BÀI ĐỌC NHIỀU NHẤT
(Xem: 73171)
(Xem: 62200)
(Xem: 39373)
(Xem: 31130)
SỐ LƯỢT XEM TRANG
0

Lại nói về người cao nguyên

17 Tháng Tám 200912:00 SA(Xem: 1393)
Lại nói về người cao nguyên
50Vote
41Vote
30Vote
20Vote
10Vote
41
Thời Pháp thuộc của VN chính xác là 87 năm (1858-1945), Pháp gọi người cao nguyên là Degar (Dega theo tiếng Anh). Degar chỉ dành riêng chỉ người Thượng Cao nguyên Trung phần Việt Nam, không nơi nào khác để dễ phân biệt. Người Thượng cao nguyên Trung phần Việt Nam có vẻ thích được gọi bằng từ này thì nên dùng từ này.

Degar cao nguyên có một lịch sử cổ xưa rất thân thiện với Đại Việt. Đó là vùng đất chưa phát triển thành quốc gia, thường bị Chăm Pa và Chân Lạp (Khmer) cướp phá bắt người làm nô lệ. Vùng đất Tây Nguyên sau đó thuộc phạm vi bảo hộ của các chúa Nguyễn và người Cao nguyên chấp nhận sự bảo hộ này vì Đại Việt không có chủ trương đánh phá bắt người làm nô lệ mà sống hoà đồng. Thời nhà Tây Sơn Nguyễn Huệ đánh Trung Quốc, người dân tộc Cao nguyên gia nhập quân Tây Sơn, đặc biệt với đội tượng binh nổi tiếng. Người Thượng đã hành xử xứng đáng là anh em, người VN cũng cần hiểu điều đó.

Dân số Cao nguyên hiện nay là 5,5 đến 6 người triệu, trong đó Degar là một triệu, một nửa theo đạo Tin Lành sống thành khoảng 30 bộ lạc. Degar hiện nay gồm ba nhóm ngôn ngữ: Malayo-Polynesian, Tai, Mon Khmer và 6 sắc dân: Jarai, Rhade, Bahnar, Koho, Mnong, Stieng.

Như vậy cần chú ý Degar không bao gồm người Chăm, người Chăm chủ yếu sống ở miền Trung và vùng Châu Đốc An Giang, còn Khmer Krom sống tận miền cực Nam Việt Nam không dính dáng gì với Degar (người Thượng). Các bộ tộc Hời là dân tộc thiểu số của xứ Chăm Pa xưa chứ không phải người Chăm. Cho nên vì sao Fulro chia làm hai, vì Fulro Thượng do Y Bham Enoul lãnh đạo chủ trương ôn hoà và chính xác là vì quyền lợi người Degar. Les Kosem theo Pháp và thân cận Sihanouk, nay thế này mai thế khác, tùy theo quyền lợi của nhóm, lúc theo CSVN thân Nga, khi theo Trung Cộng, thực hiện âm mưu của Pháp chủ trương bạo động vũ trang gây biến loạn.

Les Kosem gây bạo loạn ở cao nguyên và ép Y Bham Enoul phải bỏ bản làng về căn cứ bên Campuchia. Khi cả ngàn người Thượng hồi hương cũng không cho Y Bham Enoul về VN. Khi chính quyền VNCH giải quyết đúng quyền lợi được người Thượng thoả mãn đồng tình thì nhóm Les Kosem lại bắt quản thúc Y Bham Enoul ở Phnom Pênh không cho về Việt Nam. Điều này bộc lộ rõ mưu đồ gây rối VNCH chứ không phải là vì quyền lợi người Thượng Cao nguyên. Trước đây giáo sĩ Thiên Chúa Pháp rao giảng đạo Thiên Chúa, một số người Degar theo đạo. Sau này người Mỹ thu hút người Cao nguyên vào đạo Tin Lành. Một số người Thượng theo đạo Tin Lành và theo khuynh hướng Mỹ chống CS nên tách ra gọi là Dega Tin Lành không nhiều ý nghĩa tôn giáo bằng ý nghĩa khuynh hướng chính trị.

Khmer Đỏ không hiểu rõ sự phân ly của người Thượng dưới tác động của nhiều nhóm chính trị, mỗi nhóm có mục tiêu riêng, nên cho là Fulro không có lập trường chính trị rõ ràng và sau 1975 thì giết toàn bộ. Cũng có thể Khmer Đỏ không tán thành đường lối thân VNCH của người Thượng, không ưa Hà Nội, cũng không ưa ông Hoàng Sihanouk tranh chấp uy tín cá nhân với Pol Pốt. Chỉ có Les Kosem thoát thân nhưng có thể nhờ được sứ quán Pháp quan tâm riêng, chỉ cứu Les Kosem vì có lợi cho Pháp. Đó là chỉ dấu minh xác việc quan hệ chặt chẽ thân Pháp của Les Kosem chứ không phải là may mắn. Không ai nói rõ Les Kosem may mắn là may mắn cách nào! Ông Ksok Kok từng ở trại Fulro ở Campuchia cho các nhà nghiên cứu về Fulro biết có cố vấn Pháp làm việc sát cạnh Les Kosem, nhưng ông lại không biết tên người này!

Có ba mục đích của ba nhóm trong Fulro đã xé vụn người Cao nguyên và khiến họ không còn được sống yên ổn:

1- Khuynh hướng Cộng sản. CS lập một tổ chức người Thượng trong MTGPMN tranh thủ người Thượng Cao nguyên và được một nhóm Fulro ủng hộ che dấu việc CS đưa xe tăng vào năm 1975 mà không báo tin cho Sàigòn.

2- Ông Hoàng Sihanouk lập Khmer Krom chống VNCH vì Khmer đỏ tố cáo VN lấn đất và ông Hoàng Sihanouk không biết bảo vệ quyền lợi đất nước khi Pháp vẻ bản đồ đưa Phú Quốc cho VN trong khi Phú Quốc theo đường chim bay gần Campuchia hơn! Hoàng tử Ranarith cũng rất chống VN nhưng lọt vào thời sau VNCH nên không được Hà Nội ủng hộ. Les Kosem là người Khmer gốc Chăm. Thu hút cả người Chăm Pa đã hoà nhập suôn sẻ nhiều thế kỷ với người VN.

3- Pháp quấy rối Mỹ để Mỹ bỏ VN thì Pháp trở lại hay ít nữa là phải tách Cao nguyên cho Pháp thành “Tây nguyên tự trị trong Liên Hiệp Pháp”.

Ba cơn bão chính trị đó xé nát người Cao nguyên Trung phần gây ra các biến loạn.

Khi Mỹ giúp tuyển dụng và đào tạo người Thượng chính quyền VNCH cũng không phân biệt nổi nhóm người Thượng thật sự và nhóm Les Kosem nên nghi ngờ Mỹ nước đôi chính trị. Người VN không hiểu thì người Thượng cũng không hiểu rõ chỉ có cảm giác là đấu đá bất đồng nhau trong nội bộ Fulro. Tuy nhiên bị lời thề khống chế, đã theo Fulro là phải ngậm đầu đạn mà thề, phản bội sẽ bị đồng đảng xử tử cả nhà cho nên số phận Fulro thật đáng giận mà cũng quá đáng thương !

Nếu chịu khó nhìn lại lịch sử thì sẽ hiểu người Cao nguyên thấu đáo hơn và yêu thương người Thượng hơn, phải giúp người Cao nguyên thoát khỏi các thế lực chính trị không lành mạnh. Cũng phải theo tinh thần dân phương Nam ngày xưa cư xử như trong truyện cổ tích “Thạch Sanh chém Chằn”, sống chân thành với người Thượng không gian xảo cướp công người Thượng nhiều đời gắn bó với Cao nguyên và từng cùng Nguyễn Huệ chống ngoại xâm.

Ngày nay người Thượng tham gia chính quyền, nhiều cơ sở giáo dục trẻ em Thượng đều có trường học, không có gì phân biệt song chính cán bộ tham nhũng đã làm cho ai là người VN Kinh Thượng cũng đều bất mãn...thành dân oan vì bị cướp đất và muốn bỏ đi...



Người Chăm Pa thông minh học cao, giỏi nghề thêu đan và hoà nhập vào ngưòi VN với nhiều tài hoa và trình độ mỹ thuật đáng ngưỡng mộ. Tôi có nhiều bạn người Chăm cùng học đại học, chỉ dễ biết khi còn giử họ người Chăm nhưng nếu lai một đời theo họ cha VN thì vô phương phân biệt. Một cô bạn khác là giám đốc một cơ sở thêu ở An Giang. Một phụ nữ đơn thân mà có nét thêu tài hoa đến độ không thua gì cơ sở thêu của người Việt từng là nghệ nhân thêu của cung đình Huế ngày xưa. Cô bạn tôi là chủ nhân của vài chục công nhân người VN. Người VN miền Nam ngày xưa có được lụa đen nhuộm bằng hạt mạc nưa, sản phẩm của Khmer Chăm để may quần là cả một niềm ao ước. Sản phẩm này đang được tiếp thị may đồ thời trang ở Châu Âu Châu Mỹ...

Tôi nhớ ông Ngô Đình Diệm thường nói về người Cao nguyên Trung phần Việt Nam là người Thượng thông minh, nếu cung cấp được học vấn sẽ không thua gì người VN, không khó để người Thượng xoá bỏ khoảng cách với người Kinh. Khi được nuôi dạy trong môi trường phố thị người Thượng còn học được nhiều thứ ngoài nhà trường và mau thay đổi hủ tục.

Dù cộng đồng người Thượng nghèo, dù không qua trường lớp văn minh, nhưng mỗi cộng đồng luôn có những quy luật sống, nếu quy luật trái nhân văn sẽ dẫn cộng đồng đó đến sự suy tàn. Nếu quy luật bất thành văn đó giúp bộ tộc, thị tộc tồn tại và phát triển thì luôn có nét nhân văn đáng học hỏi và người Thượng cần tự tin hơn. Ngày nay ai tin vào IQ tức chỉ số thông minh đều biết rằng người IQ cao sinh ra đâu đó từ hang cùng ngõ hẻm đến lâu đài cung điện theo một quy luật chưa ai khám phá thì phân biệt chủng tộc Kinh Thượng giàu nghèo là tư duy lạc hậu.

Trong kho tàng văn hoá Igbo của người Nigeria Phi Châu (Nigerian Igbo culture) có câu châm ngôn: "Ora na azu nwa", có nghĩa là “Cần cả một cộng đồng /một làng để nuôi dạy một đứa trẻ”. và đây có lẽ là văn hoá chung của Châu Phi chứ không riêng gì Nigeria. Điều này cho thấy sức lan toả của chân lý. Ở Lunyoro (Banyoro) có câu châm ngôn “Omwana takulila nju emoi”, nghĩa là: “Một đứa trẻ không thể chỉ được nuôi dạy trong một căn nhà duy nhất được”. Ở Kihaya (Bahaya) có câu châm ngôn: “Omwana taba womoi”, nghĩa là: “Một đứa trẻ không thuộc về một cha mẹ hay một gia đình đơn lẻ”. Ở Kijita (Wajita) có châm ngôn “Omwana ni wa bhone”, nghĩa là: bất luận đứa bé có yếu tố sinh học chỉ riêng của một cặp cha mẹ sinh thành nhưng sự trưởng thành luôn tùy thuộc về một cộng đồng rộng lớn. Ở Kiswahili có câu cùng một ý như thế: “Asiyefunzwa na mamae hufunzwa na ulimwengu” (Đứa trẻ được cộng đồng nuôi dạy giúp đỡ và thuộc về cộng đồng đó).

Bà Hillary đã dùng nguyên câu châm ngôn trên đây làm tựa đề quyển sách nói về cách bà nuôi dạy con gái Chealsea Clinton và truyền đạt những bài học về sự quan tâm đến ý kiến phản hồi của con cái vốn là những bài học đứa trẻ có thể dạy lại cho người lớn. Đó là những bài học đầu đời từ việc nuôi con để người phụ nữ tài năng này làm chính trị gia của một quốc gia dân chủ và có thể làm nhà ngoại giao thành công vì biết thấu hiểu tôn trọng ý kiến kể cả của đứa bé mà đối với nhiều người là gần như nằm trong quyền sở hữu dưới quyền sinh sát của mình. Văn hoá Nigeria cũng gọi đứa trẻ bằng từ "Nwa ora", có nghĩa là đứa con của cộng đồng.

Cũng giống giống hành trình “Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” của Châu Á Khổng Giáo, xét ra ông cựu Tổng Thống Clinton còn có sai lầm khi “bưởi bòng” làm cho gia đình vợ con mình trải qua sóng gió, bù lại ông có tinh thần nhận lỗi và đặc biệt có mối quan hệ cả với giới chức cao cấp và quần chúng vô cùng dễ mến. Còn Bà Hillary đang làm nhiện vụ bình thiên hạ, người phụ nữ đức tài trọn vẹn này lại ngưỡng mộ một câu châm ngôn Nigeria thì Nigeria có thể tự hào nhưng mà mấy người Nigeria và cả Phi Châu biết điều này để thấy vui ? Nếu chưa tự hào vì chỉ mới là một lối sống đúng hơn tốt hơn lối sống “đèn nhà ai nấy sáng” của thế giới văn minh thì ít nữa cũng tự tin và đừng nghĩ người da trắng luôn coi rẻ da màu!

Báo chí của nhà nước nào ưa tô đậm mâu thuẫn gây ngộ nhận là nước Mỹ giàu có phân biệt chủng tộc v.v. sẽ không thấy nguyên nhân của nó còn có yếu tố cá nhân: người có óc kì thị thường là những người ít học hoặc cố chấp tự thi, và những người thuộc cộng đồng da màu có ý chí phấn đấu bản thân thì cũng vượt qua nạn kì thị. Người cha của Obama từng nói là: “Ở Hawaii chính người da trắng bị thổ dân Hawaii phân biệt đối xử !” Ông Obama viết cả quyển sách về cha mình mà không học rành câu này, lại để xảy ra rắc rối phải làm một tiệc uống bia hoà giải.

Người cao nguyên và Khmer rất thuần phác, cư xử đối đãi chân thành với nhau chứ không quen thói lừa đảo, “chôm chĩa” như người VN. Trong cuộc sống hiện tại, phải gặp cảnh lừa đảo, thấy cảnh gia đình tranh chấp gia tài chém giết nhau, tôi nghĩ đó chính là phản tác dụng của trí thông minh và tiến bộ kinh tế !

Tiếp theo bài viết “Cao nguyên Trung phần, con người và số phận “ thì qua chứng liệu lịch sử việc tàn sát thổ dân Úc hay cả chính sách Mỹ với người Phi Châu nô lệ da màu có thể sánh với chấn động 7-8 độ Richter gây nhiều thảm hoạ, còn hành trình hoà nhập Kinh Thượng Việt Nam chỉ là va vấp rung động 1, 2 độ Richter không đáng thành chuyện để âu sầu!

Tây đô hộ gần 100 năm và nội chiến trên 30 năm khiến mọi mặt phát triển đều chậm lại. Ngành khoa học xã hội VN chỉ mới lần mò tìm hiểu về cổ sử và nhân chủng học. Nhiều người Kinh còn chưa biết Mán Mường là ai ? Trong Nam, Mán Mường đều không còn vì đã hoà nhập vào dòng người VN khẩn hoang. Triều đình miền Bắc từng đánh giá đất mới miền Nam là vùng đất lưu dân mắc tội phản trắc với triều đình hay trốn sâu lậu thuế. Nhưng người miền Nam như tôi chẳng chút mặc cảm mà tự hào hỏi lại: Chế độ vua quan phong kiến bất công áp chế có gì để tâm phục và trung thành? Vào luồn ra cúi công hầu mà chi! “Làm cho người khác bớt lạc hậu khó hơn, chậm hơn là làm cho mình bản lãnh để nhìn kẻ khinh mạn là kẻ ngốc!

Nhóm người dân tộc Pa Kô có dân số 18.000 người ở A Lưới mà trước đây vẫn tưởng là người dân tộc Tà Ôi hay Vân Kiều vì nhìn bên ngoài chỉ khác chút ít người Pa Kô ăn mặc giống người Môn-Khmer. Nhưng chính người Pa Kô thì nói khác nhau rất nhiều, nhất là truyền thuyết giống nòi về Totem tức vật tổ thiêng liêng của nhóm dân tộc Pa Kô. Người Pa Kô cũng xem con voi là thứ quý giá nhất để thể hiện sự giàu sang, trong khi người Tà Ôi xem những hạt mã não mới là của cải đáng tự hào. Về dòng họ, nếu người Pa Kô phần đông lấy họ mình là Tâng Koal (con chó) thì người Tà Ôi lại là Akê, Pê Kê (con chim).

Theo các nhà nhân chủng học, Mán Mường chính là người Việt cổ. Chế độ Quan Lang phong kiến Đại Việt xưa dành đặc quyền cho vài dòng họ: Đinh, Quách, Bạch, Hoàng, Hà, Cẩm, Lê, Phạm...và hiện là các Họ của người Mường, vậy nên có thể nói họ chính là người Việt cổ. Nói cho chính xác thì phải gọi người Mường là người Việt miền núi!

Mán gốc thành thị có khi là truyền nhân của quan lại. Khi vua khác lên thì nguy cơ bị truy sát không còn, người Mán lại hay về xuôi ra phố thị là chốn quê xưa cho nên nhà thơ Tú Xương mới gặp Mán ra vào thành phố trong ngày Tết Việt Nam:
Khăn là bác nọ to tày rế;
Váy lĩnh cô kia quét sạch hè.
Công đức tu hành, sư có lọng;
Xu hào rủng rỉnh, Mán ngồi xe.
Chẳng phong lưu, cũng ba ngày Tết
Kiết cú như ta cũng rượu chè.

Câu “Xu hào rủng rỉnh Mán ngồi xe !” và các câu khác trong bối cảnh của bài viết chẳng qua là lối ăn mặc đẹp chưng diện và xài sang trong ba ngày Tết! Người dân tộc khác không bao giờ ra thành phố và cũng không đi sắm Tết Việt Nam. Trong một bài khác, Tú Xương cũng viết rằng:
Lẳng lặng mà nghe nó chúc con:
Sinh năm đẻ bảy được vuông tròn.
Phố phường chật hẹp, người đông đúc
Bồng bế nhau lên nó ở non.

Có thể hiểu một lối khác với các sách giáo khoa nhà trường, rằng thời Tây có một số người Việt thích lên rừng làm Mán vì... dễ kiếm sống hơn? Thời Tú Xương là thời Pháp khai thác đồn điền cao nguyên, người lên rừng ở và khai thác gỗ rất giàu. Làm đồn điền chẳng cần học hành, xa cách thế giới văn minh, ăn ở đạm bạc như Mán, nhưng lãnh lương Tây cấp cai thì cũng coi là giàu, đi dạo phố bằng xe: “Xu hào rùng rỉnh Mán ngồi xe !” Thời thực dân Pháp có tâm lý chống Pháp như Tú Xương còn ghét những người ham tiền làm cho Tây nên mắng là thích có tiền dù phải lên rừng.

Thời Trịnh Nguyễn phân tranh và mở mang bờ cõi về phía Nam người Mán đã về xuôi khai khẩn hoà nhập lại thành người Việt nên không còn nơi nào là nơi tập trung cư trú riêng của người Mán, chỉ còn nhóm người Mường ở miền Bắc.

Sau 1975 người miền Nam khi bị gom đi học tập than rằng: “Thằng khôn ngồi học, thằng ngu dạy đời !” khi nghe Mán Cộng Sản dạy triết lý Mác Lê lạc hậu, sai bét! Không phải khinh khi mà là chán ghét sự đảo lộn giá trị trong xã hội lúc “đổi đời”!

Chúng ta ai cũng biết khi Pháp thành lập nhiều đồn điền ở các thuộc địa rất cần nhân công nhưng người Việt Nam cứ bám ruộng đồng sống lẩn khuất sau lũy tre làng không chịu đi làm công nhân đồn điền, càng không chịu ra nước ngoài. Vì vậy mà năm 1945 lúc trong Nam dư lúa đến độ dùng lúa chạy máy đèn sản xuất điện thì Pháp không tích cực cứu trợ vì muốn nông dân miền Bắc do nạn đói sẽ rời bỏ ruộng đồng khiến có nạn đói Ất Dậu 1945 chết hai triệu người một cách vô cùng dã man nhẫn tâm!

Ngược dòng lịch sử, ta biết rằng thời nhà Lý tại vùng thượng du Bắc Việt nhiều nhóm thị tộc Mán Mường và thiểu số khác chiếm cứ và sinh sống trên những vùng miền có tính yết hầu chiến lược. Triều Lý không chiêu dụ bằng vàng bạc mà có chính sách chiêu dụ và tạo thêm vây cánh, thắt chặt tình thân thiện với các thị tộc này bằng cách đem gả các công chúa cho các thủ lãnh châu mục. Vào Năm 1029 vua Lý Thái Tông gả công chúa Bình Dương cho châu mục Lạng Châu (Lạng Sơn) là Thân Thiên Thái. Năm 1036, Vua Lý Thái Tông lại gả công chúa Kim Thành cho châu mục Phong Châu (Phú Thọ, Sơn Tây) là Lê Tông Thuận và gả công chúa Trường Ninh cho châu mục Thượng Oai là Hà Thiện Lãm. Năm 1082, Lý Nhân Tông gả công chúa Khâm Thánh cho châu mục Vị Long (Tuyên Quang) là Hà Di Khánh, năm 1127 gả công chúa Diên Bình cho thủ lãnh phủ Phú Lương (Thái Nguyên) là Dương Tự Minh, vào năm 1144 chính Dương Tự Minh lại cưới thêm một công chúa Thiều Dung. Như vậy trong suốt triều đại nhà Lý đã có sáu công chúa được gả về cho các châu mục. Các châu mục này mang họ Thân, Hà, Dương, Lê, những họ của người Mường, Mán. Vì lý do gì đó mà nhóm người này sống tách biệt trên rừng, hùng cứ một phương và nhiều khả năng quân sự triều đình phải lo chiêu dụ. Châu mục theo định nghĩa là trưởng một huyện miền núi (chef de district des régions montagneuses). Họ là nhóm người VN rơi vào hoàn cảnh như Từ Hải hùng cứ một góc trời bất tuân mệnh triều đình nên xa cách văn minh và thành tụt hậu. Vậy hai câu ca dao:
Tiếc thay cây quế giữa rừng
Để cho thằng Mán thằng Mường nó leo...

có thể phản ảnh sự kiện các cuộc hôn nhân không giữa các Công Chúa nhà Lý với Châu mục Mán Mường tức các nhóm thị tộc người VN sống cô lập trên núi cao rừng sâu và vài bộ tộc mạnh khác là Tày, Nùng...

Các cuộc hôn nhân không tương xứng của hai người Kinh dân dã với nhau thì được ví von:
Tiếc con gái khôn lấy thằng chồng dại,
Như bông hoa lài, cặm bãi cứt trâu.

Công chúa Huyền Trân lấy vua Chăm Pa, dù gì cũng là một trong các hoàng hậu Chăm Pa chắc thân phận phải cao hơn các công chúa khác lấy các Châu mục Mán Mường chứ! Dường như sách vở xưa chưa từng gọi Vua Chăm Pa là “thằng Mán thằng Mường ”, vì Chăm Pa không phải là dân tộc Mán Mường, cho nên gán ghép hai câu ca dao này nói về cuộc hôn nhân của Công Chúa Huyền Trân e rằng khiên cưỡng. Vả lại, cho dù hiện nay Chăm Pa và Campuchia yếu hơn Việt Nam nhưng Khmer Angkor và Chăm Pa từng mạnh và giàu hơn Đại Việt, phải nể mặt người ta chứ ! Đại Việt luôn bị Tàu đô hộ và cướp phá phải lo chống đỡ, có muốn cũng không thể nghĩ đến việc bỏ phòng thủ mạn bắc để gây sự với phương nam. Những chuỗi đền tháp Chăm Pa xưa với các tượng nữ thần bằng vàng ròng bị Khmer Angkor khi đô hộ Chăm Pa cướp hết! Còn theo Chân Lạp Phong Thổ Ký của Châu Đạt Quan ghi lại thì đền đài Angkor từng được dát vàng và làm cho Thái Lan (quân Xiêm) và Myanmar động lòng tham đánh cướp của Khmer Angkor khiến phải bỏ thủ đô này chạy về Phnôm Pênh ngày nay ! Đến thăm đền Angkor của Khmer Angkor thì quả là vô cùng lớn lao đến ngạc nhiên phải tự hỏi sao sức người thuở xa xưa có thể làm được tuyệt tác như có bàn tay thần thánh vậy ? Có thời gian Chăm Pa đánh thắng và đô hộ Khmer Angkor sau đó thì có thời gian Khmer Angkor đô hộ Chăm Pa.

Thứ hai khi sáp nhập vào Việt Nam chỉ có nhóm các dân tộc thiểu số của nước Chăm Pa xưa (không phải người Chăm Pa) mới là người Thượng Cao nguyên trung phần Việt Nam. Theo tài liệu của Champaka một trong tục lệ của người Chăm là không đi khỏi “biên giới thần quyền” nơi có anh linh tổ tiên nên sống chen chút nhau rất ít di cư đi sinh sống nơi khác. Người Chăm và người Khmer sống chung lộn với người Việt vẫn được gọi là người Chăm người Miên sau này đổi là người Campuchia không ai gọi là người Chăm người Khmer là Mán cả. Chính vì người Cao nguyên hiền lành chân chất nhưng ít bản lĩnh để hiểu thâm ý người khác mà dễ bị lợi dụng. Tây và Cộng Sản luôn bày ra những chuyện tranh dành thế lực chính trị gây biến loạn khuấy động cuộc sống an lành của người Cao nguyên trung phần.

Khái niệm về người Mán Mường ngày xưa đậm nét hơn ngày nay nhiều nên Tú Xương mới có bài thơ có nói về Mán. Mán bây giờ chỉ là ký ức mờ nhạt và là một tỉnh từ đồng nghĩa với người VN nhà quê. Khi gặp bộ đội miền Bắc mới thấy lại hình ảnh Mán Việt xa xưa !

Riêng việc đón Công Chúa Huyền Trân trở về nước Việt dù Việt Nam có giải thích ra sao, viện dẫn lý do gì thì chỉ là khoả lấp do khó thể nói thật ra chuyện vua VN lo sợ. Sự thật vẫn là cuộc hôn nhân có yếu tố chính trị luôn kèm theo nguy cơ. Khi vua Chế Mân chết, không có gì bảo đảm là được yên thân nếu nhóm chính trị không thân Đại Việt hay từng chống lại việc cắt đất làm hồi môn, nay nắm quyền lực. Rõ ràng bây giờ còn có nhiều người không thân thiện đặt nghi vấn Công Chúa Huyền Trân có trách nhiệm gì với cái chết của Chế Mân không. Cho dù sau đó không có xung đột thì phải công nhận điều nguy hiểm của các cuộc hôn nhân chính trị.

Bằng chứng là tài liệu Chăm Pa viết về một trường hợp khác là công chúa Ngọc Khoa (con gái chúa Nguyễn) không chịu lên dàn hoả, và có âm mưu làm tình báo đánh Chăm Pa, bị triều đình Chăm Pa hành hình vùi đầu xuống bùn đến chết hay là chỉ tạc tượng vùi đầu xuống bùn để nhục mạ sau khi chết bình thường thì cần có thời gian tìm tư liệu chứng thực và khẳng định thêm. Sử sách Việt chỉ nói tượng công chúa Ngọc Khoa “bị bỏ lăn lóc” có lẽ là vì chưa biết cách bày tỏ sự tức giận của người Chăm Pa. Sách sử Việt Nam về Công Chúa Ngọc Khoa chưa chép rõ ràng vì sao sách sử Chiêm Thành có ý trách cứ, nếu không muốn nói là phẫn nộ, cho rằng công chúa Ngọc Khoa đã làm cho vua Po Romê mê muội và khiến cho nước Chiêm sụp đổ do vua Po Romê nghe lời công chúa chặt bỏ cây "kraik", biểu tượng thiêng liêng của vương quốc Chiêm Thành. Nhưng theo cổ sử Chăm Pa chỉ nói là cây bỗng hết thiêng! Sách Nguyễn Phúc tộc thế phả, do chính Hội Đồng Nguyễn Phúc tộc viết lại, đã chép rằng: "...Năm Tân Mùi 1631 công nương Ngọc Khoa được đức Hy Tông Sãi Vương gả cho vua Chiêm Thành là Pôrômê”.

Góp nhặt các mảnh vỡ lịch sử có tài liệu viết: Chúa Nguyễn giao hảo với Chân Lạp qua đám cưới công chúa Ngọc Vạn (1620), chúa Sãi hai lần giúp Chey Chetta II đẩy lui Xiêm xâm lược. Vua Po Rome của Chiêm Thành xin cưới công nương Ngọc Khoa (khoảng năm 1631). Ngọc Khoa ở đất Chăm Pa được 20 năm đã giúp cho tình thân hữu hai nước. Nhưng năm 1651 xẩy ra một cuộc nội loạn chia phe phái giết hại lẫn nhau, vua và hoàng hậu đều bị sát hại. Hiền Vương phải đưa quân vào cứu, dẹp tan loạn rồi đặt người Việt giữ đất trị an. Từ đó Chiêm Thành sáp nhập vào lãnh thổ Việt thành những tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hoà, Ninh Thuận, Bình Thuận, Phan Rang, Phan Thiết”. Đây là lý do người Chăm Pa nghi Công chúa Ngọc Khoa thực hiện có ý đồ xâm chiếm của Chúa Nguyễn chứ không phải chỉ vì mối giao hảo tốt đẹp của hai nước.

Người Chăm Pa dùng sử liệu khác hơn, cho là vua Po Rome chết, hoàng hậu thứ nhất người truyền ngôi vua cho Po Rome nhưng không lên dàn hoả cùng vua nên không được thờ chung, bà Hoàng thứ hai lên giàn thiêu cùng vua nên được thờ cúng. Công chúa Ngọc Khoa còn bị bạc đãi hơn do việc Chăm Pa sáp nhập vào Đại Việt. Như vậy có thể là Hoàng hậu thứ hai bị loạn thần Chăm Pa giết chứ không phải là cùng lên giàn hoả với vua ? Một âm mưu thôn tính thật ra có cần cần chờ đến 20 năm sau không, và vì sao không mang công chúa Ngọc Khoa về nước để phải hứng chịu nhiều oan trái? Nếu sử liệu Việt viết trung thực thì người Chăm Pa nên giải oan cho công chúa Ngọc Khoa.

Về ngôn ngữ, ngôn ngữ vô tri bị hình ảnh gợi cảm xúc về ngôn ngữ đó làm cho dễ ghét hay dễ thương như từ “Mọi” hay từ “Mẹ”. Từ Mẹ đáng yêu bao nhiêu thì từ Mọi dù không khác từ Thượng nhưng vì hình ảnh kèm theo, thái độ kèm theo một thời bị dèm pha làm cho người ta ghét. Thôi thì nên tránh đi, gọi tên khác như Degar chẳng hạn, vì ông bà dạy: “Lời nói chẳng mất tiền mua, Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”!

Trong bài “Mọi” đăng trên talawas, ông Duy Ngọc viết: “Hằng ngày lên mạng, ra đường, vẫn nghe người ta chửi nhau mọi này mọi nọ!”. Ông cũng nói ông ghét cay ghét đắng câu ca dao được cho là ám chỉ việc Công Chúa Huyền Trân lấy chồng là vua xứ Chăm Pa.

Một blogger đương đại nói về hiện tượng Maybach 62, tức lối ăn xài sang cho Mỹ giàu phải nể mặt! Mỹ chắc biết là bọn con “quan tham” nên không nể mà chỉ khinh, nhưng Việt Kiều nể thật, than rằng CSVN bây giờ giàu “dễ sợ”, du học sinh mà mua nhà cầm gần một triệu đô la trả cái một (pay off) chứ không phải nợ hai ba chục năm như dân vượt biên! Maybach 62 trị giá 1 triệu USD dành riêng cho những người giàu nhất thế giới như vua dầu hoả, vua thép..., đã được nhập cảng vào Việt Nam còn nghèo khó... Blogger bèn vịnh hiện tượng Maybach 62 và con cháu của các đại tư bản đất Việt "du học" mà chỉ làm một việc là đốt tiền, "xài sang cho Mỹ sợ"! Việt Kiều mà nhằm nhò gì! Nên có bài thơ nhại theo thơ Tú Xương như sau:
Cậu ấm cô chiêu tư bản đỏ
Cùng phường một lũ “Mán ngồi xe”*
Vung tiền mua chút hư danh hão
Khoả lấp căn cơ vốn thấp tè!

(tác giả có nickname là Cựu sinh viên)

Duy Ngọc ghét vì một loại heo chưa có tên trên cao nguyên được gọi là “heo mọi” hay ăn ở dơ dáy hay làm gì kỳ cục bị mắng nhiếc là... làm “như mọi” vậy ! Thật ra từ Mọi bây giờ đã thuộc về dĩ vãng, nhưng Duy Ngọc ghét từ Mọi, tên Heo Mọi.

Nhưng việc gì mà phải buồn! Trung Quốc cũng gọi VN xưa là xứ “Man di mọi rợ” mà Nam Man vẫn làm thiên triều kình hồn bạt vía nhiều phen đó! Hoặc giả chỉ nên coi đó không là lòng khinh thị mà chỉ là di sản của cách hiểu qua một “phù phép tuyên truyền” gây mất đoàn kết để xui người Thượng giận ghét VN theo Fulro của Pháp và CS, như vậy sẽ nhẹ lòng hơn không? Trong khi làm bộ vì quyền lợi người cao nguyên thì Pháp đành đoạn bỏ miền Bắc chết đói hai triệu người, để sau này dễ mộ phu VN đi làm đồn điền các nước!

Không mấy ai thấy hình ảnh các bé con 3,4 tuổi người Thượng, dễ thương ra sao, cứ nhơn nhơn trần truồng chạy lon ton trong trời lạnh Cao nguyên thấy phục như một “superman” con. Trẻ em Thượng màu da sạm nắng vẻ mạnh mẻ chắc nịch chứ không èo uột như trẻ con người Kinh nắng không ưa, mưa không chịu, ghét gió, kỵ mù sương, chút chút là sổ mủi cảm lạnh. Người Thượng có ý thức rèn con cái từ thuở mới sinh ra cần phải mạnh mẻ ra sao, để tồn tại giửa rừng thiêng nước độc... Cũng thế, con heo mọi nhỏ con lanh lẹ chạy nhảy lung tung như chó con nên thân thon gọn chắc nịch, đẹp hơn so với heo thường bụng mỡ ì ạch! Heo mọi là gì? Đó là giống heo thật dễ thương, thân thiện đi đâu cũng chạy theo, ngồi coi báo thì nhảy lên ghế nằm cạnh bên, nhỏ con kiểu như giống chó Bắc Kinh (Pekingese) nổi tiếng, hay giống chó nhỏ mắt lồi Chi HuaHua Mexico! Sau 1975 tôi cũng nuôi một con heo mọi thay vì nuôi chó. Tôi không thích chó vì dị ứng mùi lông, và cả việc chó hay sủa khách làm khách giật mình. Tôi vẫn gọi là Heo Mọi (vì tên nó là vậy) nhưng với tất cả tình yêu và kỷ niệm ngọt ngào với con vật dễ làm bạn này! Đương nhiên là nếu có tên gì đẹp khác hơn thì cũng tốt thôi, nhưng tự nó, cái tên “heo mọi” chẳng có gợi ý gì ghê gớm! Giống chó quý tộc Bắc Kinh cho là có thể xua tà ma nên từng ở bên cạnh Hoàng hậu Mary của Scotland, Hoàng hậu Marie Antoinette của Pháp, và Từ Hy Thái hậu cuối cùng của Trung Quốc. Heo Mọi cũng đã là thú vật cưng ở Mỹ mà gốc Cao nguyên Trung phần đấy!

Nhân nói chuyện đặt tên, trộm nghĩ các nhà khoa học cần lo đặt tên chứ để dân gian tự đặt tên thì có khi có mặt tiêu cực của nó! Sao không giúp người Thượng nuôi và xuất khẩu chim sáo chim két biết nói và heo mọi, lấy tên là heo Bình Phước, heo Bình Long, heo Đồng Xoài gì đó... Người Mỹ ai cũng cần có một sinh vật bầu bạn sao ta không phát triển xuất khẩu con heo nhỏ xíu dễ cưng này giúp cho kinh tế người cao nguyên chứ! Chim sáo nói khá giỏi ở Mỹ giá 600USD/con. Việt Kiều về VN, giấu hải quan Mỹ, chích thuốc mê cho chim sáo ngủ ngất ngây, bỏ vào túi quần, chui vào toilet cho uống nước và mang sang Mỹ bán!

Hiện thời thì chuyện đáng lo đáng buồn không phải là chuyện heo mọi, mà là chuyện các bé gái cao nguyên miền Bắc bị bắt cóc vì Trung Quốc dân số lệch thiếu trẻ gái. Nhiều nhà nông thôn Trung Quốc mua bé gái nhỏ năm bảy tuổi người Thượng nghèo đem về nuôi, vừa giúp việc cơm nước trong nhà vừà cho con trai cưới làm vợ khi lớn lên! Những ai lo buồn cho người cao nguyên hãy làm gì đó đi, giúp cao nguyên làm giàu và thúc đẩy có chính sách bảo vệ an sinh xã hội cho các bé gái cao nguyên. Miễn là đừng có bô xít bô xiếc gì nha!

Trần Thị Hồng Sương
(17.8.2009)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn