BÀI ĐỌC NHIỀU NHẤT
(Xem: 72638)
(Xem: 62055)
(Xem: 39154)
(Xem: 31021)
SỐ LƯỢT XEM TRANG
0

Lý Thường Kiệt

23 Tháng Năm 20237:51 SA(Xem: 852)
Lý Thường Kiệt
50Vote
40Vote
30Vote
20Vote
10Vote
00

Lời giới thiệu

“… Đọc để nhớ lại là Việt Nam ta đã có thời dậy cho Trung Hoa một bài học.”

-TVG

 

*

 

“Nực cười châu chấu đá xe

Tưởng chừng chấu ngã, chẳng dè xe nghiêng.”

-Phong Dao

 
lythuongkiet

 Sau chín năm, kể từ khi nhà Lý dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long. Một vĩ nhân của nước Đại Việt (tên nước Việt Nam bấy giờ) ra đời. Vĩ nhân đó là Ngô Tuấn. Sau này Ngô Tuấn được vua Lý Thái Tông tin dùng, nhà vua coi như người em và được mang họ vua, đổi tên khác là Lý Thường Kiệt.

 

Lý Thường Kiệt người làng Bác Biên, xã Phúc xá, huyện Gia Lâm. Sau Ông dời về phường Thái Hòa, bấy giờ là vườn Bách thảo, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội. Ông sinh năm Kỷ mùi (1019), mất năm Ất Dậu (1105), hưởng thọ 86 tuổi.

 

Thân phụ là một võ tướng bị mất khi đang thanh sát vùng biên giới Hoa Việt, năm ấy Lý Thường Kiệt 13 tuổi, nhưng được mẹ và người chú hết sức dạy dỗ từ văn chương tới võ nghệ. Năm 23 tuổi ông được tuyển vào cung làm hoạn quan (eunuch) với chức Hoàng môn chi hậu; rồi thăng dần đến chức Thái Úy (chức Thống chế hay Tổng tư lệnh ngày nay).  Suốt 63 năm tận trung báo quốc, ông đã làm được cho dân, cho nước nhữmg công trình tuyệt vời từ chính trị, văn học, quân sự và Phật sự...

 

Trong chính trường, Lý Thường Kiệt là đấng đại danh thần, có những phương sách đối ngoại, đối nội rất giỏi, là chỗ dựa tin cậy và vững chắc của nhà Lý, nhất là dười thời Hoàng Đế Lý Nhân Tông (1072-1127).

 

Trong lịch sử văn học, Lý Thường Kiệt là cây đại bút, là tác giả của Nam Quốc Sơn Hà, áng hùng thư có giá trị thiêng liêng như bản tuyên ngôn độc lập lần thứ nhất từ thời tự chủ.

 

Trong quân sự, Lý Thường Kiệt là bậc đại tướng, là linh hồn của những chiến công bình Chiêm, phạt Tống, những chiến công lớn nhất lịch sử nước nhà trong thế kỷ thứ XI.

 

Danh sĩ Đặng Minh Khiêm, đời Hồng Đức làm một bài thơ vịnh Lý Thường Kiệt ghi trong Thoát Hiên Vịnh Sử Thi như sau:

 

“Đệ huynh chỉ xích thị minh quang,

Tài lược kiêm ưu hữu mão dương.

Bắc phạt, Nam chinh, huân nghiệp trước,

Thù phi môn ngoại tiểu điêu đương.”

 

Giáo sư Trần Xuân Hãn dịch nôm là:

 

“Anh em chầu chực chốn đền đài,

Tài lược gồm hai lại đẹp trai

Đánh Bắc, bình Nam huân nghiệp rạng,

Hoạn thần nhưng khác lũ hầu sai.”

 

Và trong đạo Phật, ông là một Phật tử có nhiều công đức. Ông xây chùa Thiên Xứng ở Thanh Hóa. Thiền Sư Pháp bảo, người sống cùng thời đã ca ngợi:

 

“Tông giáo qui sùng

Cảnh phúc thị thực.”

 

 

Dịch là:

 

“Thuận theo và tôn sùng Phật Giáo

Giữ gìn phúc đức quả là đây.”

 

Trong lịch triều hiến chương loại chí, học giả Phan Huy Chú (là con của Phan Huy Ích, sinh năm 1782-1840. Hai lần đi sứ sang Tàu đời vua Minh Mạng) đã viết về Lý Thường Kiệt như sau:

 

“Ông là người giàu mưu lược và có biệt tài làm tướng, từng làm quan trải thờ đến ba đời Hoàng Đế (gồm Lý Thái Tông 1028-1054, Lý Thánh Tông 1054-1072 và Lý Nhân Tông 1072-1127).  Ông đã phá Tống, bình Chiêm, công lao đức vọng ngày một lớn, được sủng ái, thật xứng là người đứng đầu các bậc công hầu vậy.”

 

Lý Thường Kiệt biết rằng nhà Tống đang dòm ngó Đại Việt và chỉ chờ cơ hội thuận tiện là đem quân sang đánh để sát nhập nước ta làm châu quận của nước Tàu (Đại Việt vẫn chưa quên một ngàn năm bị Tàu đô hộ trước đó); Vì vậy Lý Thường Kiệt muốn đánh Tống bất ngờ để được lợi thế (“Tiên hạ thủ vi cường”).

 

Nhưng trước khi đánh Tống (1075), Lý Thường Kiệt phải tấn công Chiêm Thành. Việc chinh phạt nước Chiêm lần này có ba mục đích:

 

1- Không còn bận tâm ở phía Nam để dốc toàn lực phá Tống ở phía Bắc.

 

2- Giải quyết vấn đề nhân mãn do mật độ ở Trung châu bắt đầu lên cao.

 

3- Tái chiếm ba châu ( Địa Lý, Ma Linh và Bố Chính, là tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị ngày nay) để đặt ảnh hưởng chính trị của Đại Việt và thực hiện chủ quyền của dân tộc ta trên các địa hạt mà nước Chiêm đã nhượng cho Đại Việt từ năm Kỷ Dậu(1069) dưới thời Lý Thánh Tông, nhưng người Chiêm vẫn còn quấy nhiễu để đòi lại ba châu này.

 

Nhà Tống đến đời Tống Thần Tông (1068-1078), có Vương An Thạch làm Tể tướng. Vương An Thạch là một chánh trị gia có tài, có đầu óc cách mạng tân tiến. Vương An Thạch đặt ra nhiều phép cải cách như: hưng nông điền, thuỷ lợi, quân thâu, bảo giáp, miễn dịch, bảo mã phương điền... Nếu những kế hoạch này thành công thì nước Tàu sẽ rất hùng mạnh và là mối lo cho Đại Việt. Nhưng những cả cách táo bạo đó đã đụng chạm đến lớp chủ điền, lớp quan lại cùng phe bảo thủ và họ đang ngấm ngầm bất mãn, bất cộng tác, có cơ nguy làm lung lay chế độ. Biết như vậy Vương An Thạch muốn toàn dân Trung hoa nhất trí, đoàn kết, dư luận dân Tàu được hướng dẫn vào một mục tiêu là phải đánh nước Đại Việt. Vương An Thạch sai Tri Châu Tiêu Chú ở Phiên Ngu (Ung Châu) thi hành kế hoạch này. Tiêu Chú đến Quế Châu giao dịch với các Tù trưởng, từ Đạo Đạc Ma đến Châu Điền Đống để nghiên cứu tình hình Đại Việt. Nhưng lúc này Đại Việt đã chiến thắng Chiêm Thành, bờ cõi mở rộng về phương Nam, dân sinh quốc kế rất thịnh đạt nên Tiêu Chú lo sợ chưa dám phát binh. Vương An Thạch bèn cử Thẩm Khởi thay thế Tiêu Chú.

 

Thẩm Khởi thu xếp mọi việc theo ý Vương An Thạch, chuẩn bị quân lính, vũ khí và tiếp liệu để Nam chinh. Nhưng sau không biết vì lẽ gì mà Thẩm Khởi thất sủng. Tống triều cử Lưu Gi thay thế.

 

Lưu Gi cho người đi thanh tra các khe ngòi, các đồn lũy, sửa soạn binh khí, làm thuyền bè và cấm không cho người ở châu quận gần đấy đi lại buôn bán với người Đại Việt.

 

Bên Lý triều thấy thái độ bất thân thiện của Lưu Gi, bèn viết thư sang hỏi Tống triều, thì được biết Lưu Gi giữ thư lại không đệ về kinh. Nhân cớ đó Lý triều sai Lý Thường Kiệt làm Tổng Tư Lệnh và Tôn Đản làm phụ tá, đem 10 vạn quân, chia làm 2 đạo thủy bộ cùng tiến đánh Trung Hoa, lấy cớ rằng nhà Tống do Thừa tướng Vương An Thạch đặt ra phép cải cách mới làm khổ trăm họ. Vậy quân Đại Việt sang đánh để cứu vớt nhân dân Trung Hoa (!)...

 

Một danh tướng Nhật Bản, dưới thời Minh Trị Thiên Hoàng, khi nghiên cứu về chiến lược đánh Tống đã khen ngợi là:

 

“Sự tấn công bất ngờ của Lý Thường Kiệt đã tạo thành lịch sử chiến tranh (Ly Thuong Kiet’s surprise attack made war history).”

 

Ông viết tiếp:

 

“Trước nguy cơ ngoại bang xâm lấn không thể tránh được, Lý Thường Kiệt tấn công địch trước. Đây là một chiến lược căn bản nhằm phá vỡ ý chí xâm lược của địch quân. (When the danger of foreign invasion could not be voided. Ly Thuong Kiet advocated attacking the enemy first. This was an original strategy aimed at thwarting the enemy’s aaggressive will).”

 

Năm Ất Mão (1075) Lý Thường Kiệt đem quân đánh Khâm Châu và Liêm Châu (thuộc tỉnh Quảng đông) giết hại hơn 8000 lính Tàu. Đạo quân của Tôn Đản sang đánh Ung châu (tức là thành Nam Ninh, Quảng Tây). Quan Đô Giám là Trương Thủ Tiết đem binh lại cứu, bị Lý Thường Kiệt đón đánh ở Côn Lôn quan (gần Nam Ninh), chém tướng Trương Thủ Tiết ở trận tiền.

 

Tôn Đản vây thành Ung Châu hơn 40 ngày, quan tri châu là Tô Đam quyết chí tử thủ. Đến khi quân nhà Lý hạ được thành, thì Tô Đam bắt giết tất cả 36 người của gia đình mình, rồi tự đốt theo.  Người trong thành theo gương quan tri châu, không ai chịu hàng cả. Quân Tôn Đản vào thành giết hại gần 58,000 người.

 

Tổng số thiệt hại nhân mạng về phía Trung Hoa lên tới 10 vạn.  Quân Việt đại thắng, rồi rút về nước, mang theo một số tù binh và của cải.

 

Vua Tống được tin nầy thì vô cùng tức giận, bèn sai Quách Quì làm Chiêu thảo sứ, Triệu Tiết làm phó, cùng với 9 danh tướng khởi binh 10 vạn phản công. Quân Tống cũng hội với quân Chiêm Thành và Chân Lạp để cùng tấn công Đại Việt.

 

Tháng chạp năm Bính Thìn (1076), quân Tống vào địa hạt nước ta. Cuộc gặp gỡ đầu tiên giữa Lý - Tống đã xảy ra ở sông Như Nguyệt (làng Như Nguyệt, Bắc ninh, tức là sông Cầu, ngoại ô thành phố Hà Nội bây giờ). Quân Tống bị thua, chết hơn 1000 người. Quách Quì kéo quân về phía Tây đến đóng ở bờ sông Phú Lương (một khúc ở phía Tây sông Như Nguyệt).

 

Lý Thường Kiệt đem binh thuyền lên đón đánh không cho quân Tống sang sông. Quân Tống bèn chặt gỗ làm máy bắn đá. Những viên đá lớn như trái bưởi bay sang như mưa, khiến thuyền của quân Lý thủng nát nhiều, quân sĩ chết mấy ngàn người.

 

Sau trận này, khí thế quân Tống lên cao, trong khi tinh thần quân ta bắt đầu sút giảm. Lý Thường Kiệt bèn vận dụng đòn tâm lý, nửa đêm cho người tâm phúc vào đền Trương Hát, Trương Hống (đền này nằm ở phía Nam sông Như Nguyệt nay là huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh), giả làm Thần Linh thét lên:

 

“Nam quốc sơn hà Nam Đế cư,

Tiệt nhiên định phận tại thiên thư

Như hà nghịch lỗ tai xâm phạm,

Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.”

 

Học giả Nguyễn Đồng Chi dịch:

 

“Nước Nam Việt có vua Nam Việt,

Trên sách trời chia biệt rành rành.

Cớ sao giặc dám hoành hành?

Rồi đây bây sẽ tan tành cho coi.”

 

Ông Đặng Bá cảnh dịch:

 

“Vua Nam ngự trị đất phương Nam,

Trời đã phân chia rõ địa bàn.

Nếu kẻ âm mưu mong lấn chiếm,

Cuối cùng rồi tướng bại quân tan.”

 

Bài hùng thi này truyền rất nhanh. Dân chúng và quân lính đều tin tưởng là sẽ được Thần linh phù hộ, vì đền Trương Hát, Trương Hống nổi tiếng linh thiêng từ xưa. Trương Hát và em là Trương Hống vốn là danh tướng của Việt vương Triệu Quang Phục (549-571). Triệu Quang Phục có công đánh đuổi nhà Lương xâm chiếm nước ta. Sau hơn 20 năm trị vì, Triệu Quang Phục lại bị Lý Phật Tử đánh bại, phải nhảy xuống sông tự vận và anh em Trương Hát, Trương Hống cũng bị Lý Phật Tử sát hại.

 

Hơn bốn thế kỷ sau, đời Nam Tấn Vương Ngô Xương Văn (950-965), đi đánh giặc ở Tây Long. Tương truyền anh em Trương Hát Trương Hống hiển thánh, giúp vua Ngô phá được giặc. Nam Tấn Vương truy phong cho hai anh em là Đại Vương Giang Đô Hộ Quốc Thần Vương và Tiểu Vương Giang Đô Hộ Quốc Thần Vương. Từ đó ngôi đền này được dân địa phương sùng kính.

 

Bốn câu thơ này làm phấn khởi tinh thần quân Đại Việt, phần vì quân Lý tin có Thần linh giúp, phần Lý Thường Kiệt đã dựa vào thuyết Thiên mệnh của chính phái Tống Nho do Chu Hy của nhà Tống chủ xướng. Thuyết này đang được quảng bá ở Trung Hoa và ở Đại Việt bấy giờ. Với thuyết Thiên mệnh thì mọi sự, mọi việc đều do Trời sắp xếp, đều do số mệnh đã định sẵn. Cá nhân hay tập thể được sinh ra chỉ để thi hành. Ở Trung quốc, thuyết này được nhà Tống, nhà Minh, nhà Thanh chọn làm ý thức hệ. Ở Việt Nam, các nhà vua cùng thời cũng dựa vào học thuyết đó trong việc trị quốc. Những nhà Nho uyên bác như Nguyễn Du, Nguyễn Gia Thiều... đều tin tưởng ở mệnh Trời:

 

- “Ngẫm hay muôn sự tại Trời” (Kiều - Nguyễn Du)

- “Quyền tạo hoá, Trời tranh tất cả” (Cung Oán Ngâm Khúc - Nguyễn Gia Thiều).

 

Vì vậy, quân Tống xâm lăng Đại Việt thì chắc sẽ bị đánh bại là bởi Thiên Thư là sách của Trời và ý của Trời đã xác định biên giới rành rành, nên ý của con người không thể thay đổi được Thiên mệnh.

 

Nhờ Lý Thường Kiệt đưa thuyết Thiên mệnh đúng hoàn cảnh và đúng lúc nên bài hùng thi này có hai tác dụng tương phản là giảm ý chí xâm lăng của địch (địch vận) và tăng tinh thần quyết chiến của ta (tuyên vận). Đó là một trong những lý do chính yếu mà đoàn quân của Quách Quì bị khựng lại ở bờ sông Phú Lương.

 

Ở mặt trận phía Nam, quân Chiêm Thành và Chân Lạp cũng bị đánh tan một cách dễ dàng, vì chủ lực của quân Chiêm đã bị phá tan trước khi phạt Tống. Hai toán quân đó phải rút lui không giúp được quân Tống.

 

Thế của quân Đại Việt và quân Tống không phân thắng bại. Lý triều e đánh lâu không lợi. Nếu kéo dài cuộc chiến chỉ thêm hao tổn nhân lực và tài lực quốc gia mà cuộc hành quân lúc này của nhà Tống chỉ do vấn đề thể diện.

 

Lý triều liền cử sứ bộ sang điều đình, hoãn chiến. Thật đúng điều mong ước của nhà Tống. Nay gặp cơ hội thuận tiện, bởi quân Tống lúc này cũng bị tổn thất quá nửa vì chiến tranh và không hợp thủy thổ nên mang bệnh mà chết. Tống Thần Tông liền chấp thuận ngay lời thương nghị của Nhà Lý rồi cho rút binh, nhưng khi rút về họ chiếm giữ mấy châu phía Bắc Đại Việt là:

 

- Châu Quảng Nguyên  (Quảng Uyên, tỉnh Cao Bằng ngày nay).

- Châu Tư Lang (tức Hạ Lang, Thượng Lang, tỉnh Cao Bằng).

- Châu Tô Mậu (giữa hai tỉnh Cao Bằng và Lạng Sơn).

 

Năm Mậu Ngọ (1078), vua Lý Nhân Tông mở cuộc giao hảo với Tống triều. Sứ thần Đại Việt là Đào Tôn Nguyên đưa 5 con voi đã thuần thục sang cống vua nhà Tống và đòi lại ba châu huyện trên.

 

Tống triều ưng thuận với điều kiện là Lý triều phải trả lại cho Tống những dân, quân các châu Khâm, Liêm, Ung do Lý quân bắt ba năm trước, tất cả có 221 người. Trước khi cho về nước, Lý triều cho thích (xăm) vào trán con trai từ 15 tuổi trở lên ba chữ “Thiên Tử Binh.” Đàn ông trên 20 tuổi chữ “Đại Nam Triều,” và vào cánh tay trái của đàn bà, con gái hai chữ “Quan Khách.”

 

Hành động sâm chữ vào trán, vào cánh tay tù nhân rồi cho về nước là điều Lý triều muốn làm nhục nhà Tống.

 

Trong lịch sử ngoại giao Hoa Việt, từ thời kỳ tự chủ đến ngày nay, chưa có triều đại nào giám coi thường người Trung Hoa như Triều Lý. Xưa kia, năm 970 Đinh Tiên Hoàng sai con là Đinh Liễn mang phẩm vật sang cống nhà Tống. Năm 981 vua Lê Đại Hành, sau khi đánh tan quân Tống ở Chi Lăng, nhà vua trao trả hai viên tướng và một số tù binh rồi xin theo lệ triều cống. Thời nhà Trần, sau ba lần đại phá quân Nguyên, vua Trần Nhân Tông (1288) sai Đỗ Thiện Thứ sang nhà Nguyên giảng hòa và theo lệ triều cống như xưa. Năm sau Nhân Tông sai quân đưa bọn tướng Nguyên bị bắt là Tích Lệ, Cơ Ngọc về Tàu. Vua Lê Thái Tổ, vua Quang Trung, sau những lần chiến thắng vẻ vang cũng trao trả tù binh về nước mà chưa bao giờ xỉ nhục, thích chữ lên trán quân Tàu.

 

Nhà Tống nhận được bọn tù nhân và 5 con voi rồi rút quân khỏi 3 châu phía Bắc chỉ giữ lại mấy huyện ở biên giới. Đất Quảng Nguyên có mỏ vàng cũng phải bỏ lại. Dân Tàu tiếc của, hát mỉa mai vua Tống:

 

“Nhân tham Giao chỉ tượng

Khước thất Quảng Kim Nguyên.”

 

Ông Đặng Bá Cảnh dịch:

 

“Tham chi Giao Chỉ năm voi,

Quảng Nguyên sao để mất toi kho vàng.”

 

Mùa hạ năm Giáp Tý (1084), Lý triều lại phái Binh Bộ Thị Lang Lê Văn Thịnh (vị thủ khoa đầu tiên của nước ta) sang yêu cầu Tống triều phân chia lại danh giới và trả nốt mấy huyện mà nhà Tống còn giữ lại. Lý triều đã áp dụng chính sách đòi dần để tình thế hai nước vừa sung đột bớt găng. Nếu yêu sách quá nhiều trong một buổi có thể nhà Tống sẽ không chịu vì như thế sẽ làm mất thể diện. Lý triều tiến dần, quả nhiên việc thương thuyết đem lại được như ý muốn. Chúng ta khâm phục việc ngoại giao của nhà Lý bấy giờ, lúc cương, lúc nhu, Nhưng bao giờ cũng giữ được cái thế kiêu hùng của kẻ chiến thắng.

 

Đời vua Lý Nhân Tông tức Thái Tử Càn Đức lên ngôi mới 7 tuổi. Quan Thái Sư là Lý Đạo Thành làm phụ chính, nhưng bên trong mẹ là Lan Thái Phi buông mành nghe việc triều chính.

 

Ý Lan Thái Phi là một nhân vật đặc biệt của thời đại, bên cạnh Lý Thường Kiệt và Lý Đại Thành, hai vị văn võ có uy tín và thao lược nhất bấy giờ. Nhưng Lý Đạo Thành không chủ trương xâm lăng nước ngoài, chỉ có Thái Phi và Lý Thường Kiệt có một tầm nhìn xa cho tương lai của đất nước, nên cương quyết thi hành chiến lược Bình Chiêm, Phạt Tống. Có thể nói nếu không có Ý Lan Thái Phi thì chưa chắc Lý Thường Kiệt đã tạo được những chiến công oanh liệt cho tổ quốc. Vậy, thân thế của Ý Lan Thái Phi thế nào?

 

Bấy giờ, vua Lý Thánh Tông đã 40 tuổi mà chưa có con trai, lấy làm lo lắng nên hay đi cầu tự ở các đền chùa. Một hôm ngài ngự giá về chùa làng Thổ Lỗi cho phép dân chúng tự do chiêm bái long nhan. Dân chúng già trẻ, trai gái đi xem nhà vua đông như chảy hội. Trong khi đạo ngự đi qua, một cô gái hái dâu, đang ngồi tựa gốc cây lan như không chú ý tới nhà vua. Nhà vua ngạc nhiên, liền đòi đến hầu thì thấy cô gái đó tuy quê mùa, nhưng có nhan sắc đoan trang, cử chỉ đường hoàng, nói năng thanh nhã, ngài liền vời về cung. Thiếu nữ ấy tên là Yến, tục danh là cô Cám, thôn nữ làng Thô Lỗi (là phủ Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh bấy giờ), về kinh nhà vua sai Sùng Tín Đại Trưởng lão dạy Yến cô nương học tập. Nhờ sự thông minh, chẳng bao lâu Yến cô nương làu thông kinh sử và được phong là Lan phu nhân (lấy tên cung Lan, nơi phu nhân luyện tập văn bài và có ý gợi lại kỷ niệm xưa khi nhà vua gặp Yến cô nương lần đầu, khi nàng đang ngồi tựa gốc lan).

 

Rồi phu nhân sinh ra Hoàng tử, đặt tên là Càn Đức từ đó được phong làm Thái Phi.

 

Về chính trị, Lan Thái Phi làm giám quốc rất đắc lực trong việc trị dân. Năm 1069 Lý Thánh Tông và Lý Thường Kiệt đem quân đi đánh Chiêm Thành. Trận ấy Đại Việt thua, phải rút quân về nước. Khi đoàn quân chiến bại trở về tới châu Cư Liên thấy dân chúng đều ca tụng bà Thái phi trị nước rất giỏi, dân no nước mạnh và giữ kỷ cương như thời cực thịnh của vua cha. Thánh Tông bảo với các tướng sĩ tùy tùng rằng:

 

“ Người đàn bà trị nước còn được như thế mà mình đi đánh Chiêm Thành không thành công, thế ra đàn ông hèn lắm à!”

 

Ngài cùng Lý Thường Kiệt đem quân trở lại đánh, bắt được vua Chiêm là Chế Củ. Chế Củ phải xin dâng ba châu Địa Lý. Ma Linh và Bố Chánh để chuộc tội.

 

Khi về già, bà Thái Phi này gây được nhiều công đức như xuất tiền kho để chuộc con gái nhà nghèo bị cầm bán, rồi gả chồng vào những nơi tử tế. Chẩn cấp cho dân chúng khi bị thiên tai. Cho người xây được 70 ngôi chùa ở Kinh Bắc (Bắc Ninh).

 

Cũng như Thái Phi Lan, suốt quãng đời còn lại, Lý Thường Kiệt, chuyên tâm về đạo Phật.

 

Năm Đinh Tỵ 1077, ông được bổ làm Tổng trấn Thanh Hoa (thời Thiệu Trị đổi tên là Thanh Hóa vì kỵ tên húy Hoàng Thái Hậu). Một hôm có Sùng Tín Đại Trưởng Lão từ Thăng Long vào chơi, Lý Thường Kiệt nhờ ngài tìm đất để dựng chùa, trưởng lão chọn được khí đất tốt nằm phía Nam núi Ngưỡng Sơn, nay thuộc xã Hà Ngọc, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa. Đích thân Lý Thường Kiệt trông coi việc xây cất. Sau bốn năm (1085-1089)  thì hoàn thành, Lý Thường Kiệt đặt tên là chùa Linh Xứng. Tới đầu thế kỷ 20, chùa bị xụp đổ hoàn toàn. Chỉ còn tấm bia bằng đá, khắc bài “Ngưỡng Sơn Linh Xứng Tự Bi Minh” (bài minh khắc trên bia để tại chùa Linh Xứng ở Ngưỡng Sơn), do ngài Giác Tính Hải Chiếu Đại Sư (người sống cùng thòi với Lý Thường Kiệt) soạn bài văn bia sau khi Lý Thường Kiệt mất. Bài văn bia mô tả việc xây cất chùa:

 

Đoạn một, Thế là cùng nhau phát hết những bụi cỏ rậm, bạt hết những tảng đá to; Thầy phong thủy thì xét hướng, thợ lành nghề thì vẽ kiểu, quan thì góp tiền, sĩ dân khắp nơi cùng nhau kéo tới; Bấy giờ, ai kém sức thì bào hoặc gọt, ai giỏi nghề thì hoặc dựng hoặc xây. Chùa Phật rộng thênh thang nằm ở giữa, còn phòng chay rộng rãi thì ở hai bên. Phía sau chùa có tháp Chiêu An cao chót vót những chín tầng. Chùa mở cửa bốn bên và cửa nào cũng có song tiện, phía trong lại có rèm the. Tiếng gió rung chuông bạc, quyện với tiếng chim rừng. Nắng soi tháp báu, sắc vàng điệp lung linh. Quanh lan can trồng đầy hoa cỏ và đúng là cảnh thức tỉnh hồn mê, xua tan mọi nỗi niền tục lụy.

 

Đoạn thứ hai của văn bia là kể những công lao và chức tước của Lý Thường Kiệt như việc đánh Chiêm phạt Tống cùng hết lòng phò tá ba đời Hoàng đế và so sánh ông với Y Doãn, Hoắc Quang là những đại công thần của nhà Thương, nhà Hán bên Tàu.

 

Đoạn thứ ba: Thái Úy tuy thân vướng việc đời mà lòng vẫn hướng về Tam Thừa... Thái úy không ngừng nâng đỡ Phật giáo, nhân lúc rảnh việc triều đình.”

 

Sự nghiệp phi thường và công đức của Lý Thường Kiệt được tóm tắt trong phần cuối của bia văn mà Đại sư Giác Tính Hải Chiếu viết như sau:

 

“Việt hữu Lý công,

Cổ nhân chuẩn thức

Mục quận ký ninh,

Chưởng sư tất khác.

Xuất quân thì tất thắng.

Danh dương hàm hạ

Thanh chấn hà vực.

Tông giáo qui sùng,

Cảnh phúc thị thực.”

 

Dịch Nghĩa:

 

“Nước Việt có tướng công họ Lý,

Theo đúng thể thức người xưa.

Trị dân thì dân được yên,

Xuất quân thì tất thắng.

Tên tuổi vang lừng khắp cõi,

Tiếng thơm nức bốn phương.

Thuận theo và tôn sùng Phật giáo,

Giữ gìn phúc đức quả là đây.”

 

Nguyễn Mộng Khôi

 

__________

Tham Khảo

 

- Việt Nam Sử Lược

- Việt Sử Toàn Thư

- Lý Thường Kiệt

- Nhân Vật Lịch Sử Việt Nam

- Danh Nhân Tự Điển

- Lý Thường Kiệt’s Surprise Attack

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn