.."
Hoan nghe lén được (phải là nghe lén do rình rập, trông chừng, vì bài thơ không đăng lên báo), bèn làm một bài "đáp từ" với ngôn ngữ điêu luyện đặc trưng của "xã hội xã hội chủ nghĩa tiên tiến":
Nhắn bảo Phan Khôi khốn kiếp ơi
Thọ mi, mi chúc chớ hòng ai
Văn chương, đù mẹ thằng cha bạc
Tiết tháo tiên sư cái mẽ ngoài..
Thái độ vô lại nầy không phải của riêng cá nhân Nguyễn Công Hoan nhưng là dấu hiệu "tiến bộ của kẻ có lập trường cách mạng kiên định" như Nguyễn Khải (Tổng Thư Ký Hội Nhà Văn) đã từng lên mặt răn đe Nguyễn Huy Tưởng trong buổi học tập "đấu" nhóm Nhân Văn: "..Đây không phải là cuộc đấu tranh giữa anh em nội bộ. Đây là cuộc đấu tranh giữa ta và địch!!"
Chúng ta có thể kết luận: Chế độ ở Hà Nội kia quả đã tạo ra một môi trường thuận lợi và khả dụng bậc nhất để khai thác, nẩy nở những hành vi, ngôn ngữ tồi tệ mà bản năng cuồng khấu nơi con người hằng nuôi dưỡng qua tính ác tiềm ẩn mà nếu là người có lương tri, lương năng nhất định phải loại trừ. Khác với Mao Trạch Đông đánh giá trí thức không bằng cục phân, bộ chính trị trung ương đảng cộng sản Việt Nam giao cho trí thức, văn nghệ sĩ Việt Nam (cho dù đấy là Nguyễn Mạnh Tường, Trần Đức Thảo, những người có học vị cao nhất từ những đại học lớn của Pháp) nhiệm vụ cụ thể hơn: Đi gánh phân, lao động cải tạo (gọi là lao động thực tế) ở các công, nông trường. Thập niên 60-70, mối họa tương tranh đã đi xa hơn, vào cuối đất Miền Nam, nơi Sài Gòn, mở rộng ra đánh lừa cả thế giới, những người tuổi trẻ xuống đừng nơi trường Đại Học Kent, Ohio; công viên Berkeley ở CA; Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc, bà Thủ Tướng Gandhi.. Và hôm nay, sức đánh phá kia tác động đến cả khối người Việt mà mấy mười năm trước đây hằng phải chịu bao điều nghiệt ngã, vượt qua nỗi chết, với cái chết nhục thảm ghê khiếp trên đường vượt biên để đến đất Mỹ..
Hôm nay, cuối năm 2006, và mãi mãi như một "quán tính" dính chắc vào máu, nơi tiếng nói, sâu hơi thở - Danh tính "bọn Ngụy" vẫn còn nguyên trên miệng lưỡi, sách, báo (của người cộng sản) ở Việt Nam với cách lăng nhục có hệ thống điễn hiønh như của "Báo Công An TP/HCM" số tháng 9/2006 đối với các Hội Đoàn Người Việt Hải Ngoại, Cơ Sở Truyền Hình ASIA/SBTN, tập thể và cá nhân những Văn Nghệ Sĩ tranh đấu cho Phong Trào Tự Do-Dân Chủ nơi quê nhà, ở nước ngoài .. Tất cả không là hiện tượng tự phát của riêng một tờ báo ấy mà (luôn) là một chủ trương có kế hoạch được điều hành từ cấp trung ương ở Hà Nội. Khi đã khinh miệt thượng đế, đầy đọa đồng bào thì còn gì có thể cản ngăn kẻ cầm quyền ngần ngại, không dám thực hiện:
Trời không có thiên thần
Đất không có thánh nhân
Chỉ có nhân dân thần thánh
Và đảng ta làm nên sức mạnh
Bay đến chân trời..
Nguyễn Bính thi sĩ trữ tình hàng đầu của thi ca Việt Nam phải tự tử chết với độc dược hòa cùng chén rượu đầm điøa uất hận do bị đánh vùi qua vụ Báo Trăm Hoa viø đã ra câu đối "Diêm Thống Nhất giá không thống nhất" - Câu đối gây nên tội: "Phá hoại hệ thống mậu dịch của nhà nước!" Nguyễn Bính đã bị mang ra đấu do lệnh của Phạm Văn Đồng, thủ tướng chính phủ. Nhà thơ lãng mạng tiền chiến chết trong cảnh tượng bi phẫn thương tâm qua lời thơ của Trần Mạnh Hảo:
Năm ấy trước đêm giao thừa trên ổ rơm
Anh gục xuống nhờ bạn bè vuốt mắt
Miệng còn chóp chép thèm cơm
Anh chết rồi còn bạc tóc
Ôi giấc mơ bị thương
Hết hành Phương Nam, lại phải hành Phương Bắc
Thời thế vô tâm như kẻ qua đường..
Cuối Thế Kỷ 20, đầu Thiên Niên Kỷ thứ Ba, những nhà văn, người viết thơ, làm nghệ thuật ở Việt Nam: Lưu Quang Vũ, Tiêu Dao Bảo Cự, Bùi Minh Quốc.. tiếp tục bị bức hại vì chữ, nghĩa của mình. Những người tranh đấu thuộc về nhiều thế hệ, không phân biệt Nam, Bắc: Nguyễn Đan Quế, Phạm Hồng Sơn, Nguyễn Vũ Biønh, Phạm Khắc Toàn.. luôn là đối tượng bị truy nã, khủng bố do những tiếng lời của họ viết, nói lên. Nếu chúng ta so nội dung (bị kết tội) nầy với bản đề cương đầu tiên của Trường Chinh, cũng như đặt cạnh cáo trạng Bản Án Thực Dân Pháp mà Nguyễn Ái Quốc (tiếm dụng danh xưng của "Nhóm Ngũ Long" gồm, Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn An Ninh, và Nguyễn Tất Thành) trình đến những nhà lãnh đạo cường quốc Hội Nghị Versailles năm 1919, thiø thấy ra hoàn toàn không có gì khác biệt. Cũng không khác nếu so sánh toà án xét xử những người tranh đấu cho Tự Do-Dân Chủ hiện tại với phiên tòa xử Nguyễn Bính cách nhau gần nửa thế kỷ - Tất cả đồng một danh hiệu có chung một "quán tính bất nhân": Toà Án Nhân Dân.
Chúng ta hẳn hiểu vì sao các cá nhân và tập thể tổ chức văn nghệ sĩ hải ngoại bị truy chụp, đánh phá. Chúng ta phải hiểu viø đấy là do Người và Chế độ cộng sản ở Hà Nội, Việt Nam.
Chúng tôi không thể liệt kê thêm những điều cáo buộc vô lại như trên do quan niệm: Nếu một cá nhân có đôi phần lương tri, giáo dục tối thiểu không thể nào xử dụng chữ, nghĩa để viết nên những điều tệ hại đáng hổ thẹn như kia xong đem phổ biến trên trang báo của một cơ quan công quyền. Chúng tôi cũng không thể hình dung đầu Thế Kỷ 21 (sau hơn một trăm năm báo chí Việt Ngữ) sự kiện một cơ quan thông tin thuộc tổ chức nhà nước đang cầm quyền đã điều động, phổ biến những bài viết có mục tiêu bôi bẩn một cá nhân bằng cách dựng đứng, lu loa những "tội ác" không tưởng - Nội dung thể loại phóng sự hạ đẳng của thứ hạng báo chí cố gây kích thích nơi những người đọc nhỏ tuổi, tò mò, văn hóa thấp, không khả năng suy luận.. Nhưng tất cả đã được hợp lý hóa, hợp pháp hóa, quyền lực hóa bởi những cơ quan gọi là "công an nhân dân; toà án nhân dân"- Những cơ quan đầu não của hệ thống cầm quyền có chức năng, nhiệm vụ gọi là "bảo vệ an ninh tổ quốc". Để tìm hiểu quái tượng vô nghĩa lý nầy, bài viết nầy từ đấy cần phải viết nên
1. Nguyên Nhân/Diễn tiến:
Không phải bất ngờ và vô cớ những người cầm quyền ở Việt Nam đồng lần gây nên một loạt "sự cố" nói theo ngôn ngữ của chế độ cộng sản trong nước những vụ việc sau đây:
1/ Yêu cầu dẫn độ Lý Tống về Việt Nam (Với mục đích giø? Xét về tội danh gì? Hình phạt dự trù như thế nào?) mà chúng tôi quan niệm rằng, đây chỉ là một chiêu thức (cố ý dằn mặt) của kẻ cầm quyền ở trong nước (nhân kỳ thăm viếng sắp tới của Tổng Thống Hoa Kỳ), để sau đó sẽ khoan hồng ân xá Lý Tống (cũng để cố ý chứng tỏ họ có thực quyền và lòng khoan hồng), đồng thời hóa giải mục tiêu đấu tranh của cộng đồng người Việt hải ngoại.. Tóm lại, đây là một mũi tên với nhiều mục tiêu mà bất luận diễn tiến kết quả như thế nào cũng đem lại nhiều tác dụng ưu thế cho nhà cầm quyền Hà Nội.
2/Sự kiện Đỗ Thành Công (9/20/2006), cư dân San José được trả về Mỹ, sau khi công an (lại là Công An TP/HCM chư không ai khác) cáo buộc người nầy những tội danh vô cớ: Kêu gọi đấu tranh dân chủ trên Internet, dự định phá Toà Lãnh Sự Mỹ tại Sài Gòn!
3/Vụ việc trả tự do cho Phạm Hồng Sơn (Hà Nội) sau lần bị kêu án (8/2003) vì tội danh dịch văn kiện "Dân Chủ Là Gì?" - Một bản văn được phổ biến trên mạng lưới thông tin của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ để ai cũng có thể đọc được với một máy computer xách tay!! Tóm lại, qua những sự việc kể trên, chúng tôi không thể quan niệm bài viết trên Báo Công An kia là sản phẩm của một cá nhân tên gọi là Phúc Huy (?!).. Giả thử như bài viết ấy được xuất hiện nơi mục Xã Luận của Báo Nhân Dân, cơ quan thông tin trung ương của đảng cộng sản, hoặc các Tạp Chí Học Tập, Cộng Sản những cơ quan lý luận, tuyên huấn thuộc ủy ban trung ương đảng đi chăng nữa - Chúng ta phải cần nhớ nguyên tắc bất biến, cố định của người, tổ chức cộng sản: Tập thể lãnh đạo. Cá nhân phụ trách. Nhưng tại sao phải đến thời điểm nầy, tháng 9, 2006 mới có loạt bài đả kích, cáo buộc nặng nề với danh tính từng người.. Việt Dũng, Nam Lộc , Trịnh Hội.. nêu lên hàng đầu và đằng sau là những bộ DVD ASIA 50, 51 của Tổ Hợp ASIA/SBTN? Chúng ta cần lưu ý những nguyên nhân khách quan đang xẩy ra..Trong văn kiện dự thảo những điều khoản (sẽ) thi hành về quy chế "Bình Thường Hóa Mậu Dịch-Permanent Normal Trade Relation" (PNTR) có danh mục những văn hóa phẩm của hải ngoại sẽ chính thức được đưa vào trong nước.. Và một trong những mối sợ - Mối lo sợ có thật của những người không tự tin - Như tập đoàn cộng sản cầm quyền ở Việt Nam hằng chứng tỏ họ luôn mắc phải suốt hơn nửa thế kỷ tranh đoạt và củng cố quyền lực.. Cụ thể từ 1975, dẫu đã đoạt thắng quân sự, ổn định chính trị, trục lợi kinh tế, thâu tóm độc quyền tài chánh nhưng họ chưa hề thắng được trên mặt trận Thông Tin- Tuyên Truyền mà đây là sở trường đầy kinh nghiệm (của nhiều lần thâu đoạt thắng lợi) Có thể kể ra: Lần thất bại với vụ việc Trần Trường; lần Cộng Đồng Người Việt Hải Ngoại biểu dương khí thế đoàn kết tri ân Người Lính trong Đại Hội Âm Nhạc Xây Dựng Tượng Đài Việt Mỹ; và gần nhất, dịp Đại Nhạc Hội "Cám Ơn Anh" tháng 6, 2006.
Xuyên qua những sự kiện vừa kể, người cầm quyền Hà Nội phải nhận ra sự thật cay đắng: Chính Nghĩa thuộc về Chúng Ta - Khối Người Việt Hải Ngoại - Những người không chấp nhận chế độ cộng sản bởi một điều giản dị: Đấy là một chế độ độc tài chính trị; áp bức xã hội. Nói theo thành ngữ thông thường: Nhà nước cộng sản Việt Nam hiện tại là một tổ chức "Buôn Dân-Bán Nước". Sợ rằng từ ngữ nầy không diễn tả đủ những tệ hại tập đoàn cầm quyền Hà Nội đã gây nên nếu liệt kê tất cả những tai họa chính trị, thảm trạng xã hội: Nhường đất vùng biên giới, vùng biển cho Trung Cộng; đầy dân ra nước ngoài làm lao nô, ở mướn, mải dâm; áp bức tôn giáo; phá hoại công điền, công thổ; suy thoái môi trường sinh hoạt; bày nên một nền giáo dục vô tính xuống cấp, phi nhân, vô đạo trên học thuyết lỗi thời, không tưởng gọi là xã hội chủ nghĩa..
Nếu phải nhắc lại những tàn phá, hư hoại chi tiết đầy đủ do nhà nước cộng sản gây nên từ sau 1975, e rằng phải lập một bản tường trình không đoạn kết. Thế nên, bây giờ, sắp tiến vào với thế giới văn minh (cụ thể với xã hội Mỹ nơi có Cộng Đồng Người Việt với 1.5 Triệu trong tổng số 3 triệu người hải ngoại thủ đắc tài lực, trí lực..) tập đoàn cầm quyền ở Việt Nam với một "bộ thần kinh đầy lo sợ, mặc cảm" (của kẻ Ác do biết miønh đã gây tội), bày ra những lá chắn hộ thân, thu phục: Nghị Quyết 36, chế lập chính sách đối với Người Việt Hải Ngoại. Một mặt khác, đánh phủ dầu lên những tổ chức, nhân sự hạt nhân tốt lành của hệ thống truyền thanh, truyền hình..
Nhưng sự việc không hẳn chỉ xẩy ra trong tháng 9 vừa qua mà thật sự nhà nước cộng sản Hà Nội đã "báo động đỏ" từ 2005 sau một loạt bị đánh sập bởi Chiến Dịch Tình Thương Chính Nghĩa vừa kể mà thành quả "chiến thắng" có liên quan trực tiếp đến Trung Tâm ASIA với những bộ DVD như Những Tình Khúc Thời Chinh Chiến (ASIA21); Chiến Tranh& Hòa Bình (ASIA29); Người Lính (ASIA36); Hành Trình Tìm Tự Do (ASIA30 Năm: 1975-2005)... Những phát đại pháo có sự tham dự của những MC: Nam Lộc, Thụy Trinh, Lâm Quỳnh.. với góp mặt thường trực trên tuyến đầu là Việt Dzũng. Tập đoàn cầm quyền ở Việt Nam bắt buộc phải báo động - Nhạc Vàng Đang Trở Lại cũng trên tờ Công An TP/HCM (30/7/2005) - Lá chắn hữu hiệu của chế độ công an trị như lời tự đánh giá với cách kiêu ngạo thô tục, quê kệch: "Mắt công an/Gan bộ đội". Cuộc phản công của công an cộng sản không có kết quả vì người dân Việt Nam bây giờ không là những nông dân lạc hậu vùng quê sông Hồng, sông Mã của đầu Thế Kỷ 20, của "Cách mạng tháng 8, 1945" mà là những thị dân (chủ yếu với Sàigòn, miền Nam) với tốc độ phát triển nhanh của Internet, hiện nay có hàng chục website nhạc vàng được mở với những công cụ sao, chuyển tải các ca khúc.. (Bản tin Báo CA/TP/HCM ngày 30/7/05).
Chưa kịp lập lại trận địa thiø ASIA50 bắn phát súng ân huệ khai tử tất cả huyền thoại về "Người lính Cụ Hồ - Quân Đội Nhân Dân anh Hùng - Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành. Kẻ thù nào cũng đánh thắng".. Qua DVD "Nhật TrườngTrần Thiện Thanh" chân dung đích thực của Người Lính VNCH ĐƯỢC TÁI DỰNG LẠI TRUNG TRỰC VAø ĐẦY ĐỦ - Bởi Nhật Trường không hề viết những ca khúc theo lệnh Cục Tâm Lý Chiến, Bộ Chiêu Hồi.. Toàn thể văn nghệ sĩ Miền Nam không hề sáng tác theo yêu cầu chính trị định đặt bởi những ủy viên trung đảng đặc trách văn hóa, tư tưởng - Tiønh trạng dẫn đến sự kiện, những người sáng tác ở Miền Bắc (trước 1975) phải từ chối đứng tên sáng tác phẩm của chính mình. Có người nghệ sĩ nào lại đan tâm hãnh diện với những "tác phẩm" máu me như "Bác cùng chúng cháu hành quân; Giải phóng Miền Nam; Tiếng chày trên sóc Bom Bo.." Trịnh Công Sơn, Phạm Trọng Cầu không hề nhắc những "bài hát cách mạng" của mình.
Cuối cùng, đến ASIA51 thì Nhạc Vàng chính thức chiếm lãnh lại vị trí cao quý sau 30 Năm Nhạc Vàng/Tình Khúc Sau Cuộc Chiến - Nhạc Vàng không hề chết như Tiếng Gọi Bất Diệt tên là Tự Do. Hơn thế nữa, phần lớn nghệ sĩ sáng tác, trình diễn hiện tại không hề là "Ngụy Quân-Ngụy Quyền" mà là những Thật Nghệ Sĩ của Thế Hệ Người Việt thứ Hai nơi hải ngoại - Thế hệ trẻ không chấp nhận chế độ cộng sản dưới những hiønh thức, cường độ, điều kiện xã hội khác nhau.. Chúng tôi những người Việt thuộc thế hệ thứ Nhất (đã hứng chịu đủ đòn thù từ lần thất trận 30/4/75) hãnh diện đứng chung đội ngũ với họ, tin tưởng nơi những người trẻ tuổi trong trận chiến quyết liệt thủ thắng nầy. Con rắn độc cộng sản khi bị đánh dập đầu tất phải quẫy mạnh chiếc đuôi tuyệt vọng của nó.
2. Tiếng Gọi của Tự Do:
Trình bày tổng quát như trên cũng chưa hẳn đầy đủ cho một lời giải thích toàn diện.. Phải có một điều giø riêng biệt khác đối với trường hợp cá nhân Việt Dzũng bị Báo Công An/TPHCM (Tờ báo có số lượng bán nhiều nhất ở Sàigòn, ở Miền Nam, cũng là cả nước) phải nêu đích danh tấn công, tiếp theo là Nam Lộc, Trịnh Hội.. Nhưng Việt Dzũng vẫn là mục tiêu (bị) tập trung tấn công Số 1 mà theo nhận xét của nhiều người thì từ trước tới nay chưa hề có một nhân sự thuộc phía quốc gia nào bị đánh phá dữ dội như thế (kể cả trường hợp Lý Tống(!)..
Với khách quan cần thiết, đến đây chúng ta phải nhận ra rằng, tờ báo công an kia (Ở đâu trên thế gian nầy có những tờ báo riêng của ngành công an (của mỗi thành phố) hở trời?) quả đã chọn "đúng mục tiêu, đối tượng" để dồn lực vây đánh, truy nã. Bởi nếu xem lại những DVD ASIA21, 29, 35.. và 50, 51 kể trên chúng ta hẳn thấy đây là một cuộc tấn công theo ngôn ngữ quân sự là một kế hoạch đồng bộ, dứt điểm, diệt gọn.. Bảy mươi năm hơn kể từ ngày thành lập Đảng Cộng Sản Đông Dương (3/2/1930); sáu mươi năm hơn thành lập nhà nước cộng sản (2/9/1945), sau những lần gọi "thắng lợi từng phần 1954, 1968, 1972.." để tiến tới đoạt thắng 30 tháng 4, 1975 làm "bạn bè năm châu phải hãnh diện; kẻ thù cũng khâm phục - Nhóm từ ngữ mà người và chế độ cộng sản tự tuyên dương"...
Cuối cùng, nhà nước, chế độ đánh lừa được cả thế giới kia lộ nguyên trạng là một chế độ vô nhân, vô đạo, vô tính, phi dân tộc gớm ghê thâm độc nhất của lịch sử dân tộc Việt và nhân loại. Đốt sách chôn học trò của Tần Thủy Hoàng đầu Công Nguyên đâu thấm gì so với chính sách tận diệt "văn hóa ngụy và bọn ngụy miền Nam"; chước "ăn cướp ban ngày" dấy lên từ người đến miền Bắc đối với thị dân "Ngụy dân Miền Nam" sau ngày 30 tháng Tư, 1975. Sự kiện nầy hiện thực: "Sinh Bắc Tử Nam" không là Khẩu hiệu chiến thuật để kích thích tác chiến nơi chiến trường nhưng là Chính sách chiến lược đưa người-việc-vật từ Miền Bắc vào xâm thực, đồng hóa Miền Nam.." Tây Nguyên nay là "Hà-Nam-Ninh hóa"; Huế là "Quảng Bình Hóa"; toàn bộ khu Lê Lợi, Tự Do, Lê Thánh Tôn Sài Gòn nay tràn ngập một loại cư dân với cách phát âm vùng núi Thanh-Nghệ-Tỉnh. Và Người Việt trả lời cuộc xâm thực bất cận nhân tình nầy với HÀNH TRÌNH TÌM TỰ DO nên thành với 600,000 NGƯỜI CHẾT dọc biên giới Việt-Miên-Thái; trên biển Đông, nơi vùng Đất Không Người ở phương Bắc. Khối đông Văn Nghệ Sĩ thuộc nhiều thế hệ đã hiện thực sứ mạng Phát Ngôn cuộc hành trình vĩ đại bi thảm không tiền khoáng hậu của Dân Tộc Việt.
Nam Lộc "Gã Gangster Trên Sân Khấu Hải Ngoại"
Người cộng sản hẳn nhiên phải phản công bằng cách bôi bẩn bằng lượng máu đầm điøa ác độc dính tràn trên miệng lưỡi của họ (Máu của vạn triệu người xé thân, chấp nhận trả giá cái chết để được Sống (hoặc Chết) Tự Do) qua cáo buộc ngang ngược: Những ca khúc "Kinh Tỵ Nạn; Lưu Vong Khúc"của Việt Dzũng là nhân tố kích thích, thúc dục làn sóng người vượt biên trong hai hập niên 70, 80!! Tóm lại, cá nhân Việt Dzũng chỉ là một "cái cớ" - Cái cớ cụ thể mang tổng số của nhiều người thuộc thế hệ của anh và những người trẻ hơn. Chúng tôi có thể lập lại nguyên tắc đã một lần nói rõ: KHÔNG HỀ CÓ VẤN ĐỀ CÁ NHÂN TRONG VẬN ĐỘNG ĐẤU TRANH CỦA CỘNG SẢN. Cá Nhân hoàn toàn chỉ là công cụ của Tổ Chức. Cũng thế, họ không đả kích một cá nhân vì lỗi riêng của mỗi cá nhân ấy - Mà vì Cá Nhân ấy là thành phần của Tổ Chức Địch. Cũng cần nhắc lại lý do nẩy sinh từ sự kiện sẽ gia nhập WTO, hưởng quy chế PNTR (như trên đã trình bày).. Nhà nước cộng sản SẼ KHÔNG NHẬN NHỮNG VĂN HÓA PHẨM HẢI NGOẠI DO NẠI CỚ - "CHÚNG ĐƯỢC THỰC HIỆN BỞI NHỮNG NHÂN SỰ, TỔ CHỨC BỊ DƯ LUẬN QUẦN CHÚNG NHÂN DÂN CHỐNG ĐỐI" – CÔNG VIỆC MÀ HIỆN NAY HỌ ĐANG CHUẨN BỊ, THỰC HIỆN VỚI "CỚ SỰ VIỆT DŨNG VÀ NHỮNG SẢN PHẨM CỦA ASIA".
Với tư cách là Người Lính, cá nhân bản thân có thể thêm lời nhận xét mà không sợ sai lầm: DVD/ASIA50 với Nhật Trường Trần Thiện Thanh đã hoàn thành một cách xuất sắc công việc mà cả Tổng Cuộc Chính Tranh Chính Trị/QLVNCH ngày trước đã không thực hiện được.. Người Thương Phế Binh được phục hồi lại danh dự cao quý của Người Lính Chiến Đấu Giữ Quê Hương qua Đại Nhạc Hội "Cám Ơn Anh".. Sức mạnh nhân bản của Nhóm Nhân Văn-Giai Phẩm ở Miền Bắc (1956, 1957) với lời thơ xa xót thương tâm, "..Em bé lên sáu tuổi. Lủi thủi kiếm miếng ăn. Cha cường hào nợ máu. Đã trả trước nhân dân.." nay được sống lại qua đoạn đối thoại giải bày thương tâm của Hoàng Cầm thực hiện bởi Trịnh Hội trong ASIA51.. Ai làm được thành quả đáng tự hào nầy nếu không phải Thế Hệ Người Việt thứ Hai nơi hải ngoại nầy cùng với các hội đoàn của thế hệ người Việt thứ Nhất - Nạn nhân trực tiếp của đòn thù cộng sản.
3. Mặt Trận Văn Hóa-Tư tưởng:
Qua kinh nghiệm thực tế (cụ thể từ 1975) chúng tôi nhận ra rằng chính sách chuyên chế của nhà nước cộng sản Hà Nội quả là một chủ nghĩa độc tài toàn trị mà mặt trận "Văn Hóa-Tư Tưởng" là diễn trường hàng đầu trong "Ba Dòng Thác Cách Mạng" - Cuộc cách mạng suýt nữa đã xô đẩy cả nhân loại vào vực thẳm hủy diệt nếu không có lần sụp đổ của Liên Sô (1991). Nhưng đau thương và oan nghiệt thay, dân tộc Việt vẫn phải mãi vác nặng cơn đày đọa trầm kha không dấu hiệu chấm dứt.. Năm 1948, Trường Chinh khởi động thực hiện "Đề Cương Văn Hóa Việt Nam" tại Đại Hội Văn Hóa Liên Khu IV để vận động, hiện thực hóa "12 Điều Dạy của Hồ Chủ Tịch"- Những huấn thị có giá trị chỉ đạo tối thượng như 10 Điều Răn của Chúa, Đạo Ky-Tô; hoặc Ngũ Giới của Đạo Phật.. Tất cả không là chữ nghĩa suông, mà còn có tác dụng mạnh mẽ, hiệu lực về mặt chính trị, quân sự, xã hội, đạo đức không chỉ riêng đối với đảng viên cộng sản. Chúng đã biến tướng nên thành một thái độ sống, nguyên lý đạo đức, loại hiønh văn hóa chỉ đạo, khống chế toàn bộ xã hội Việt Nam trước 1975 ở Miền Bắc, và sau 1975 chung cho cả nước.
Lấy đan cử một trường hợp với nạn nhân điển hiønh của chính sách bức hại văn hóa có hệ thống nầy.. Tiên Siuh Phan Khôi thuộc về một gia điønh với những nhân vật kiệt liệt như Tổng Đốc Hoàng Diệu (người tự vẫn cùng thành Hà Nội năm 1882). Năm 1908, vừa qua hai mươi tuổi, khi đang theo học ở Hà Nội, do cớ tham gia phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục, cũng như bị nghi ngờ có dính líu với vận động xin giảm xâu thuế ở Quảng Nam, chính quyền bảo hộ Pháp dẫn độ Phan Khôi về quê nhà, tống giam ông vào nhà lao Hội An chung với những nhà cách mạng Trần Quý Cáp, Huỳnh Thúc Kháng, và nhiều nhân sĩ đồng hươngï người Quảng khác. Mãi đến năm 1914, nhân có chiến tranh với Đức (Đại chiến thế giới lần I), Toàn Quyền Đông Dương Albert Sarraut cho lệnh ân xá tù nhân chính trị, ông Tú Phan Khôi mới được ra khỏi nhà giam cùng lần với những nhà hoạt động chính trị thuộc lớp lớn tuổi hơn sau khi lợi dụng năm tháng trong tù để học thêm Pháp Ngữ với cụ Ưng Diễn, một nhà giáo sinh ngữ hiếm hoi đầu thế kỷ.
Với tâm chất, trí sáng và khả năng văn hóa nêu trên, từ những năm đầu tiên của thập niên 30, Phan Khôi đã là một ngôi sao sáng của làng văn, báo giới nước Việt từ Bắc vào Nam. Đối với những vấn đề của hoàn cảnh xã hội Việt Nam buổi đầu Thế Kỷ 20, khi đề cập những người nữ gặp cảnh truân chuyên, ông đã có nhận xét thắm thiết nhân ái do từ mối từ tâm, xúc động chân thật: "..Đàn bà con gái, có những người nết na tài sắc, mười phần được cả mười mười, chỉ viø lỡ cái bước đầu, thành ra lỡ luôn, thậm chí có khi ra con người hư, bị xã hội rẽ rúng.. Những người ấy nếu là người dốt thì thôi, cái bạc mạng của họ sẽ cùng nước chảy hoa trôi mà biến đi đâu mất. Nhưng nếu là người có chút tài hoa, biết đem câu thơ mà tả cái khổ tâm, khổ cảnh của mình, thì chẳng khác nào lưu lại một vết thương tâm chung cho cả người đời". Hoặc ông đặt vấn đề thủ tiết của người đàn bà (bị cảnh góa bụa lúc còn trẻ) một cách hợp lý, và nhân bản hơn: "..Khi hạ người đàn bà tái giá (chồng mất khi còn trẻ) xuống, thì trưng người đàn bà thủ tiết lên. Nhà vua bèn ban chiếu sắc, cấp bảng vàng sinh biểu cho những người nào ở goá trọn đời hay chết theo chồng. Những ân điển ấy thường tiønh lấy làm vinh hạnh lắm, song nghĩ cho kỹ chỉ là cái biểu hiện ích kỷ của đàn ông, và cũng là cái xiềng trói đàn bà lại". Chúng ta lưu ý, Phan Khôi đã đặt vấn đề "Nam Nữ Bình Quyền" trước nhóm Tự Lực Văn Đoàn hơn một thập niên; khởi đầu luận lý giải phóng phụ nữ qua văn tự, báo chí trước Simone de Beauvoir, Germain Greer hằng nửa thế kỷ.
Nhưng quan trọng hơn hết, về phương diện chính trị, con người chính trực, trí sáng nầy hiểu rõ thực chất của chủ nghĩa cộng sản (ngụy trang qua phong trào giải phóng dân tộc của Mặt Trận Việt Minh do Hồ Chí Minh lãnh đạo) sớm sủa và chính xác hơn ai hết, do đã chứng kiến sự kiện cán bộ cộng sản trong Mặt Trận Việt Minh tàn sát lực lượng cách mạng quốc gia, vụ đòi phá đền thờ Hoàng Diệu.. Nhưng bởi Phan Thao, con của ông đang là ủy viên trong Ủy Ban Trung Bộ, cụ Huỳnh Thúc Kháng, bạn tù, cũng là người đồng hương đang làm bộ trưởng nội vụ, nên đám cán bộ địa phương chỉ báo cáo ra Bắc để nơi trung ương nầy giải quyết. Cuối cùng, Hồ Chí Minh đích thân viết thư mời Phan Khôi ra Bắc, thực chất là để giam lỏng qua tay người em họ, Phan Bôi hay Hoàng Hữu Nam, thứ trưởng nội vụ. Chín năm chiến tranh (1945-1954), Phan Khôi chuyên dịch sách chữ Pháp, Hán văn sang tiếp Việt, chịu đựng tiønh cảnh bi thiết, lẻ loi giữa những con người mà ông không hề có ý niệm sống cùng. Đêm Giao Thừa, ông viết bài thơ ngắn diễn tả niềm u uất:
Độc dạ quá trừ tịch
Cánh võ đăng khả thân..
"Qua giao thừa
một mình Đèn làm bạn không có"
(PNN)
Tháng 10, 1955 bộ đội cộng sản tiếp thu Hà Nội, ông về thành phố, trong một bữa ăn khoản đãi, chỉ vào dĩa thịt gà, nói câu cay đắng bi hài: "Chín năm nay mới thấy lại mặt mày". Nhưng thời gian khổ cực nơi núi rừng, sự thiếu thốn vật chất, nỗi cách xa gia điønh, đơn độc giữa đồng loại
không làm ôngï ngã lòng, mối khổ tâm nhất là phải chịu im lặng trước những điều bất công, sự áp đặt. Nay về lại Hà Nội, không phải gánh nặng yêu cầu của nghĩa vụ kháng chiến nữa, ông khai pháo mở đầu phong trào Nhân Văn với Giai Phẩm Mùa Thu, 1956, qua bài viết Phê Bình Lãnh Đạo Văn Nghệ: "Tôi thấy vấn đề (lãnh đạo văn nghệ) đặt như thế không đúng. Sự thật trước mặt chúng ta không có vấn đề như thế. Bao nhiêu văn nghệ sĩ không luận ở Việt Bắc, ở Nam Bộ, ở Khu V đều đã ở trong Hội Văn Nghệ, đều đã bằng lòng chịu lãnh đạo rồi. Còn những văn nghệ sĩ ở trong vùng mới giải phóng, họ còn ở lại đây tức là họ rắp tâm chịu lãnh đạo, nếu không thì họ đã đi vào Nam. Tóm lại, văn nghệ sĩ hiện nay có mặt ở Miền Bắc không ai tự do bừa bãi hết."
Đến đây, chúng ta có thể kết luận về một điều khắc nghiệt thê thảm qua tìm hiểu về những bản văn mà Phan Khôi đã viết nên trong giai đoạn sau khi về Hà Nội mà hậu quả tác dụng thật sự là vô hại (nếu không nói là hữu ích) cho việc xây dựng, củng cố quyền lực chính trị của chế độ: Hóa ra, con người có thể là nạn nhân do những chữ viết trung thực của mình với hoàn cảnh oan ức bi thiết nhất. Trái lại ở đây, Phan Khôi đã trở nên là đối tượng bị lăng nhục, đánh dập do cớ sự đã tạo nên một nhân vật (của một loại truyện ngắn, hồi ký) có đôi điều nhận xét về những vụ việc, phong tục đơn giản, hằng ngày mà bị kết án là viết, nói lên những điều "xảo hoạt, ranh vặt để đả kích chế độ, xúc phạm lãnh tụ (!)" Hơn thế nữa, vấn đề không chỉ hạn chế với phê bình, và phản phê bình trong lãnh vực văn hoáù, phạm vi văn nghệ qua những bài bút chiến. Quyền lực chính trị vận dụng dựng nên một phong trào chưởi hùa.. Người làm văn hóa, văn nghệ miền Bắc được lệnh chưởi theo cách a dua, tập trung đánh dập vùi anh em văn hữu của miønh không thương tiếc. Và họ đã chưởi tận tình ("Chưởi có khí thế": Từ ngữ đặc trưng miền Bắc), chưởi đạt, vượt quá "chỉ tiêu yêu cầu do lãnh đạo đề ra" ..Chúng ta nghe qua một đoạn chưởi: Bây giờ - mà có phải mới bây giờ đâu - cái bộ mặt thật của Phan Khôi đã bị lột trần ra, cũng như nhiều khi y bị lột trần ra, Phan Khôi là một tên xão quyệt, phản phúc, một tên làm tay sai cho đế quốc, lợi dụng sự khoan hồng của cách mạng và chính sách đãi ngộ rất tốt của đảng, để chống lại đảng, chống lại chế độ."(9). Kẻ "chửi mướn" nầy là Đoàn Giỏi, nhưng sau khi dùng hết chữ, nghĩa kể trên, y ta bị hạ tầng công tác vì có kẻ khác thế chỗ với lập luận phản phé: "Giỏi chỉ "chưởi giả vờ". Rút kinh nghiệm của Giỏi, Phùng Bảo Thạch chửi hay hơn, có căn cơ ngọn ngành kiểu đàn bà thôn quê miền Bắc khi bị mất gà với bài bản gồm khởi đầu, đoạn giữa, và kết thúc.
Hãy nghe "bản chưởi" của Thạch: "Năm 1916, Pháp bị sa lầy trong chiến tranh ở Châu Âu.. Ngay từ buổi đầu mất nước, mối thù không đội trời chung với thực dân âm ỉ cháy trong lòng người Việt. Thái Phiên và Trần Cao Vân bắt liên lạc với vua Duy Tân rồi cùng mưu tính cuộc khởi nghĩa. Nhưng có kẻ phản bội ngầm báo cho Pháp, nên khi vua Duy Tân ban đêm bí mật vừa ra khỏi thành Huế thì bị bắt. Phan Khôi cũng là một người được tham dự trong việc thảo tờ chiếu chỉ của vua Duy Tân gởi cho những nhân sĩ yêu nước Quảng Nam, Quảng Ngãi, và sau đó lại báo cáo cho tụi quan cai trị Pháp và tổng đốc tỉnh để tâng công" Hoá ra vụ khởi nghĩa của vua Duy Tân và các vị Trần Cao Vân, Thái Phiên thất bại là do Phan Khôi báo cho mật thám Pháp?!
Tương tự như thế, chúng ta nghe tiếp luận cứ buộc tội của người cộng sản: "Các ông Phan Điønh Phùng, Cao Thắng sở dĩ thua trận quân Pháp là do bọn ngụy quân, ngụy quyền phá hoại xưởng làm súng của hai ông... Và sau nầy chúng (bọn Ngụy (?!) "giả vờ" lấy đặt tên hai ông đặt cho trường học, đường phố Sài Gòn để đánh lừa nhân dân yêu nước vậy!".
Để điều cáo buộc trên có cơ sở, nên Phùng Bảo thạch đưa chứng cớ: "Sau đó Phan Khôi ra Bắc viết báo Nam Phong của Phạm Quỳnh với công tác mật. Phan Khôi được Mác-ty (Chánh sở mật thám) gọi ra làm việc cạnh nó và viết báo cho Nam Phong. Trong phòng kín, Phan Khôi hàng ngày làm việc gì cho Mác-ty để được nó tin dùng hơn?" Thạch có kết luận: "Trên giấy trắng mực đen, Phan Khôi chỉ mới bộc lộ phần nào lời trắng trợn tệ bạc lòng bất nhân đê tiện đối với đất nước, đối với đồng bào.. Những người không bao giờ ngờ y đã đều đặn ký giấy nhận tiền của các tên trùm mật thám.. với cái lý luận đê mạc "chó ăn cứt" của y trong phòng Mác-ty!!"
Hơn nửa thế kỷ đi qua, hôm nay, chúng ta đọc lại những bản văn chưởi bới từ một quán tính hạ tiện không khỏi đặt nên câu hỏi nặng lòng: "Người có thể hạ nhục nhau nặng nề từ, với cớ sự gây nên bởi những dòng chữ viết như thế hay sao?" Cuối cùng, nghệ thuật chưởi hùa được "nâng cấp" cao nhất với Nguyễn Công Hoan để lấy lòng đảng sau khi bị thất sủng. Nhân ngày 70 tuổi, Phan Khôi viết bài thơ ngắn, mở đầu với hai câu tự thán:
"Lên 70 rồi mẹ nó ơi.
Thọ ta ta chúc nọ phiền ai.."
Hoan nghe lén được (phải là nghe lén do rình rập, trông chừng, vì bài thơ không đăng lên báo), bèn làm một bài "đáp từ" với ngôn ngữ điêu luyện đặc trưng của "xã hội xã hội chủ nghĩa tiên tiến":
Nhắn bảo Phan Khôi khốn kiếp ơi
Thọ mi, mi chúc chớ hòng ai
Văn chương, đù mẹ thằng cha bạc
Tiết tháo tiên sư cái mẽ ngoài..
Thái độ vô lại nầy không phải của riêng cá nhân Nguyễn Công Hoan nhưng là dấu hiệu "tiến bộ của kẻ có lập trường cách mạng kiên định" như Nguyễn Khải (Tổng Thư Ký Hội Nhà Văn) đã từng lên mặt răn đe Nguyễn Huy Tưởng trong buổi học tập "đấu" nhóm Nhân Văn: "..Đây không phải là cuộc đấu tranh giữa anh em nội bộ. Đây là cuộc đấu tranh giữa ta và địch!!"
Chúng ta có thể kết luận: Chế độ ở Hà Nội kia quả đã tạo ra một môi trường thuận lợi và khả dụng bậc nhất để khai thác, nẩy nở những hành vi, ngôn ngữ tồi tệ mà bản năng cuồng khấu nơi con người hằng nuôi dưỡng qua tính ác tiềm ẩn mà nếu là người có lương tri, lương năng nhất định phải loại trừ. Khác với Mao Trạch Đông đánh giá trí thức không bằng cục phân, bộ chính trị trung ương đảng cộng sản Việt Nam giao cho trí thức, văn nghệ sĩ Việt Nam (cho dù đấy là Nguyễn Mạnh Tường, Trần Đức Thảo, những người có học vị cao nhất từ những đại học lớn của Pháp) nhiệm vụ cụ thể hơn: Đi gánh phân, lao động cải tạo (gọi là lao động thực tế) ở các công, nông trường. Thập niên 60-70, mối họa tương tranh đã đi xa hơn, vào cuối đất Miền Nam, nơi Sài Gòn, mở rộng ra đánh lừa cả thế giới, những người tuổi trẻ xuống đừng nơi trường Đại Học Kent, Ohio; công viên Berkeley ở CA; Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc, bà Thủ Tướng Gandhi.. Và hôm nay, sức đánh phá kia tác động đến cả khối người Việt mà mấy mười năm trước đây hằng phải chịu bao điều nghiệt ngã, vượt qua nỗi chết, với cái chết nhục thảm ghê khiếp trên đường vượt biên để đến đất Mỹ..
Hôm nay, cuối năm 2006, và mãi mãi như một "quán tính" dính chắc vào máu, nơi tiếng nói, sâu hơi thở - Danh tính "bọn Ngụy" vẫn còn nguyên trên miệng lưỡi, sách, báo (của người cộng sản) ở Việt Nam với cách lăng nhục có hệ thống điễn hiønh như của "Báo Công An TP/HCM" số tháng 9/2006 đối với các Hội Đoàn Người Việt Hải Ngoại, Cơ Sở Truyền Hình ASIA/SBTN, tập thể và cá nhân những Văn Nghệ Sĩ tranh đấu cho Phong Trào Tự Do-Dân Chủ nơi quê nhà, ở nước ngoài .. Tất cả không là hiện tượng tự phát của riêng một tờ báo ấy mà (luôn) là một chủ trương có kế hoạch được điều hành từ cấp trung ương ở Hà Nội. Khi đã khinh miệt thượng đế, đầy đọa đồng bào thì còn gì có thể cản ngăn kẻ cầm quyền ngần ngại, không dám thực hiện:
Trời không có thiên thần
Đất không có thánh nhân
Chỉ có nhân dân thần thánh
Và đảng ta làm nên sức mạnh
Bay đến chân trời..
Nguyễn Bính thi sĩ trữ tình hàng đầu của thi ca Việt Nam phải tự tử chết với độc dược hòa cùng chén rượu đầm điøa uất hận do bị đánh vùi qua vụ Báo Trăm Hoa viø đã ra câu đối "Diêm Thống Nhất giá không thống nhất" - Câu đối gây nên tội: "Phá hoại hệ thống mậu dịch của nhà nước!" Nguyễn Bính đã bị mang ra đấu do lệnh của Phạm Văn Đồng, thủ tướng chính phủ. Nhà thơ lãng mạng tiền chiến chết trong cảnh tượng bi phẫn thương tâm qua lời thơ của Trần Mạnh Hảo:
Năm ấy trước đêm giao thừa trên ổ rơm
Anh gục xuống nhờ bạn bè vuốt mắt
Miệng còn chóp chép thèm cơm
Anh chết rồi còn bạc tóc
Ôi giấc mơ bị thương
Hết hành Phương Nam, lại phải hành Phương Bắc
Thời thế vô tâm như kẻ qua đường..
Cuối Thế Kỷ 20, đầu Thiên Niên Kỷ thứ Ba, những nhà văn, người viết thơ, làm nghệ thuật ở Việt Nam: Lưu Quang Vũ, Tiêu Dao Bảo Cự, Bùi Minh Quốc.. tiếp tục bị bức hại vì chữ, nghĩa của mình. Những người tranh đấu thuộc về nhiều thế hệ, không phân biệt Nam, Bắc: Nguyễn Đan Quế, Phạm Hồng Sơn, Nguyễn Vũ Biønh, Phạm Khắc Toàn.. luôn là đối tượng bị truy nã, khủng bố do những tiếng lời của họ viết, nói lên. Nếu chúng ta so nội dung (bị kết tội) nầy với bản đề cương đầu tiên của Trường Chinh, cũng như đặt cạnh cáo trạng Bản Án Thực Dân Pháp mà Nguyễn Ái Quốc (tiếm dụng danh xưng của "Nhóm Ngũ Long" gồm, Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn An Ninh, và Nguyễn Tất Thành) trình đến những nhà lãnh đạo cường quốc Hội Nghị Versailles năm 1919, thiø thấy ra hoàn toàn không có gì khác biệt. Cũng không khác nếu so sánh toà án xét xử những người tranh đấu cho Tự Do-Dân Chủ hiện tại với phiên tòa xử Nguyễn Bính cách nhau gần nửa thế kỷ - Tất cả đồng một danh hiệu có chung một "quán tính bất nhân": Toà Án Nhân Dân.
Chúng ta hẳn hiểu vì sao các cá nhân và tập thể tổ chức văn nghệ sĩ hải ngoại bị truy chụp, đánh phá. Chúng ta phải hiểu viø đấy là do Người và Chế độ cộng sản ở Hà Nội, Việt Nam.
Cali, 1/10/2006
Phan Nhật Nam
Gửi ý kiến của bạn