BÀI ĐỌC NHIỀU NHẤT
(Xem: 72809)
(Xem: 62102)
(Xem: 39197)
(Xem: 31055)
SỐ LƯỢT XEM TRANG
0

Viễn xứ và viễn ý

29 Tháng Chín 200912:00 SA(Xem: 1049)
Viễn xứ và viễn ý
50Vote
40Vote
30Vote
20Vote
10Vote
00
Lấy cớ rằm tháng Tám – Tết Trung Thu – tôi hú cả đống bạn bè tới uống sương sương (vài chai) cho nó vui nhà, vui cửa. Sau khi cạn mấy ly đầy, rồi đầy vài ly cạn, và lại cạn mấy ly đầy, rồi đầy vài ly cạn nữa… thì cả đám (dù đã bước vào tuổi năm muơi) đều ngỡ như còn thơ.

Chúng tôi cùng ca vang Thằng Cuội , bản nhạc mà có lẽ mọi đứa bé sinh trưởng ở miền Nam – vào thập niên 50, hay 60 – đều thuộc. Bài đồng dao này tuy được Lê Thương viết vào năm 1953, khi nền tân nhạc Việt Nam còn ở giai đoạn phôi thai, nhưng lời lẽ tân kỳ dễ sợ:

“Bóng trăng trắng ngà có cây đa to
Có thằng Cuội già ôm một mối mơ…


Lặng nghe trăng gió hỏi nhau
Chị kia quê quán ở đâu
Gió không có nhà
Gió bay muôn phương
Biền biệt chẳng ngừng
Trên trời nước ta…


Các em thích cười muốn lên cung trăng
Cứ hỏi ông Trời cho mượn cái thang…


Các con dế mèn suốt trong đêm khuya
Hát xẩm không tiền nên nghèo xác xơ…


Hát bộ, hát chèo, hát cô đầu, hát cải lương, hát hồ Quảng… để kiếm sống ra sao thì tôi không rõ. Chớ còn hát xẩm thì dù có được (cho) tiền, vẫn nghèo xơ xác.

Thuở bé, đôi lúc, tôi cũng nhìn thấy những người hát xẩm. Họ thường ngồi ở cầu thang chợ Đà Lạt – vào lúc chợ đông – cùng với cái đàn bầu, và những bài ca buồn bã.

Đó là hình ảnh hát xẩm quen thuộc, trong trí nhớ thơ ấu của tôi, ở miền Nam. Ngoài miền Bắc, sinh hoạt của một số những người hát xẩm – xem ra – hơi khác:

“Và đây là một công tác độc đáo: ấy là khi hoà bình mới lập lại 1954, ông được giao phụ trách một đoàn xẩm, gồm 23 anh chị em, phần lớn là mắt kém, đi về hướng Bùi Chu – Phát Diệm, lấy lời ca tiếng hát dân gian để động viên đồng bào đừng nghe theo những lời dụ dỗ di cư của kẻ địch mà hãy ở lại với quê hương. Không biết ai đã có sáng kiến đặt Thanh Tịnh vào việc ấy? Song quả thực, đấy là một trong những lần, tài năng của Thanh Tịnh được sử dụng một cách đắc địa (Vương Trí Nhàn. Cây bút đời người. Nxb Trẻ : Sài Gòn 2002, 174).

Tác giả đoạn văn thượng dẫn (tiếc thay) không viết thêm một chữ nào về chuyện “quả thực” này, để xem “tài năng” của Thanh Tịnh đã được “sử dụng một cách đắc địa” ra sao – trong việc “động viên đồng bào đừng nghe theo những lời dụ dỗ của kẻ địch di cư” vào Nam.

Vẫn cứ theo như lời của Vương Trí Nhàn thì sau “sáng kiến” này, “tài năng” của Thanh Tịnh (dường như) không còn được “sử dụng một cách đắc địa” vào bất cứ “công tác độc đáo” nào khác nữa:

“Ở vào cái tuổi chưa đầy sáu muơi mà Thanh Tịnh những năm đó trông đã già lắm, già hơn tuổi rất nhiều… muốn biết Thanh Tịnh đơn độc thế nào phải nhìn những lúc ông đi bộ. Trên đường Phan Đình Phùng, duới những hàng sấu, cũng già cả mệt mỏi, ông bước đi như không thể dừng lại nên phải bước, khuôn mặt đăm chiêu, dáng điệu đờ đẫn (sđd, 181).

Một nhà văn tăm tiếng, một sĩ quan cao cấp của Quân đội Nhân dân Việt Nam mà “đăm chiêu” và “đờ đẫn” (thiếu điều muốm xụm bà chè luôn) như vậy thì những người ở lại đã sống (dở, và chết dở) ra sao – bên kia vĩ tuyến – là điều mà ai cũng có thể hình dung được, kể cả những người đui.

Còn những kẻ bỏ đi thì hậu vận cũng không sáng sủa gì cho lắm. Họ bị bắt lại, gần trọn đám, sau khi miền Nam thất thủ. Từ đây, “Nam / Bắc hoà lời ca.” Nhiều người ca (rất) dở nên đã phải liều mình đâm sầm ra biển, hoặc ù té bỏ chạy thục mạng qua những bãi mìn – nơi biên giới xứ người. Chết chóc (ôi thôi) hết đếm luôn!

Đó là những thành phần“bất hảo, cặn bã của xã hội, ma cô, đĩ điếm, trộm cướp, trây lười lao động, ngại khó ngại khổ, phản bội tổ quốc, chạy theo bơ thừa sữa cặn… ” theo như nguyên văn lời giải thích của Chính quyền Cách mạng, với thế giới bên ngoài, và với lũ cột đèn còn (kẹt) lại.

Không hiểu những người ra đi đã hành nghề ma cô, đĩ điếm và tổ chức trộm cướp ra sao – nơi đất lạ quê người – nhưng số lượng bơ thừa sữa cặn mà họ đều đặn gửi về cố hương đã cứu toàn dân, cũng như toàn Đảng, thoát chết (đói) nhiều phen.

Từ đó, Đảng ta đổi giọng: những kẻ phản bội tổ quốc không những đều được “khoan hồng” mà còn được “tôn vinh” như những sứ giả Lạc Hồng,” và (bỗng) trở thành “một bộ phận không thể tách rời của cộng đồng dân tộc.” Nghị quyết số 36-NQ/TƯ, về “Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài”, đã ra đời (hơi muộn) vào ngày 26 tháng 3 năm 2004 – cũng dựa trên cơ sở đó.

Đây là công tác vô cùng quan trọng, của Bộ Ngoại giao, do một vị Thứ trưởng đứng đầu. Ngoài những ban ngành phụ thuộc, mỗi thành phố lớn đều có thêm một vị Chủ nhiệm (hay phó Chủ nhiệm) Ủy ban Người Việt ở Nước ngoài – chuyên trách về khu vực của mình. Nếu bỏ những chức danh này qua một bên – cho nó bớt rườm rà – và nói trắng phớ ra thì đây (cũng) chỉ là… một đoàn hát xẩm thôi!

Vấn đề chỉ khác ở chỗ là bây giờ (ta) không động viên đồng bào ở lại nữa (vì chúng đã lỡ đi hết trơn rồi) mà chỉ kêu gọi họ “làm ơn” đừng có quay lưng đi luôn, tội lắm. Con cá nó sống nhờ nước, và Nhà nước ta thì sống nhờ… kiều hối mà!

Một trong những công tác “độc đáo” mà đoàn hát xẩm tân thời được giao phó là chuơng trình “Vinh danh nước Việt”. Wikipedia ghi nhận được ba đợt vinh danh, trong ba năm liên tiếp (*):

Năm 2004, có 19 Việt kiều được mời tham dự “Đêm Vinh danh của những người con nước Việt xa xứ ” – tổ chức vào ngày 18 tháng 2 năm 2005 – ở Hà Nội. Con số khiêm tốn này được ông Nguyễn Anh Tuấn (Tổng Biên tập báo điện tử VietNamNet) giải thích một cách khéo léo là “vạn sự khởi đầu nan.” Còn ông Lê Truyền, Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, thì nói một cách rõ ràng hơn:

“Đó chỉ là một con số ngẫu nhiên vì khả năng phát hiện, thông tin của chúng ta mới chỉ được đến thế. Có thể nói rằng công lao đóng góp của bà con Việt kiều ta trên khắp thế giới đối với quê hương đất nước là rất phong phú đa dạng, dưới nhiều hình thức. Việc vinh danh họ sẽ vẫn còn tiếp tục được thực hiện trong các lần khác. Tất nhiên, có cả những người chưa muốn xuất hiện trong đợt vinh danh này.”

Qua đợt sau, Đêm Vinh danh nước Việt 2005 – cũng tổ chức tại Hà Nội, vào ngày 5 tháng 2 năm 2006 – con số “những người chưa muốn xuất hiện” lại tăng thêm chút đỉnh, làm giảm số người “muốn xuất hiện” xuống chỉ còn 15 mạng.

Đến đợt kế tiếp thì chỉ có 11 trong số 17 kiều bào được trao giải “muốn xuất hiện” trong Đêm Vinh danh nước Việt 2006 – theo như tường thuật của Tiền Phong Online, đọc được vào ngày 5 tháng 3 năm 2007.

Tình trạng, rõ ràng, không khá. Bởi vậy Thủ tướng Chính phủ mới ban hành chỉ thị 19/2008/CT-TTg ngày 06/06/2008 để chấn chỉnh “những hạn chế, yếu kém trong việc nắm tình hình người Việt Nam ở nước ngoài, nhất là ở từng địa bàn và các đối tượng cụ thể…”

Phen này, Đảng hạ quyết tâm: Từ ngày 19 đến ngày 24 tháng 11 năm 2009, Hà Nội sẽ tổ chức Hội nghị người Việt ở nước ngoài. Khi được phóng viên của VnExpress.net hỏi về “nội dung của hội nghị này,” ông Trần Trọng Toàn – Phó chủ nhiệm Ủy ban về người Việt Nam ở nước ngoài – đã trả lời như sau: “Hội nghị này được coi như dịp quy tụ trí tuệ của Việt kiu, hiến kế cho đt nưc.”

Tui chưa tới Hà Nội lần nào. Cũng chưa bao giờ có ý định phiêu lưu đến một nơi (rất) lôi thôi, và bất an như thế. Đường thì xa, vé tầu thì mắc, thủ tục thì lung tung rườm rà, và lỡ mà kẹt luôn thì… chết mẹ! Bởi vậy, xin phép Hội nghị để được đứng vào thành phần “viễn ý’ (góp ý từ xa) cho nó chắc ăn:

- Nghị quyết 36, trong phần những “nhiệm vụ chủ yếu,” có đoạn như sau: “Nhà nước tạo mọi điều kiện thuận lợi và hỗ trợ đồng bào ổn định cuộc sống, yên tâm làm ăn sinh sống, hội nhập vào đời sống xã hội nước sở tại… Tích cực đầu tư cho chương trình dạy và học tiếng Việt cho người Việt Nam ở nước ngoài, nhất là cho thế hệ trẻ. Xây dựng và hoàn chỉnh sách giáo khoa tiếng Việt cho kiều bào, cải tiến các chương trình dạy tiếng Việt trên vô tuyến truyền hình, đài phát thanh và qua mạng Internet. Cử giáo viên dạy tiếng Việt tới những nơi có thể để giúp bà con học tiếng Việt. Tổ chức trại hè nói tiếng Việt cho thanh, thiếu niên người Việt Nam ở nước ngoài.”

Nói như thế người Việt gọi là “nói trạng,” hay “nói khoác”. Và cái giọng điệu ba hoa, khoác lác tương tự không thiếu trong bản Nghị quyết này. Theo thiển ý: đã đến nước phải ngổi ngửa nón giữa chợ (đời) thì cũng nên bỏ cái thói huyênh hoang, và cái tính khoác lác đó đi. Kỳ lắm.

- Nghị quyết 36 gồm 3.824 chữ nhưng không có một chữ nào – nửa chữ cũng không luôn – đề cập đến nguyên do khiến mấy triệu nguời Việt phải lưu lạc và tứ tán khắp năm châu. Nói cách khác, đây là một “bản nghị quyết không đầu.” Thiếu đầu thì làm gì có hậu. Sao mà đoảng dữ vậy, mấy cha?

Cứ làm như thể là khi khồng khi không (cái) từ trên trời, có mấy triệu đứa Việt Nam rơi rớt xuống khắp cả địa cầu vậy. Đảng chỉ tiện tay gom cả đống lại cho nó gọn, rồi tiện miệng phán luôn: “Tụi tao đang kẹt lắm. Tụi bay sẵn có tiền, có của thì đóng góp cái này cái kia chút chơi nha.” Chơi như vậy có mà chơi với chó.

Nói gần, nói xa chả qua nói thiệt: chỉ có những thằng những con mất trí nhớ, hay tụi chó má, mới chơi (được) với tụi mày thôi.

Tưởng Năng Tiến

_____________

(*) Vinh danh nước Việt là giải thưởng do báo điện tử VietNamNet sáng lập, có sự hợp tác của Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, được tổ chức hằng năm nhằm tôn vinh những người Việt Nam ở nước ngoài có nhiều thành tích trong sự nghiệp và có nhiều đóng góp với đất nước. (Sự thực thì “vinh danh nước Việt” là giải thưởng do Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam sáng lập, có sự hợp tác của báo VietNamNet” chứ không phải là ngược lại. Chú thích của tác giả).

Lần 1: Vinh danh nước Việt-2004, chủ đề “Mùa chim về tổ”

  • 1. Giáo sư-Tiến sĩ Nguyễn Đăng Hưng (sinh 1941, Bỉ): Có nhiều đóng góp trong việc hợp tác về đào tạo Cao học Bỉ-Việt.

  • 2. Giáo sư-Tiến sĩ nhân chủng học Lương Văn Hy (1953, Canađa): Có nhiều đóng góp trong việc giới thiệu ngôn ngữ, tổ chức xã hội và kinh tế của Việt Nam bằng nhiều hình thức.

  • 3. Tiến sĩ Nguyễn Chánh Khê (1952, hiện đang định cư tại Việt Nam): Có 66 phát minh sáng chế tại Nhật và Mỹ, đem lại những ứng dụng kinh tế to lớn trong lĩnh vực máy vi tính, máy photocopy.

  • 4. Giáo sư-Tiến sĩ Trần Văn Khê (1921, Pháp): Có những đóng góp to lớn trong việc giới thiệu văn hóa nói chung và âm nhạc truyền thống Việt Nam nói riêng ra nước ngoài.

  • 5. Giáo sư-Tiến sĩ Đặng Lương Mô (ở Nhật, đã hồi hương): Từng nổi tiếng ở Nhật và nhiều nước trong chuyên ngành điện tử bán dẫn và thiết kế vi mạch.

  • 6. Doanh nhân Nguyễn Ngọc Mỹ (1950, Ôxtrâylia): Hiện định cư tại Việt Nam, là chủ nhiệm CLB doanh nhân Việt kiều, có những đóng góp rất lớn trong việc nối gần mối quan hệ giữa Việt kiều với trong nước.

  • 7. Giáo sư-Tiến sĩ Ngô Thanh Nhàn (1948, Mỹ): Việc chuyển đổi, mã hóa chữ Nôm, chữ quốc Ngữ trên máy vi tính là một trong những đóng góp điển hình của ông cho đất nước.

  • 8. Nhạc trưởng Lê Phi Phi (Maxêđônia): Giáo sư Trung tâm Âm nhạc và Múa Ilijia Nikolovski của Macedonia.

  • 9. Giáo sư-Tiến sĩ âm nhạc Nguyễn Thuyết Phong (Mỹ): Là người Việt thứ hai (sau GS Trần Văn Khê) được ghi tên và tiểu sử vào cuốn Đại từ điển âm nhạc thế giới.

  • 10. Tiến sĩ Nguyễn Công Phú (1951, Pháp): Là chuyên gia quản lý các dự án lớn về điện, dầu khí, cầu đường tại hàng chục nước, ông tư vấn nhiều cho Việt Nam trong các lĩnh vực khác nhau về giao thông.

  • 11. Tiến sĩ vật lý Nguyễn Quang Riệu (1932, Pháp): Được giải thưởng của Viện hàn lâm khoa học Pháp về những thành tích Thiên văn Vật lý.

  • 12. Nghệ sĩ dương cầm Đặng Thái Sơn (1958): Giải nhất cuộc thi piano quốc tế Chopin lần thứ 10.

  • 13. Chuyên gia tài chính Bùi Kiến Thành (1932, Mỹ): Có nhiều đóng góp có giá trị giúp Việt Nam trong phát triển đầu tư và hội nhập quốc tế về kinh tế, tài chính.

  • 14. Tiến sĩ kinh tế Trần Văn Thọ: Giảng viên có uy tín về thương mại quốc tế, kinh tế chuyển đổi… tại Nhật, là cầu nối quan trọng để nhiều sinh viên tại Nhật đi thực tế tại Việt Nam.

  • 15. Tiến sĩ Trịnh Xuân Thuận (1948, Mỹ): Nổi tiếng trong chuyên ngành thiên văn tại Mỹ và trên thế giới.

  • 16. Giáo sư-Tiến sĩ kỹ thuật y sinh Võ Văn Tới (1949, Mỹ): Thành viên Hội đồng quản trị Quỹ giáo dục Việt Nam (VEF) của Chính phủ Mỹ.

  • 17. Giáo sư-Tiến sĩ vật lý Trần Thanh Vân (1937, Pháp): Bắc đẩu bội tinh của Pháp, người tổ chức các hội thảo vật lý quốc tế mang tên Gặp gỡ Việt Nam.

  • 18. Chuyên gia ngân hàng và đầu tư Vũ Giản (1940, Thụy Sĩ): Giúp Việt Nam nhiều trong việc đào tạo, cải tổ ngân hàng đầu tư và chứng khoán tại Việt Nam.

  • 19. Kiến trúc sư Hồ Thiệu Trị (1945, Pháp).


Lần 2: Vinh danh nước Việt-2005, chủ đề “Những sứ giả Lạc Hồng”

  • 1. Tiến sĩ Nguyễn Quốc Bình (Canada) – Phó giám đốc Trung tâm Công nghệ sinh học TP.HCM

  • 2. Tiến sĩ Nguyễn Trọng Bình (Mỹ) – Khoa học gia ngành Sinh vật phân tử và công nghệ

  • 3. Phó Giáo sư – Tiến sĩ Nguyễn Lương Dũng (Đức), Cán bộ giảng dạy Đại học Bách khoa TP.HCM

  • 4. Tiến sĩ Nguyễn Trí Dũng (Nhật), giám đốc công ty NICD – Minh Trân

  • 5. Hoạ sĩ Lê Bá Đảng (Pháp)

  • 6. Giáo sư – Tiến sĩ Nguyễn Quý Đạo (Pháp)

  • 7. Nhạc sĩ Nguyễn Thiện Đạo (Pháp)

  • 8. Bác sĩ Bùi Minh Đức (Mỹ)

  • 9. Tiến sĩ Lê Phước Hùng (Mỹ)

  • 10. Thạc sĩ Phạm Đức Trung Kiên (Mỹ), giám đốc điều hành Quỹ Giáo dục Việt Nam của Chính phủ Hoa Kỳ VEF

  • 11. Giáo sư – Tiến sĩ Đoàn Kim Sơn (Pháp), Đại học Cơ và Kỹ thuật hàng không ENSMA, CH Pháp.

  • 12. Giáo sư toán học Lê Tự Quốc Thắng (Mỹ) – Viện Công nghệ Georgia, Hoa Kỳ

  • 13. Ông Phan Thành, Chủ tịch Hội đồng quản trị HHNVNONN TPHCM (Canada)

  • 14. Giáo sư – Tiến sĩ Nguyễn Văn Tuấn (Úc), Viện nghiên cứu Y khoa Garvan, Australia

  • 15. Tiến sĩ – Nhạc sĩ Nguyễn Lân Tuất (Nga), Chủ nhiệm khoa sáng tác Hàn lâm Viện âm nhạc tỉnh Novosibirsk.


Lần 3: Vinh danh nước Việt-2006

  • 1. Giáo sư-Tiến sĩ Trần Nam Bình, (Úc), PGS Trường Đại học New South Wales.

  • 2. Tiến sĩ Lê Quang Bình (Mỹ), Chuyên viên thiết kế bộ nhớ Flash của Tập đoàn Advanced Micro Devices (AMD)

  • 3. Giáo sư-Tiến sĩ Nguyễn Văn Chuyển (Nhật) Nguyên Trưởng khoa Thực phẩm và Dinh dưỡng, Trường Đại học Phụ nữ Nhật Bản

  • 4. Tiến sĩ Đỗ Đức Cường (Mỹ), Chuyên gia cao cấp ngành Ngân hàng tại Hoa Kỳ, Đại sứ Thiện chí Liên hiệp quốc, Cố vấn cao cấp ngành Ngân hàng tại Việt Nam

  • 5. Ô. Trung Dũng (Mỹ), Giám đốc điều hành V-Home Group

  • 6. Bác sĩ Hoàng Anh Dũng (Bỉ), chuyên gia ghép tạng, đại học ULB

  • 7. Bác sĩ Quỳnh Kiều (Mỹ), Bác sĩ xuất sắc, Phụ nữ xuất sắc của Tiểu bang California

  • 8. Giáo sư-Tiến sĩ Thái Kim Lan (Đức), GS Trường Đại học Munich, Chủ tịch Hội Giao lưu Văn hoá Đức – Á của Munich

  • 9. Giáo sư-Tiến sĩ Trần Minh Tâm (Thụy Sĩ), GS Trường Bách khoa Liên bang Thụy Sĩ tại Lauranne

  • 10. Họa sĩ Văn Dương Thành (Thụy Điển), Trường Cao học Công Dân

  • 11. Linh mục Nguyễn Đình Thi (Pháp), Chủ tịch Hội Huynh đệ tại Pháp

  • 12. Giáo sư-Tiến sĩ Phạm Gia Thụ (Canada), GĐ phòng Tính toán và Sử lý hình ảnh trường Đại học Moncton

  • 13. Kỹ sư Đỗ Anh Thư (Mỹ), TGĐ Quỹ Y tế – Văn hoá – Giáo dục cho Việt Nam – VNHELP

  • 14. Tiến sĩ Trương Nguyễn Trân (Pháp), GĐ Nghiên cứu Danh dự Trung tâm Vật lý Lý thuyết Trường Đại học Bách khoa Paris

  • 15. Giáo sư-Tiến sĩ Lê Dũng Tráng (Pháp), Viện sĩ, GĐ Trung tâm Toán học của Viện Hàn Lâm Thế giới tại Italy

  • 16. Giáo sư-Tiến sĩ Huỳnh Hữu Tuệ (Canada), Trường Đại học Laval

  • 17. GS Vũ Đức Vượng (Mỹ) GS trường Cao đẳng TP San Jose

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn