BÀI ĐỌC NHIỀU NHẤT
(Xem: 79306)
(Xem: 63634)
(Xem: 41118)
(Xem: 32703)
SỐ LƯỢT XEM TRANG
0

Những trang nhật ký cuối năm

23 Tháng Giêng 20257:28 SA(Xem: 1793)
Những trang nhật ký cuối năm
50Vote
40Vote
30Vote
20Vote
10Vote
00

Thứ hai 19-01-25

Những con đường trong thành phố chật và kẹt cứng, từ quận 7 đi tới quận 1 không hơn 7km mà tôi phải đi gần một tiếng mới tới đầu đường Nguyễn Trãi. Đi ngang chợ Thái Bình, khu chợ cổ của Sài Gòn thấy nó vẫn lem nhem đầy rác bên đường, những ngày cận tết mà nó lưa thưa thật tội nghiệp, thương nhân vật vã với tình huống trả mặt bằng, mua bán tiện tặn. Tết năm nay chắc là cái chợ sẽ thê thảm, cái chợ này là phần nào phản ảnh trung thực sinh hoạt cuối năm của Sài Gòn.

Tôi đứng đợi để nhận một ít tiền mà thằng bè bạn quen từ hơn 15 năm chuyển cho để làm quà cho những anh em của tôi, những kẻ còn mang đầy thương tích từ nhiều chiến trường xưa. Trong tình người cũ, tôi cố chịu đựng và đứng đợi trên lề đường hơn cả tiếng, vì nơi tôi đến là một cửa hàng người ra vào vướng víu, chật chội. Kệ, nắng, bụi, ồn ào chút xíu có sao đâu…

Cho tới 10g hơn tôi băng ra đường đội cái nắng nóng và mịt mù khói bụi của Sài Gòn, hướng về nhà Đoàn Ngọc Mỹ ở tận bờ kinh Nhiêu Lộc. Lâu lắm rồi tôi không đi qua những con đường lớn của Sài Gòn, thấy hình ảnh mặt bằng đóng cửa hàng loạt ở Lê Lợi, ở Trần Hưng Đạo và cả những khu sầm uất của Chợ Lớn, tôi đâm ra thấy thương cho Sài Gòn, cái thành phố nuôi tôi nhiều chục năm bất thần hình ảnh nhộn nhịp ngày cuối năm hồi xưa không còn nữa.
Mỹ ngồi xe lăn, đón tôi ngoài cửa, ba điều bốn chuyện vội vàng với Mỹ, chưa đầy 5 phút tôi đã rời nhà Mỹ chạy về quận tư, đi trên cầu Kinh Tẻ rồi quay đầu xuống con hẻm dưới gầm cầu, để tới nhà Hoàng, gã thương binh cùng tôi và Mỹ một thuở nhà bàn ở Quang Trung.

Đoàn Ngọc Mỹ
Đoàn Ngọc Mỹ


Hoàng trần trụi ngồi đắp ba thứ lăng nhăng cỏ cây gia truyền trên cái chân còn lại đang bị hoại tử của hắn, ngay cửa ra vào. Căn nhà tối mờ mờ, một cái giường cá nhân kê sát vách, lôi thôi và nhếch nhác. Hoàng bảo tôi ngồi đại trên giường của hắn. Chỉ với mỗi cái quần tà lỏn, hắn nhấc cái chân cụt, chống tay đứng dậy, lê cái cẳng còn lại với lớp da sần sùi đã ngả màu đen.

– Cái chân mày giống y chang thằng Đính ở Huế, mà tao cũng lạ sao nó không hoại tử vài năm sau khi mang thương tật, mà chờ mấy chục năm sau mới hành tụi bây vậy chứ?

– Tao dùng hết các loại thuốc rồi, nhưng bó tay, nay xài tới mấy thứ cỏ cây xem ra sao.

Nguyễn Thanh Khiết - Đào Văn Hoàng
Nguyễn Thanh Khiết - Đào Văn Hoàng


Tôi có quá nhiều kỷ niệm với hai gã này. Năm 2011 tụi tôi ngồi uống trà ở nhà Trần Mộng Hằng trên đường Trần Hưng Đạo, đó là ngày các cựu khoá 3/73 ngồi lại với cây mùa xuân muộn màng. Buổi tiệc trà qui tụ hơn chục mạng, rồi à ới gọi cho mấy tên ở xa online qua Skype. Nhớ lúc đó facebook, Viber chưa có cái vụ video call, Zalo thì chưa ra đời. Thằng Skype lại chập chờn, kết nối hai mạng thì khỏi thấy hình. Vậy đó mà 15 năm qua ở Sài Gòn này tôi còn lại chỉ có hai thằng nó là cùng mâm nhà bàn, mấy đứa kia đã chán đời, chán tình rủ áo ra đi, Hằng, Phạm Tuyết, Trần Thanh Bạch, Vàng… cả đống bạn bè những thằng không chết trận mà chết trong tuổi già, bệnh tật, thương tích, và mất mát. Riêng Mỹ, nó liệt giường từ 1974 với mảnh đạn cắm vào cột sống, NẰM mà nhìn bè bạn ra đi.

– Hôm ghé thăm thằng Đính ở Huế, tao thấy nó giống như mày trên cái chân còn lại, nhưng Đính thì mủ trong ống chân cứ rỉ ra hoài, làm nó phải tẩy trùng, lau miết, ngồi với nó chưa được hai giờ mà nó hai lần xì mủ ra.

Hoàng tỉnh bơ:

– Riết rồi quen mày ơi! Tao chỉ bực là nó làm mình khó chịu chút.

– Nè, tao mới có tí tiền gởi mày như quà cây mùa xuân, dúng ra tao phải bỏ nó vào phong bì trịnh trọng ghi mấy chữ: Kính gởi cựu chuẩn uý Hoàng, K 3/73 lung tung, nhưng tội cho tao gấp gáp, tao mới từ thằng Mỹ chạy sang, mà tao, mày, nó có chi phải cung kính chào tay, nghiêm nghỉ. Trịnh trọng một chút thì:

– Thay mặt các anh em bè bạn đã nhờ tao chuyển cho mày, coi như chút quà tết.

Hoàng nhăn nhó đẩy tôi ra cửa:

– Ừ về đi, giữ liên lạc với tao, từ hôm 19-06-2018 gặp mày ở quán Bờ Sông tới nay, tao mất luôn số máy của mày.

– Tao sẽ gọi lại để mày lưu số, nhớ trước lúc đi, mày nhắn cho tao cái tin, rồi hãy nhắm mắt nghen.

Bè bạn tụi tôi là vậy, thứ ngôn ngữ nhà binh ngày trước vẫn được dùng, dù nửa thế kỷ qua cũng không quên. Rồi chia tay, chia chân vội vàng như những lần gặp trước.

Tôi qua cầu Phú Mỹ giữa trời nắng chang chang, một tai nạn làm kẹt tới chân cầu, đoàn xe tải chạy bán sống, bán chết cho kịp chuyến hàng cuối năm đã làm kẹt hết những tuyến đường ra vào Sài Gòn từ nhiều ngày qua, sau cái luật lệ con mẹ gì đó làm rối răm hết cái người ta hay gọi là “trật tự giao thông”. Và cái trật tự này đang làm nối đuôi hàng cây số xe là xe, hàng ba, hàng tư dàn ngang mặt cầu. Đội nắng trên cầu hơn nửa tiếng tôi mới luồn lách được trên hàng lang nhỏ xíu dành cho xe hai bánh.

Khu Phước Bình là nơi tôi có nhiều anh em quen biết. Hai mai Biệt Động Quân Huỳnh Thanh Tâm đã bỏ chúng tôi đi hàng chục năm nay, ông còn rủ theo Nguyễn Thanh Hùng (mặt móp) và Trương Văn Vân. Cái bàn tiệc năm xưa phải kéo thêm bàn thêm ghế cho đủ chỗ, giờ chỉ còn hai mạng thân quen, Bùi Văn Ấn cùng Trần Tính, ai cũng qua hàng 80 chắc sớm muộn gì cũng nói lời chia ly, kệ gặp nhau trước lúc lìa đời cũng là may mắn.

Ngồi ở nhà anh Ấn, chúng tôi nhắc những kỷ niệm xưa lúc tôi bày trò viết lách chụp cái hình mấy cái chân cụt qua những thời gian tạo tác khác nhau và xưa như trái đất trên thân thể những cựu binh có mấy đời chiến đấu, hết lớp này tới lớp khác, rồi lụi tàn, rồi âm thầm ra đi.

Thương binh Việt Nam Cộng Hoà

Anh Tâm mang cái chân giả từ năm 1968, lúc anh mang hai mai trên áo BĐQ, Bùi Văn Ấn chắc 1970 gì đó, Trương Văn Vân trẻ nhất trong số ba cái chân của ba chiến binh quên bỏ lại chiến trường.

Bùi Văn Ấn, cầm cái phong bì tôi nhờ anh trao lại cho Trần Tính, con sói biển của TQLC ngày xưa. Bây giờ ở tuổi 82 bệnh tật, thương tích năm nào làm nhức nhối khi đông về hay nắng hạn. Anh rời Thủ Đức sang nhà bà xã trú đông trong mấy ngày tết, nên tôi lỡ cuộc gặp đã hẹn hò mấy năm chưa thực hiện.

Hai anh em tôi ngồi nhắc những cái tên đã ra đi, nhớ những ân tình với nhau từ ngày ngồi uống ly bia trong một quán nhỏ, khi Thủ Đức còn là một vùng hoang sơ, nay nó đã nhắm mắt nhắm mũi lên cấp thành phố.

Anh Ấn và tôi luôn liên lạc nhau khi trái gió trở trời, cho nên khi sang đây tôi chẳng thèm gọi báo với anh, chính vì thế mà mất cơ hội ngồi uống tay ba trong chiều cuối năm, tết tới.

Ly cà phê đá, nhạt nhẽo gọi cho có đó cũng đủ cho anh em tôi cà kê cho đến khi chiều xuống, tôi nói với anh mai tôi đi An Điền, Rạch Bắp.

– Trên đó còn nhiều anh em không Khiết?

– Chết dần hết rồi, còn dăm ngoe, ngồi chưa hết cái bàn, cũng như anh em mình ở Thủ Đức thôi, già, đau bệnh, sống lây lất…

– Đi xe gắn máy lên đó hả?

– Dạ chỉ có con ngựa già này thôi, nó từng trèo tới Charlie, sá chi vùng đồng bằng xứ Rạch Bắp.

Chúng tôi chia tay, anh chỉ cho tôi hướng về cầu Phú Mỹ sao cho nhanh nhất. Thủ Đức phát triển rầm rộ, những con đường lạ hoắc làm tôi muốn chóng mặt, không có anh chắc tôi chạy tới sập tối mới về tới nhà.

An Điền 21-01-2025

4 giờ sáng ra khỏi nhà, tôi chạy xe trong cái lạnh sáng mùa đông, qua những con đường còn vàng ánh đèn. Khu Thị Nghè bây giờ khác ngày xưa, cây cầu vượt tại ngã tư Hàng Xanh xe cộ đan khít nhau dù chỉ tờ mờ sáng, những chuyến xe buýt đầu ngày bấm còi vượt nhau, âm thanh không đủ gõ cửa để người dân thành phố thức dậy, đó là những dấu hiệu mệt mỏi của Sài Gòn, sau nửa kỷ trở mình để cố quên cái cũ.

Cái cũ của sáng mờ sương ngồi café quán vỉa hè đốt điếu Capstan, Bastos Luxe hay Ruby Queen chiêu một ngụm café pha bằng vượt và đun bằng bếp dầu, trong siêu sắc thuốc có màu đất nung vàng nâu. Hương vị xa xưa trở thành thứ cổ không thể phục hồi sau khi vở tan từng mảnh sau mùa ly loạn, có còn chăng vài ba hóc hẻm quanh vùng Chợ Lớn, nơi người Tàu còn bám trụ và cố chiều mấy lão già khó tính khi uống café. Khách của họ dần dà chết đi, thay vào lớp người trẻ hơn, chủ quán cũng thế, nào là ba đời giữ cung cách cũ, nhưng tất cả dần khác đi, dần vơi đi và dĩ nhiên nó mất dần trong cuộc người thay đổi, cho tới hôm nay những quán café pha máy có ghi thêm mấy hàng chữ mang về, hay kiểu Tây hơn chút là take away… Hương vị không mặn mà như trước, café nhạt nhẽo, không sánh đậm chảy dọc thành ly như xưa. Tôi cũng bị cho ra rìa khi không mấy thú vị uống những ly café của thế hệ mới này.

Qua Bình Dương thấy một quán bên đường chong đèn vừa mở cửa, tôi tấp vào ngồi đợi, và dĩ nhiên với ly café pha bằng máy, như một ghé lại nghỉ chân, đã 5 giờ sáng, ổ bánh mì mới ra lò của cô chủ quán vừa đi chợ về không đủ lót dạ cho chuyến đi xa 60 cây số ở tuổi quá 70 làm tôi e ngại.

Nguyễn Thanh Khiết - Lái ThiêuNguyễn Thanh Khiết - Lái Thiêu va ly ca phe

Quốc lộ 13 tôi quen từng ổ gà cũng đổi thay, người ta đang cào xới, máy móc đậu hiên ngang bên đường để làm rộng ra, và nghe đâu lên tới 10 làn xe chạy, mặc kệ tương lai của con đường chết chóc này, tôi chỉ tới Bến Cát là quẹo vào Cầu Đò để sang hướng Rạch Bắp thôi, nó ăn nhậu gì tới chuyến đi sáng sớm của tôi. Tôi bật đèn xe chạy cho tới ngã tư Sở Sao mà trời chưa sáng hẳn.

Mười năm trước, khi tôi đến đây, đường vào chợ Bến Cát còn nhầy nhụa mùa mưa, cát đá loang lỗ ngày nắng, cây Cầu Đò bé tí xíu vắt ngang con sông dẫn vào Rạch Bắp, An Điền. Bây giờ nó quá lạ.

Đất địa này từng có những trận đánh khốc liệt từ những năm 1973 – 1974, đó là trận Tam Giác Sắt, chính tướng Nguyễn Văn Hiếu tư lệnh phó Quân đoàn III đã đích thân xuống Bến Cát, ông ra lệnh cho sư đoàn 18 của tướng Lê Minh Đảo mang 2 trung đoàn bằng mọi cách lấy lại cho bằng được An Điền. Cuộc chiến chấm dứt ngày 04-06-1974. Trong những thương binh ngày đó, tháng đó có vài bè bạn, anh em của tôi. Họ đang chiến đấu tiếp với phận đời còn lại. Ngày tháng qua đi, suốt 15 năm chúng tôi là những cựu binh quen nhau, gặp nhau chia sớt cho nhau, giờ còn chỉ vài anh em, những người đã chết kém may, mà không, họ thực sự may mắn đã về đất, khi họ vĩnh biệt chiến trường xưa còn có những anh em cũ đưa tiễn. Những người sống sót hôm nay chắc gì có cái hạnh phúc nhỏ nhoi đó.

Dù rằng những kẻ đã đi đó, vẫn chiến đấu bằng tay không, trên một lối đánh khác, cuộc chiến không súng đạn, nhưng họ chiến đấu oằn oại bằng cái đầu chai sạn khi vẫn ôm thương tật năm nào. Dĩ nhiên quan tài họ không được phủ kỳ, dù họ vẫn thi hành nhiệm vụ. Nó khác với thế giới bên ngoài cái thế giới có lá quốc kỳ phủ áo quan dù chết trên giường với một cô bồ nhí. hay chết sau một trận nhậu trong một nhà hàng sang trọng nào đó.

Anh Sang lái chiếc xe ba bánh dành cho người tàn tật chở theo Nguyễn Văn Bội đón tôi ở bên đường phía bên kia Cầu Đò đường vào Rạch Bắp, chúng tôi kéo nhau tới nhà Thành trong một con hẻm trên con đường mới mở cắt sang ngã tư Phú Thứ, một địa danh chết chóc trên Quốc lộ 13.

Thuong phe binh viet nam cong hoa - Võ Văn Sang chở Nguyễn Văn Bội


Tiệc trà mở ra quanh cái bàn tròn, 4 gã thương binh và tôi thằng duy nhất còn nguyên vẹn, tôi gọi Đức người anh em ở xa, rất xa, bên kia đại dương bằng smart phone cho hắn tham gia tiệc trà để hắn tận mắt thấy những anh em tôi, những người sắp hay đang đi về đất chết, và cũng nhân cơ hội cho hắn thấy cái hắn muốn thấy và cái cần biết như một chứng minh, hay còn được gọi là nhìn xem tính lương thiện của những người không có trái tim để rung động hoặc khóc than phận mình.

Nguyễn Thanh Khiết và các anh thương binh Việt Nam Cộng Hòa
Võ Văn Sang lớn hơn tôi một tuổi, nhưng khoái mày tao như thời ở lính, Nguyễn Văn Bội cũng là con ngựa ốm như tôi, sinh vào năm non nước bể hai.

Mười mấy năm, ghé thăm nhau bao lần, cà kê với nhau bao trận, hôm nay có lẽ cuối đời tôi muốn rơi lệ khi quyết định mở cho mấy anh em nghe bài thơ “Bức tranh tỉnh lặng ngày 23 tết”, tôi viết cho các anh từ năm 2013 trong lần qua An Điền bằng giọng ngâm chẳng ra ngâm, đọc chẳng ra đọc, cà khịa của mình. Và khi nhận ra cảm xúc của những tên bị tả chân trong bài thơ.

– Tôi đã tả chân hai bàn tay anh đó Bội, và đôi mắt mù của anh Hải

tranh vẽ chưa xong – mực, màu chưa hết
hai cùi tay không bám được ly trà
gã mù quơ ngang nước mắt tràn ra
rơi mấy giọt làm luốc lem trời đất

nguyễn thanh khiết
ngày 23 Tết Quý Tỵ 2013 ở An Điền

Thương binh Việt Nam Cộng Hoà - Nguyễn Văn Bội
Nguyễn Văn Bội

Bội ngồi im, hai cùi tay run run, trong khi Thành tựa vào ghế chỉ lắc đầu, Sang lim dim cúi xuống sờ trên cái chân bằng nhựa đã bong tróc phần gót chân, anh Hải người lớn tuổi nhất trong đám anh em rưng rưng nói:

– Sao tới bây giờ ông mới cho tôi nghe?

– Thì coi như tui cho mấy cha nghe lần đầu cũng như lần cuối, coi như tống tiễn mấy cha về đất mà.

Đồng hồ chỉ 11g trưa. Sang nằng nặc đòi tôi phải cùng tới nhà anh Hải ăn dằn bụng để ra về, Thành ôm bụng nhăn nhó:

– Tôi vô phương, mấy hôm nay cứ đau hoài, mấy anh đi đi, tôi đành thất lễ với anh Khiết, cơ hội này mà tôi không tham gia được tôi tiếc quá.

Nhà anh Hải nằm trên trục lộ mới mở, là đường tắt về tận Hóc Môn Sài Gòn, bữa ăn trưa có 4 mạng mà phải chia hai mâm, cha nội Hải ăn chay từ khi đổi tên mình trong lần làm căn cước nên chỉ chơi mì gói trộn rau trồng sau nhà. Thấy tôi sửa soạn đi về. Sang chỉ đường cho tôi từng chút, nào là quẹo trái, cắt sang phải….

– Cha nội, tui cầm bản đồ trên Google là xong anh lo chi.

– Đừng giỡn mặt, đi bằng đường tỉnh 15 là dễ lạc lắm nghen.

Chúng tôi chia tay lúc quá trưa, cả đám bịn rịn nhau không rời, thiệt là giống cảnh như người ta kể trong phim… “Đưa người qua sông Dịch”.

– Thôi anh Hải đã không thấy đường mà đưa với tiễn chi, cha nội Sang chở ông Bội về đi, nếu còn sống, có cơ hội tui sẽ mò lên, nhưng nhớ giữ máy, đừng vội cắt liên lạc nghen, nhất là ông Bội đó.

– Hi Hi tui chờ ông lần tới, mai hay mốt ngày nào cũng được.

Bỏ An Điền phía sau, tôi lên con ngựa già hướng ra Quốc lộ nhưng quẹo trái trước khi đụng Phú Thứ, rồi một mình đi về Hốc Môn, bằng con đường chưa từng đi lần nào. Tôi nhắc thầm:

– Phải đổ xăng, ngày mai phải thức dậy khoảng 8 giờ đi ra bưu điện còn mấy thằng ở xa đang đợi ./.

nguyễn thanh khiết
SG 22-01-2025

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn