BÀI ĐỌC NHIỀU NHẤT
(Xem: 72637)
(Xem: 62055)
(Xem: 39154)
(Xem: 31021)
SỐ LƯỢT XEM TRANG
0

‘Chim Sắt Kingbee 219’ Đặng Quỳnh sống chết cùng Biệt Kích Lôi Hổ

22 Tháng Giêng 20206:50 SA(Xem: 3160)
‘Chim Sắt Kingbee 219’ Đặng Quỳnh sống chết cùng Biệt Kích Lôi Hổ
51Vote
40Vote
30Vote
20Vote
10Vote
51
WESTMINSTER, California (NV) – Đầu năm 1966, Phi Đoàn 219 được thành lập tại Đà Nẵng do sự sáp nhập của hai biệt đội trực thăng H-34 chuyên thả các toán Lôi Hổ. Phi Đoàn 219, mang danh hiệu Long Mã, do Đại Úy Hồ Bảo Định làm chỉ huy trưởng.

Cuối năm 1971, cũng như các Phi Đoàn 213 và 215, Phi Đoàn 219 chuyển sang sử dụng trực thăng UH-1. Các phi đoàn này chuyên phụ trách những phi vụ thả và bốc các toán Biệt Kích Lô Hổ của Nha Kỹ Thuật trong vùng địch, dọc đường mòn Hồ Chí Minh, có khi sâu vào biên giới Lào và Cao Miên.

Với phương châm “không bỏ anh em, không bỏ bạn bè,” các hoa tiêu của Phi Đoàn 219 đã chu toàn những phi vụ hiểm nghèo cho các đơn vị Biệt Kích, cho dù có hy sinh, mất mát một phần thân thể. Các hoa tiêu này chính là niềm hy vọng cuối cùng đối với các toán Biệt Kích Lôi Hổ trong lúc bị địch phát hiện và săn đuổi.

Đặng Quỳnh và vợ Xuân Thúy tại Westminster. (Hình Đặng Quỳnh cung cấp)
Đặng Quỳnh và vợ Xuân Thúy tại Westminster. (Hình: Đặng Quỳnh cung cấp)

Tìm mọi cách để đưa quân ta về 

Những “Chim Sắt UH-1” của Phi Đoàn 219 với công tác hằng ngày như liên lạc, tiếp tế, tải thương, đổ quân, bốc quân. Các Gunship với nhiệm vụ hộ tống và yểm trợ tác xạ cho tất cả các đơn vị bạn của Quân Lực VNCH, đôi khi họ còn phải bắt sống địch quân mang về cho những đơn vị đặc biệt khai thác. Với lòng gan dạ và dũng cảm đó nên phi đoàn này còn có danh xưng “Kingbee 219.”

Đặng Quỳnh kể: “Sau trận Hạ Lào vào năm 1971, Phi Đoàn 219 bị mất nhiều phi hành đoàn, nên Bộ Tư Lệnh Không Quân ra lệnh mỗi phi đoàn ở Vùng 4 Chiến Thuật phải tăng phái một hoa tiêu chánh và một cơ khí viên cho Phi Đoàn 219. Tôi là một trong những hoa tiêu từ Vùng 4 tình nguyện về Phi Đoàn 219. Lúc đó, Phi Đoàn Trưởng 219 là Thiếu Tá Nguyễn Văn Nghĩa. Khi tôi mới về trình diện phi đoàn trưởng, thì phi đoàn này vẫn còn bay trực thăng H-34 (có ba bánh xe), còn UH-1 thì tối tân hơn, vì không có bánh xe nên tàu rất nhẹ, máy của tàu là bán phản lực. Còn H-34 thì trưng dụng loại máy nổ. Sau đó, 219 đã được sử dụng toàn trực thăng UH-1.”

Đặng Quỳnh tại phi trường Pleiku. (Hình Đặng Quỳnh cung cấp)
Đặng Quỳnh tại phi trường Pleiku. (Hình: Đặng Quỳnh cung cấp)

“Tôi về trình diện Bộ Tư Lệnh của Phi Đoàn 219 tại Đà Nẵng. Sau đó được lệnh biệt phái đi rất nhiều nơi để đưa những toán Biệt Kích Lôi Hổ của Nha Kỹ Thuật vào những nơi ngoài biên giới của những vùng chiến thuật 1, 2 và 3. Mỗi chuyến công tác biệt phái là hai tuần,” ông cho biết thêm.

Tháng Sáu, 1971, Đặng Quỳnh nhận lệnh biệt phái về Ban Mê Thuột cho đơn vị Biệt Kích Lôi Hổ tại Bản Đôn là một buôn thượng có một phi đạo nhỏ sát bên đường mòn Hồ Chí Minh gần biên giới.

Ông kể: “Tại Ban Mê Thuột, ngày nào tôi cũng có chuyến công tác để thả những toán Lôi Hổ vào những địa điểm dọc theo vùng Tam Biên (biên giới của Việt-Miên-Lào). Toán Lôi Hổ mỗi chuyến công tác đi tối đa là bảy quân nhân và ít hơn. Tại Vùng Tam Biên, gần như ngày nào các chiến sĩ Biệt Kích Lôi Hổ cũng đều chạm địch, nhiệm vụ của tôi phải tìm mọi cách để đưa quân ta về.”

“Cũng tại Ban Mê Thuột, đôi khi chúng tôi còn hành quân chung với Không Quân Hoa Kỳ, lực lượng không lực của họ thì mạnh hơn của Không Quân mình, cứ mỗi chuyến hành quân của Mỹ đều có những chiếc Gunship Cobra đi theo bắn yểm trợ. Khi đụng trận lớn có phi cơ phản lực F4 hoặc F5 hay B52 yểm trợ,” ông Quỳnh kể thêm.

Khoảng cuối Tháng Tư, 1972, Đặng Quỳnh được biệt phái về yểm trợ đưa quân cho Sư Đoàn 23 Bộ Binh ở Kon Tum để vào chiếm lại Tân Cảnh, đây là căn cứ quân sự của Quân Lực VNCH ở Bắc Tây Nguyên. Trước đó, Cộng Quân đã chiếm Tân Cảnh, và lực lượng của Quân Lực VNCH đã xông vào tái chiếm lại Tân Cảnh.

Đặng Quỳnh (thứ hai, phải) và các chiến sĩ Biệt Kích Lôi Hổ tại Little Saigon. (Hình Đặng Quỳnh cung cấp)
Đặng Quỳnh (thứ hai, phải) và các chiến sĩ Biệt Kích Lôi Hổ tại Little Saigon. (Hình: Đặng Quỳnh cung cấp)

Không lực Hoa Kỳ cũng đã trưng dụng Pháo Đài Bay B52 vào dội bom để tiêu diệt địch tại mặt trận này. Sau khi B52 đã thả bom xong, nhiều phi đoàn đã phối hợp được trưng dụng đến 50 trực thăng. Phi Đoàn 219 đi đầu và đi cuối không có Gunship chỉ đưa quân Sư Đoàn 23 Bộ Binh đổ quân xuống Tân Cảnh để kiểm tra và tái chiếm căn cứ này.

Đặng Quỳnh kể: “Tại mặt trận đó tàu của tôi là chiếc cuối cùng để thả quân xuống. Vì qua nhiều trực thăng đổ bãi, nên không còn bãi đáp trống, tôi phải tìm chỗ bằng phẳng để đáp. Trong lúc tàu của tôi hạ xuống cách mặt đất chừng một mét để cho lính nhảy xuống, thì hai người lính đầu tiên nhảy xuống ngay một hầm trú của địch để tránh bom B52, nên hai anh này bị bắn chết ngay. Sau đó lính của Sư Đoàn 23 Bộ Binh tung nhiều lựu đạn xuống để tiêu diệt vài tên địch còn sóng sót sau khi bị B52 dội bom. Ngay tức khắc, tôi liền đáp xuống để bốc hai tủ lạnh (hai thi thể) của chiến sĩ đã hy sinh mang lên tàu. Các chiến sĩ của Sư Đoàn 23 tiếp tục vào vòng chiến để lục soát.”

Kingbee 219 không bỏ anh em khi đụng trận cũng như bị thương 

Theo Đặng Quỳnh kể thì ông đã tham dự nhiều chiến trường tại Quân Khu 1 và biên giới Hạ Lào. Riêng tại Quảng Trị thì Phi Đoàn 219 cũng có chở quân Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến để đánh tái chiếm Cổ Thành Quảng Trị. Trong thời gian này, Đặng Quỳnh được thăng cấp trung úy.

“Nhiệm vụ của Kingbee 219 là thả toán và không bỏ anh em khi đụng trận cũng như bị thương. Khi đổ quân xong, lúc bay lên để quan sát thì phi hành đoàn vẫn còn nghe trên máy truyền tin rất rõ ở dưới các anh Lôi Hổ vừa chạy vừa nói chuyện, kể cả tiếng súng nổ lúc bị địch đuổi theo. Vì thế, chúng tôi không bỏ anh em được, mà mỗi lần đáp xuống để bốc anh em thì tàu của Phi Đoàn 219 rất dễ bị Cộng Quân bắn rớt hoặc bị cháy trên không, nhưng khi máy còn chạy thì chúng tôi vẫn cố đưa quân về đến điểm nào của phe ta gần nhất,” Đặng Quỳnh tâm tình.

“Có nhiều lúc anh em bị địch phát giác thì họ liền báo cho chúng tôi. Khi thấy một khoảng đất trống nào để đủ cho tàu đáp xuống thì chúng tôi liên lạc với anh em cố gắng chạy ra khoảng trống đó để chúng tôi bốc anh em về. Trong lúc đó, anh em cũng đang bị địch đuổi theo, nên chúng tôi phải bắn địch để yểm trợ cho anh em có lối thoát để chạy đến điểm được chúng tôi bốc về,” Đặng Quỳnh kể thêm.

Cuối năm 1974, Phi Đoàn 219 đổ quân qua vùng Hạ Lào gồm hai chiếc chở quân và hai chiếc Gunship. Đổ quân xong về đậu tàu tại phi trưởng nhỏ ở Bản Đôn để chờ lệnh bốc quân về. Lúc đó Đặng Quỳnh lái Gunship. Có một chiếc L19 đáp xuống báo cho biết là thấy một đoàn công voa của Cộng Sản đang di chuyển trên đường mòn Hồ Chí Minh rất gần.

Đặng Quỳnh (thứ hai, trái) và ba trung tá Không Quân tại phi trường Phú Bài, Huế. (Hình Đặng Quỳnh cung cấp)
Đặng Quỳnh (thứ hai, trái) và ba trung tá Không Quân tại phi trường Phú Bài, Huế. (Hình: Đặng Quỳnh cung cấp)

Ông Quỳnh kể: “Nghe tin, chúng tôi xin lệnh cấp trên lên đường đánh đoàn công voa của địch chỉ cần hai chiếc Gunship, vì nơi này cũng gần điểm mình vừa thả quân hồi sáng. Thế là chiếc L19 bay trước hướng dẫn hai chiếc Gunship. Lúc đó ngay buổi trưa trời trong sáng, nên từ xa chúng tôi thấy bụi đang bay mờ cả một vùng rất dài, đó là đoàn công voa của địch đang di chuyển ban ngày, gần nơi vùng Tam Biên, cách Bản Đôn trên 10 cây số về phía Tây.”

Cũng theo ông Quỳnh kể, hai chiếc Gunship chia ra hai bên để tác xạ xuống đoàn công voa của địch đang di chuyển. Chiếc của ông bên cánh trái, hai chiếc Gunship bắn rocket và đại liên Minigun ồ ạt xuống đoàn công voa của địch thì đoàn xe của chúng ngừng lại, địch quân lao xuống đường có một số băng vào rừng để ẩn trốn.

Hai chiếc Gunship bay một vòng rồi trở lại đánh địch lần thứ hai. Đến lúc này, địch quân đã chuẩn bị nhiều súng phòng không. Hai chiếc Gunship phải hạ thấp xuống để bắn địch thì địch đã bắn đạn phòng không lên như mưa. Xung quanh vùng tàu của ông đang bay có rất nhiều đạn phòng không của địch nổ gần bên tàu của ông. Đặng Quỳnh liền gọi trong máy cho chiếc bên kia là phải tách ra khỏi vùng đạn của địch.

Trong lúc chiếc của Quỳnh đang đâm xuống để tránh lằn đạn của địch và tránh sự nhận diện tàu của mình, thì ông nghe một tiếng nổ lớn bên tai. Tàu của ông đã trúng đạn của địch! Đạn trúng ngay đế của cây Minigun và nhiều nơi khác, đế này rất dày nên không phá được tàu, hai xạ thủ thì đã tử trận vì trúng đạn của địch, còn hai cây Minigun cũng bị văng mất, kiếng trước mặt của phi công cũng không còn.

Đặng Quỳnh (giữa) và ban nhạc AVT tại Little Saigon. (Hình Đặng Quỳnh cung cấp)
Đặng Quỳnh (giữa) và ban nhạc AVT tại Little Saigon. (Hình: Đặng Quỳnh cung cấp)

Đặng Quỳnh tâm tình: “Hai xạ thủ đại liên đã hy sinh và thân của họ đã che đạn cho hai phi công. Nhưng chân phải của tôi thì cũng bị trúng đạn máu ra đầm đìa. Nhưng may, tàu vẫn còn nổ máy và tôi cố đưa tàu ra khỏi vòng chiến. Tôi thấy một cầu vòng màu đỏ trước mắt tôi thì phi công phụ của tôi là Nguyễn Hùng Lực mới nói với tôi là máu từ trên trán của tôi bắn ra một tia nhỏ mà tôi cứ ngỡ đó là cầu vồng, và thân tôi đã bị thương rất nhiều chỗ.”

Ông cho biết thêm: “Sau đó, phi công Lực cố gắng đưa tàu về đến Trung Đoàn 45, Sư Đoàn 23 của Đại Tá Quang. Anh em mới chở thẳng tôi về bệnh viện Ban Mê Thuột. Bác sĩ cho biết tôi bị mất máu rất nhiều, cũng may trong phi đoàn có anh Dương Ngọc Như máu O+ nên anh cho máu nào cũng được. Và, chính máu của chiến hữu Nhu đã cứu sống tôi. Sau đó, tôi được đưa về bệnh viện Nguyễn Huệ, Nha Trang. Cuối cùng tôi được đưa về Quân Y Viện Cộng Hòa Sài Gòn, và được thăng cấp đại úy.”

Thành công khi đến Mỹ 

Ông Đặng Quỳnh có ngôi nhà trên đường Trương Minh Giảng, ngôi nhà này thường bỏ trống, trong lúc các anh em Không Quân về phép thường dùng căn nhà này để làm chỗ nghĩ ngơi. Chìa khóa thì được Đặng Quỳnh cất giấu một nơi nào đó và cũng thông báo cho các anh em Không Quân biết để vào nhà.

Ngày 28 Tháng Tư, 1975, phi công Nguyễn Hữu Phước, bạn cùng khóa bay vào Quân Y Viện Cộng Hòa thăm Đặng Quỳnh, và cho biết là anh phải đi ngay, nhưng còn để vợ con của anh trong nhà của Quỳnh. Và, anh còn nhắn lại rằng, anh sẽ về rước vợ con của mình.

tructhang - UH-1 đổ quân tại Hạ Lào. (Hình Đặng Quỳnh cung cấp)
UH-1 đổ quân tại Hạ Lào. (Hình: Đặng Quỳnh cung cấp)


Ngày 30 Tháng Tư, 1975, Cộng Sản Bắc Việt chiếm Sài Gòn.

Ngày 1 Tháng Năm, 1975, thương binh Đặng Quỳnh cùng bao người thương binh khác bị chánh quyền Cộng Sản đuổi ra khỏi Quân Y Viện Cộng Hòa. Lúc 12 giờ 30 phút trưa, Đặng Quỳnh bao xe ôm về nhà của mình.

Đặng Quỳnh kể: “Về đến nhà thì tôi thấy vợ và con của anh Phước đang trong nhà của tôi, và vợ của anh cho tôi biết là anh Phước sẽ về rước vợ con và bảo tôi cùng đi chung nữa. Tôi ngạc nhiên giờ này Việt Cộng đã đi đầy đường, phi trường thì chúng đã chiếm, biết phải đi đâu bây giờ. Chừng 20 phút sau, thì có anh Hưng (xạ thủ đại liên) mặc đồ thường phục vào thông báo là Hưng và Phước đã bay ra hạm đội của Mỹ, và bây giờ xin thêm xăng trở vào để rước vợ con. Anh Phước đang bay lòng vòng, khoảng một tiếng nữa đến đón mọi người tại sân vận động Hoa Lư.”

“Tôi, anh Hưng và vợ con của anh Phước không còn ngần ngại gì cả, gọi xe ôm đi đến sân Hoa Lư liền. Đến nơi chưa thấy trực thăng tới, thì khoảng 10 phút sau, tôi nghe tiếng trực thăng lù lù tới. Phước đã đưa mọi người ra đến hạm đội một cách an toàn,” Đặng Quỳnh kể thêm.

Tháng Bảy, 1975, Đặng Quỳnh được định cư tại Hilton Head, South Carolina, và sau đó có hơn 25 năm thành công trong ngành xây dựng tại Hoa Kỳ. Hiện giờ đang sống bên vợ Xuân Thúy và con tại Little Saigon. Đặng Quỳnh đã hưu trí và cũng là trưởng ban nhạc AVT chuyên hát giúp vui miễn phí cho cộng đồng người Việt tại Little Saigon.

Lâm Hoài Thạch
Nguồn : Người Việt

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn