BÀI ĐỌC NHIỀU NHẤT
(Xem: 83599)
(Xem: 64886)
(Xem: 42442)
(Xem: 33979)
SỐ LƯỢT XEM TRANG
0

Cái võng dù từ Tiên Phước

16 Tháng Sáu 20257:54 SA(Xem: 674)
Cái võng dù từ Tiên Phước
52Vote
40Vote
30Vote
21Vote
10Vote
43

Đầu xuân là những ngày dọn dẹp nhà cửa, như người Mỹ thường nói, “Spring cleaning.” Tôi hò hét hai ông con phụ dọn phòng của… tụi nó. Một đống quần áo dơ kế bên một đống quần áo sạch. Cái futon đầy dây nhợ từ mấy cái laptop và game. Một mớ hùm bà lằng các thứ dụng cụ để tụi nó chơi chế đủ thứ. Nhìn cái phòng của tụi nó mà tôi muốn xỉu. Tôi đe, “Hai đứa mà không dọn phòng cho ngăn nắp, mẹ hốt đổ thùng rác hết.” Hai ông con tuổi niên thiếu của tôi vội vàng thu thu góp góp. Tôi quay lưng ra dọn phòng khách.

Được một lúc, cậu lớn của tôi đi ra phòng đưa cho tôi một bao giấy. “Cái này trông giống cái võng phải không mẹ?” Tôi lôi ra từ cái bọc giấy. “Ồ!  Phải rồi! Cái võng này ông bà ngoại đem từ Việt Nam sang đó. Nó nhiều tuổi hơn cậu Út nữa đó.” Thằng con hả miệng trợn mắt, “Thật à?” Tôi gật đầu và bồi hồi lại nhớ những ngày xưa. Bao nhiêu lần tôi tự nhủ, “quên đi những ngày sau 75 để sống cho khoẻ.” Vậy mà vẫn không quên được. Khổ cực, nghèo đói, khó khăn. Chẳng vui sướng gì nhưng cứ nhớ và lại kể cho hai thằng con hợp chủng quốc nghe. 

Sau năm 1975, vì để tránh tiếng “nguỵ quyền giàu có” và cũng để lấy tiền sinh sống, mẹ tôi phải bán đi những món đồ trong phòng khách trước hết. Mới đầu là chiếc xe honda hai bánh của ba, rồi bộ bàn ghế salon, cái tủ đứng có cái gương soi, cái radio, cái máy hát… Từng thứ một lần lượt ra đi. Phòng khách nhà tôi trở nên trống trơn, ngoại trừ bộ ván mít của ông nội đem từ Tây Lộc xuống, nên mẹ không dám bán. Cái phòng trống hoang nên mỗi khi nói lớn thì nghe tiếng của mình vọng lại. 

Bản đồ Tiên Phước thời chiến tranh
Bán hết đồ đạc trong phòng khách, mẹ bán đồ đạc phòng bên hông nhà. Tôi tiếc nhất là cái giường nệm nhỏ vì tôi và cô em kế không còn được leo lên giường nhún nhảy để vồng nảy người lên xuống. Mẹ bán luôn mấy tấm ván làm sàn của căn gác lửng, nơi tôi ước làm cái phòng của riêng mình. Cái phòng trông thật xấu xí khi chỉ còn những thanh xà ngang lộ ra một khoảng tối thăm thẳm. Có lẽ mẹ thấy cái tiếc nuối trong mắt tôi nên mẹ thì thầm nói, “Khi nào ba về thì ba sẽ làm lại.” Trông mãi chẳng thấy ba về mà cứ thấy đồ đạc trong nhà vơi dần. Hồi đó tôi còn nhỏ lắm nhưng cảm thấy buồn mỗi khi người ta vào nhà khiêng đi những món đồ mẹ bán. Cũng may là con nít dễ quên nên tôi quen dần với cảnh ấy. Vậy mà đến bây giờ những cảm giác buồn tiếc ngày ấy lại trở về, lại cảm thấy cay cay nơi sống mũi.


Nhưng mà mẹ không bán cái võng dù. Đó là cái võng đan bằng những sợi dây từ những cái dù, máy bay thả đồ tiếp tế xuống vùng núi Tiên Phước nơi ba tôi làm việc. Ba tôi kể rằng người dân vùng đó lấy những cái dù chế ra những vật dụng trong nhà. Vải dù để may áo hoặc để vắt bột từ khoai sắn, khoai chóc. Dây dù thì có nhiều công dụng nhất. Nào là làm dây phơi áo quần, làm bẫy chồn, cheo, chim… Và độc đáo nhất là đan những sợi dây dù thành những cái võng giăng dưới những vòm cây cao hay chái hè mà hầu như quanh nhà nào ở Tiên Phước cũng có. Một người nào đó đã tặng cho ba tôi một cái võng dù như vậy vào khoảng năm 1972. Cái võng đã ru tất cả chị em tôi, nhất là cậu em út, vào những giấc ngủ trưa ngủ tối thời thơ bé nhọc nhằn, tủi hổ.

Đó là những năm sau 1975, khi ba tôi đi tù cải tạo và mẹ tôi không còn được đi dạy vì là vợ nguỵ quyền. Mẹ phải dậy sớm đi về chợ quê mua nông phẩm về bán ở chợ gần nhà tôi. Mỗi sáng mẹ thức dậy từ 4 giờ sáng, mẹ nhè nhẹ ra khỏi giường để cậu em út tôi mới hơn một tuổi đừng thức giấc. Mẹ lay chị tôi, 11 tuổi, dậy cài cửa khi mẹ đi khỏi nhà. Có những hôm cậu em tôi thức giấc đòi theo mẹ, chị tôi để em vào võng, rồi chị mắt nhắm, mắt mở lắc đưa dỗ em ngủ lại.Ban ngày, mỗi khi cậu em khóc mà phải làm việc nhà, chị bày tôi và cô em kế đưa võng dỗ em. Chị không dám cho chúng tôi bồng em vì đứa nào cũng ốm nheo. Chị sợ tụi tôi thả em rớt đất vì bồng em không nổi. Chị cũng sợ tụi tôi làm văng em khỏi võng nên lấy một que củi găng cái mép võng cho thành võng được cao và rộng hơn để giữ em nằm yên trong đó. Cậu em khóc càng to, tụi tôi đưa võng càng mạnh.  Không biết vì sợ hay thích nhưng cậu em nín khóc ngay. 

Đôi khi tôi cũng nằm trên võng với cậu em để ru nó ngủ. Hai chị em nằm hai đầu. Cái võng cao và tôi nhỏ xíu nên không chống chân tới đất như mẹ, như chị để đưa em. Mẹ cột một sợi dây vào khung cửa sổ gần đó và tôi nắm đầu dây kia kéo. Cái võng lắc lư ru hai chị em tôi ngủ. Khi cậu em tôi thức giấc thì chị em chúng tôi chơi đu với cái võng. Chúng tôi từng đứa một thay phiên nhau ngồi võng, quay mặt vào tường, chân nhón lên rồi kéo cái võng ra xa và nhanh nhẹn ngồi xuống. Cái võng đưa đến gần tường thì đạp mạnh đẩy nó ra xa. Cái võng rộng trùm kín cả người nên không sợ rớt. Đẩy càng mạnh thì võng đưa càng xa. Nhiều lúc tôi tưởng mình được bay trên không, rất thích! Chúng tôi hò hét vang cả nhà.

Cô em gái tôi còn nghĩ ra một màn xiếc với cái võng.  Đẩy người cho võng chao và nhanh chóng lộn úp mặt xuống đất nhưng người vẫn ở trên võng với tay chân chống vào mép võng.    Tôi vẫn còn nhớ cái cảm giác hồi hộp sợ bị rớt đập mặt xuống sàn nhà bằng xi măng nhưng rất thích thú khi lộn thành công trong cái võng. Rồi thêm trò đu bay. Tụi tôi thay phiên nhau ngồi trong võng, lấy sợi dây luồn mép võng lại với nhau làm thành một cái lưới kín. Đứa ở ngoài đưa thật mạnh cho cái võng bay gần như lộn một vòng. Cứ giống như là người đi chơi roller coaster ở Disneyland hay là Magic Mountain bây giờ vậy. Cái võng dù đã đem niềm vui đến cho tuổi thơ của chị em tôi. 

Năm 1977, trên quê của ba mẹ tôi đã có trường học. Những cô giáo, là bà con của hai bên gia đình ba mẹ thường đến ở trọ nhà tôi để đi học bồi dưỡng chính trị vào những tháng hè.  Họ không đi một mình mà còn đem theo con lớn để giữ con nhỏ lúc họ đi học. Chị em chúng tôi vui lắm vì có đông con nít chơi vui. Chị tôi lại bày những đứa lớn ru em nhỏ của nó trong chiếc võng dù của nhà tôi. Và dĩ nhiên là chúng tôi chơi trò đu bay và nhào lộn trên cái võng đó nữa. Rồi anh chị họ xuống ở tạm nhà tôi trong một thời gian ngắn với những đứa con mới sinh mỗi đêm khóc ngằn ngặt vì khát sữa bởi mẹ thiếu ăn. Và cái võng lại đung đưa dỗ dành giấc ngủ cho những em bé đó. Không biết bao nhiêu đứa trẻ đã nằm ngủ hoặc chơi đùa trên chiếc võng dù nhà tôi.  Chẳng phải chỉ có đám con nít mê cái võng mà người lớn cũng thích. Ai nằm trên cái võng cũng khen cái võng trơn mượt và êm chứ không cứng và xót như những cái võng gai ở mua ở chợ.  

Năm 1985, ba tôi vào Mỹ Xuân mang theo cái võng dù đó. Cái võng giăng trong nhà cho ba tôi nằm ngủ trưa, hoặc là cho khách ngả lưng qua đêm khi đến thăm nhà tôi. Những ngày mưa, tôi không phải ra ruộng vườn, được ở nhà nằm võng và đọc đi đọc lại một vài cuốn truyện tôi có được. Rồi cái võng dù theo nhà tôi sang Mỹ.  Nhà chung cư chật hẹp chẳng có chỗ treo võng và vì phải bận rộn với công việc để thích nghi với cuộc sống mới nên chẳng có thì giờ nằm võng. Nhưng khi những đứa cháu ra đời, thì cái võng lại được đem ra đong đưa giấc ngủ cho từng đứa một. Cũng có khi ông hay bà ôm cháu nằm trên võng và ngủ trưa với cháu nữa. 

Cái võng dù cuối cùng về nhà tôi khi đứa con đầu tiên của vợ chồng tôi ra đời. Ông xã tôi mắc cái võng dưới tán cây dâu tằm sau nhà vào những ngày hè để tôi ru con ngủ. Ba năm sau đó chúng tôi có đứa con thứ hai. Và cái võng lại mang ra khi hè tới là lúc tôi được ở nhà với các con. Ba mẹ con nằm ngủ trưa trên võng như tôi đã từng ru cậu em út ngủ lúc còn bé thơ. Rồi một hôm tôi quên tháo võng vào cuối ngày, mấy con sóc quái quỷ rớt vào đó vũng vẫy rồi cắn rách một góc nhỏ. Tôi sợ võng hư, tháo ra cất. Cất kỹ quá nên quên luôn cho đến hôm nay. 

Sau khi nghe tôi kể về cái võng, cậu con nhỏ tôi đùa, “Vậy nhà mình mở phòng triển lãm đồ cổ sau những cuộc chiến đi. Cái bàn gỗ của ông nội của ba sau cuộc chiến Mỹ-Nhật và cái võng dù của ông ngoại sau cuộc chiến Việt nam. Chắc là sẽ có nhiều người đến xem.” Cậu con lớn tôi thì có vẻ tư lự một chút. Nó hỏi, “Có phải vì ông ngoại đi làm ở chỗ cái võng đó mà bị đi tù cộng sản phải không? Mà công việc của ông ngoại là gì vậy?” Tôi trả lời, “Đúng vậy. Ông ngoại làm cho cơ quan xây dựng nông thôn ở Tiên Phước, một huyện miền núi của tỉnh Quảng Nam.” Nó chần chừ một chút rồi hỏi tiếp, “Xây dựng nông thôn thì tại sao phải đi tù tới 7 năm?” Tôi đáp, “Có lẽ cộng sản họ sợ nên bắt hết tất cả những người làm việc với chính quyền miền Nam đi tù. Như ông ngoại của Ân Điển (là cháu nội của ba tôi) là thầy hiệu trưởng của một trường tiểu học cũng đi tù 6 năm đó.” Nó lại hỏi, “Vậy ông nội của Thiên Phú (là con của em gái tôi) có bị đi tù không?” Tôi gật đầu giải thích thêm, “Có. Ông đi tù hơn 13 năm. Nói chung là những người đàn ông họ hàng của mẹ đều đi tù cộng sản. Ba của anh Tuấn đi tù 5 năm. Ông nội của Chiến đi 13 năm, ông ngoại của Chiến 7 năm. Các bạn Việt Nam của mẹ ở đây đều có cha hay anh đi tù nhiều năm. Vì vậy gia đình mẹ và những người đó được chính phủ Mỹ cho phép sang đây định cư. Chúa thật nhân lành với họ hàng của mẹ.”

Thủy Như
Người Việt



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn