BÀI ĐỌC NHIỀU NHẤT
(Xem: 73343)
(Xem: 62242)
(Xem: 39427)
(Xem: 31174)
SỐ LƯỢT XEM TRANG
0

Quẻ Dịch - Cách Lập Và Giải Đoán (Bài 2)

17 Tháng Giêng 20196:54 SA(Xem: 1041)
Quẻ Dịch - Cách Lập Và Giải Đoán (Bài 2)
50Vote
40Vote
30Vote
20Vote
10Vote
00
THUT NGCN NH
Tám quẻ nguyên thủy (bát quái ) gọi là đơn quái (quẻ đơn).
Sáu mươi bốn quẻ mới được tạo ra từ việc chồng bát quái gọi là trùng quái (quẻ trùng) để phân biệt với tám quẻ nguyên thủy, đơn quái (quẻ đơn).
Ni Quái và Ngai Quái:
Mỗi quẻ trùng gồm hai quẻ đơn: Quẻ đơn ở dưới gọi là ni quái, quẻ đơn ở trên gọi là ngai quái.
Ví dụ: Quẻ Thiên Phong Cấu:
Quẻ trên Thiên, tức Càn là ngọai quái,
Quẻ dưới Phong tức tốn là nội quái.
Ví dụ: Quẻ Địa Thiên Thái:
Quẻ trên là Khôn: Địa (Ngọai quái)
Quẻ dưới là Càn: Thiên (Nội quái)
Gọi là nội quái, ngọai quái vì sắp theo vòng tròn thì quẻ Càn ở trong (nội) gần trung tâm, còn quẻ Khôn chồng lên nó, ở ngòai (ngọai), xa trung tâm
64 que - vong tron
 64 quẻ - vòng tròn
                              
Danh sách 64 quẻ trong Kinh Dịch
       
Danh sach 64 que trong KD
 Danh sách 64 quẻ trong Kinh Dịch
 
Vì có việc chồng hào, chồng quẻ như vậy, nên khi tìm hiểu ý nghĩa và khi đóan qu,ta phi xét tdưới lên trên. Nhưng khi gi tên quthì ta theo thtngược li, nghĩa là ttrên xung dưới.
Gi tên qu
Khi gi tên qu, ta phi theo thtttrên xung.
Thí dụ: Quẻ Địa Thiên Thái   ䷊ ngọai quái (ở trên) là Địa, nội quái (ở dưới) là Thiên; còn chữ Thái ở sau trỏ nghĩa của quẻ: Thái là yên ổn (như thái bình thông thuận).
Một thí dụ nữa: Quẻ Thủy Hỏa Kí tế.
Đọc tên quẻ đó bạn phải hiểu ngay: ngọai quái (ở trên) là Khảm (thủy), nội quái (ở dưới) là Ly (hỏa), và vẽ ngay được hình dưới đây:  ䷾       
  Khảm (thủy)
  Li (lửa)
 Quẻ Thủy Hỏa Kí tế.
Còn Kí tế (ở sau)  là nghĩa của quẻ: đã thành đã xong, đã qua sông.
Hào ca qu
Mỗi quẻ trùng gồm sáu hào, đánh số từ dưới lên: hào 1 gọi là sơ, hào 2 gọi là nhị, hào 3 gọi là tam, hào 4 gọi là tứ, hào 5 gọi là ngũ, hào trên cùng không gọi là lục mà gọi là thượng (bạn sẽ hiểu chữ lục trong các hào có nghĩa là âm, nên gọi hào này là thượng cho khỏi lầm*)
Thí dụ: Quẻ Thủy Hỏa Kí tế: ䷾
Hào sơ, hào tam, hào ngũ là dương, còn hào nhị, hào tứ, hào thượng là âm.
Xin nhắc lại: Vì có việc chồng hào, chồng quẻ nên khi tìm hiểu ý nghĩa và khi đóan quẻ, ta phải xét từ dưới lên, từ hào sơ lần lần lên tới hào thượng.
Hào cu – Hào lc
Trong một trùng quái, hào dương (vạch liền ___ ) còn gọi là hào cửu, hào âm (vạch đứt _ _ )  còn gọi là hào lục.
Thí dụ: quẻ Thủy Hỏa Kí tế và quẻ Hỏa Thủy Vị tế  ䷿
__ __ Thượng lục                     _____ Thượng cửu
_____ Cửu ngũ                         __ __ Lục ngũ
__ __ Lục tứ                             _____ Cửu tứ
_____ Cửu tam                          __ __ Lục tam
__ __ Lục nhị                             _____ Cửu nhị
_____ Sơ cửu                             __ __ Sơ lục
Thủy Hỏa Kí tế                            Hỏa Thủy Vị tế

   
63 thuy hoa ky te
  Thủy Hỏa Kí tế
      
Hoa Thuy Vi Te
Hỏa Thủy Vị tế

                    
Những chữ cửu và lục hai quẻ trong đó không có nghĩa là 9, 6 mà chỉ có nghĩa dương, âm.
Hào dưới của quẻ Kí Tế và quẻ Vị Tế (cũng như mọi quẻ khác) gọi là hào sơ (tức hào đầu tiên), nhưng bên Kí Tế, nó là hào dương, nên gọi là Sơ cửu (nghĩa là hào sơ mà là dương); còn bên Vị Tế, nó là hào âm, nên gọi là Sơ lục (nghĩa là hào sơ mà là âm).
Hào thứ nhì từ dưới lên, gọi là hào nhị, bên Kí Tế nó là âm cho nên gọi là Lục Nhị; còn bên Vị Tế nó là hào dương, nên gọi là Cửu nhị ...
Hào trên cùng, gọi là hào thượng, bên Kí Tế nó là hào âm, nên gọi là thượng lục; còn bên Vị Tế, nó là hào dương, nên gọi là thượng cửu.
Các hào khác cũng vậy, cứ gặp chữ cửu thì bạn đổi ngay là ra dương, gặp chữ lục thì đổi ngay ra là âm.
Do lẽ chữ lục trong các hào đã có nghĩa là âm rồi, nên hào trên cùng, tức hào thứ sáu không gọi là lục (sáu) nữa, mà gọi là thượng cho khỏi lầm*.
Dng cu – Dng lc
Riêng quẻ Thuần Càn, ngòai sáu hào, còn có hào (?) dụng cửu; và riêng quẻ Thuần Khôn, ngòai sáu hào, còn có hào (?) dụng lục
Ý NGHĨA CÁC HÀO
Trung ‐ Chính:
Như đã biết, dương là tốt đẹp, âm là xấu xa. Nhưng đó chỉ là xét chung! Ta còn phải xét vị trí của Hào nữa, mới thật sự định được là tốt hay xấu. Dù là hào dương mà vị trí không trung chính thì cũng xấu; dù là hào âm mà vị trí trung chính thì cũng tốt.
Thế nào là trung?
Nội quái có ba hào: 1 là sơ, 2 là trung, 3 là mạt. Ngọai quái cũng có ba hào: 4 là sơ, 5 là trung, 6 là mạt. Vậy trung là những hào ở giữa nội quái và ngọai quái, tức hào 2 và hào 5 (không cần biết bản thể của chúng là gì, dương hay âm thì cũng vậy).
Thế nào là chính?
Trong 6 hào, nhng hào sl1, 3, 5 có vtrí dương; nhng hào schn 2, 4, 6 vtrí âm.
Một hào bản thể dương (nghĩa là một vạch liền) ở vào một vị trí dương thì là chính, còn nếu ở vào một vị trí âm thì là bất chính. Một hào bản thể âm (nghĩa là một vạch đứt) phải ở vào một vị trí âm thì mới gọi là chính, còn nếu ở vào vị trí dương thì là bất chính.
Thí dụ: quẻ Thuần Càn: ䷀ sáu hào đều là hào dương cả. Hào 2 và 5 đều là trung, nhưng hào 2 không chính vì hào 2 là dương mà ở vị trí âm (hào chẵn) , chỉ hào 5 mới được cả trung lẫn chính, vì hào 5 là hào dương ở vị trí dương (hào lẻ).
Bốn hào kia thì hào 1 vả 3 đắc chính mà không đắc trung; hào 4, 6 không đắc chính cũng không đắc trung.
Do đó hào 5 quẻ Càn là hào tốt nhất trong quẻ, mà danh từ "cửu ngũ" (cửu là dương, ngũ là thứ 5, cửu ngũ là hào thứ 5, dương) trỏ ngôi vua, ngôi chí tôn.
6 ______ không chính cũng không trung
5 ______ vừa trung vừa chính
4 ______ không chính cũng không trung
3 ______ chính mà không trung
2 ______ trung mà không chính
1 ______ chính mà không trung

Quẻ Thuần Càn
Một thí dụ nữa, quẻ Thủy hỏa Kí tế:  ䷾
6 ___ ___ chính mà không trung
5 ______ vừa trung vừa chính
4 ___ ___ chính mà không trung
3 ______ chính mà không trung
2 ___ ___ vừa trung vừa chính
1 ______ chính mà không trung.
Quan niệm trung chính là quan niệm căn bản của Dịch, cho nên Trương Kì Quân bảo:
"Dịch là gì? Chỉ là trung, chính mà thôi. Đạo lý trong thiên hạ chỉ là khiến cho việc không trung trở về chỗ trung, việc không chính trở về chỗ chính"
Thi

Vị trí của mỗi hào còn cho ta biết thời của mỗi hào nữa. Vì như trên chúng ta đã biết: Hào 1 là sơ thời, hào 3 là mạt thời của nội quái và hào 4 là sơ thời, hào 6 là mạt thời của ngọai quái (cũng là mạt thời của trùng quái).
Xét về phương diện tĩnh thì là vị trí chính hay không chính, xét về phương diện động thì là cập thời hay không cập thời.
Ví dụ Quẻ Càn: - hào 1 (hào sơ) dương ở dương vị, là đức chính. Nhưng vì là hào sơ nên chỉ mới có đức thôi, chưa có tiếng tăm, tài đức cũng chưa cao, nên còn phải ở ẩn. Nếu hấp tấp vội xuất đầu lộ diện thì là bất cập thời, bất hợp thời!
Lên hào 2, mới nên xuất hiện (nhưng chưa nên làm gì), như vậy là cập thời, hợp thời.
Lên hào 5, vừa trung vừa chính, tài đức đã trau giồi lâu rồi, là lúc làm nên sự nghiệp, làm là cập thời, không làm là bỏ lỡ thời cơ.
Tới hào 6, hào cuối cùng, thịnh cực rồi tất phải suy, không biết kịp thời rút lui, thì sẽ bị họa.
Vì vậy quan niệm thời còn quan trọng hơn quan niệm trung chính nữa.
Trung chính là quan niệm căn bản của Dịch: muốn đoán tính cách cát hung của một hào, Dịch xét trước hết xem hào đó có chính, trung không, có được ứng viện không và hào ứng viện nó có chính trung hay không.
Chính không phải chỉ có nghĩa là ngay thẳng, mà còn có nghĩa là hợp chính nghĩa, hợp đạo
Nhưng Dịch cho rằng chính không quí bằng Trung, vì hễ trung thì cũng là chính, mà chính chưa
chắc đã là trung.
Dịch theo luật âm dương trong thiên nhiên, thấy cái gì thái quá thì gây phản ứng, nên khuyên phải trung, phải quân bình để tránh phản ứng, tránh hoạ.
Trung tức là có chừng mực: ”Trời đất có chừng mực nên mới thành bốn mùa” (Thoán truyện quẻ Tiết) nhờ đó vạn vật mới phát triển được. Chừng mực cũng là luật quân bình, nắng không nắng quá, mưa không mưa quá, nắng mưa, ấm lạnh phải thay nhau để điều hòa khí hậu. Cái gì thịnh quá thì phải suy, suy quá thì sẽ thịnh.
Tuy nhiên trung không có nghĩa là lưng chừng như nhiều người hiểu lầm: Trung, như Văn ngôn truyện nói, là biết lúc nào nên tiến, lúc nào nên lui, biết vận trời (hoàn cảnh) lúc nào còn lúc nào mất mà xử sự cho hợp thời, nhưng vẫn giữ được chính đạo, nghĩa là biết tùy trời cho hợp đạo.
Chính, Trung li gm trong chThi.
Dịch là biến dịch, có biến hoá mới thích hợp (duy biến sở thích – Hệ từ hạ, Ch.8), cho nên trọng cái thời. Vì biến đến cực thì trở lại, cho nên trọng đức trung. Trung với thời, do đó mà liên quan mật thiết với nhau.
Thời gồm trung, vì phải hợp thời mới gọi là trung. Ở cảnh giàu sang mà sống bủn xỉn, ở cảnh nghèo hèn mà sống xa hoa, thì không hợp thời, không phải là trung.
Thời gồm chính nữa vì chính mà không hợp thời thì cũng xấu. Cương cường là đạo người quân tử mà ở cuối quẻ Càn, không hợp thời, cho nên có hối hận.
Vậy Dịch là chính trung, mà thực ra chỉ là hợp thời. “Cái nghĩa tùy thời lớn thật” (Tùy thời chi nghĩa đại hĩ tai! – Quẻ Tùy).
QUI TC CN NH
Ý nghĩa và tương quan ca ni, ngai quái:
Mỗi trùng quái tuy gồm hai đơn quái chồng lên nhau, nhưng chỉ diễn tả một tình trạng, một sự việc, một biến cố hay một hiện tượng; vì vậy nội quái và ngọai quái có tương quan mật thiết với nhau. Tương quan đó là sự diễn tiến tuần tự về thời gian: hào sơ là bứơc đầu, hào thượng là bước cuối, các hào ở giữa là các giai đoạn trung gian.
Tương quan gia các hào
Nhng hào ng nhau:
Xét về vị trí, mỗi hào trong nội quái ứng với một hào trong ngọai quái:
Hào 1 ứng với hào 4: hào lẻ ứng với hào chẳn.
Hào 2 ứng với hào 5: hào chẳn ứng với hào lẻ.
Hào 3 ứng với hào 6: hào lẻ ứng với hào chẳn.
Vậy dương vị ứng với âm vị, và ngược lại .
Đó chỉ mới là một điều kiện. Còn phải một điều kiện nữa thì mới gọi là tốt: hai hào phải khác nhau về bản thể, mt là dương, mt là âm thì mới “có tình” với nhau, mới “tương cầu”, tương trợ nhau như hào 1 và 4 quẻ Tụng : 
Nếu hai hào vị tuy khác nhau (một chẳn một lẻ) mà thể ging nhau (cùng dương cả hoặc cùng âm cả) thì có khi knhau chứ không giúp nhau được gì, như hào 2 và 5 quẻ Tụng. Trong ba cặp tương ứng 1‐4, 2-5, 3-6 thì:
‐ Cặp 2‐5 quan trọng nhất, hai hào đều đắc trung cả mà hào 5 lại ở vào địa vị cao nhất.
Nếu hào 5 là âm (nhu), hào 2 là dương (cương) thì tốt: vì hào 5 là người trên (vua, cha, chồng) mà nhu, biết khiêm tốn, tín nhiệm người dưới (như Tề Hòan Công chịu nghe lời Quản Trọng); còn hào 2 là người dưới (bề tôi, con, vợ) cương trực nhưng lễ độ, biết giúp đỡ, khuyên răn người trên. Đó là trường hợp các quẻ 4, 7, 11, 14, 18..
Nếu ngược lại hào 5 là dương (cương), hào 2 là âm (nhu) thì kém tốt, vì người trên tự tín quá, mà người dưới nhu thuận quá, không dám khuyên can người trên. Đó là trường hợp quẻ 39
(Thủy Sơn Kiển) và quẻ 63 (Thủy hỏa kí tế)  
Xét chung thì như vậy, nhưng tốt hay xấu còn phải tùy ý nghĩa của tòan quẻ mà đóan:
‐ Cặp 1‐4 không quan trọng mấy, nhưng vẫn thường được xét. Nếu hào 4 là âm, hào 1 là dương thì ý nghĩa khá tốt: lý do cũng như trường hợp hào 5 là âm, hào 2 là dương. Ngược lại, nếu 4 là dương, 1 là âm thì kém: cả hai đều bất chính.
‐ Cặp 3‐6 rất ít khi được xét tới. Vì lẽ hào 6 đã tới thời suy, cần phải rút lui, không cần người dưới giúp nữa. Mà ngưới hào 3 ở vào một địa vị mập mờ, không chính đáng (cuối quẻ nội mà chưa lên được quẻ ngọai), muốn giúp hào 6 thì phải qua mặt hào 5 (đương cầm quyền trongquẻ ) như vậy sợ bị tội.
Trong quẻ nào có một hào làm chủ cả quẻ thì không xét những cặp ứng nhau theo những qui tắc kể trên, mà chỉ theo ý nghĩa tòan quẻ thôi.
Hào làm ch:
Có một qui tắc nữa nên nhớ: “chúng dĩ quả vi chủ, đa dĩ thiểu vi tôn”. Nghĩa là cái gì nhiều thì bỏ đi mà lấy cái ít. Theo qui tắc đó, quẻ nào nhiều dương thì lấy âm làm chủ, ngược lại quẻ nhiều âm thì lấy dương làm chủ.
Như trong tám quẻ đơn, không kể hai quẻ Càn, Khôn ba hào đều dương hoặc đều âm, còn lại 6 quẻ kia thì 3 quẻ: Chấn, Khảm, Cấn mỗi quẻ đều có 2 âm 1 dương, cho nên lấy dương làm chủ, và coi những quẻ đó là dương. 3 quẻ :Ly, Tốn, Đóai mỗi quẻ đều có 2 dương 1 âm, cho nên lấy âm làm chủ, và coi những quẻ đó là âm.
Chúng ta nhận thấy những quẻ dương số nét đều lẻ, những quẻ âm số nét đều chẳn.
(Một vạch đứt __ __ âm kể làm hai nét).
Trong những quẻ trùng, cũng vậy.
Thí dụ: quẻ Lôi Địa Dự   ䷏ có năm hào âm,một hào dương (hào thứ tư) thì lấy hào dương đó làm chủ cả quẻ (hào chủ động trong quẻ) ý nghĩa tòan quẻ tùy vào nó cả. Hào đó là vị cận thần có tài đức, cương cường (dương) ở bên cạnh ông vua nhu nhược (hào 5 là âm), hào 4 khống chế được các hào âm (kẻ tiểu nhân, kém đức) ở dưới, giúp được vua, khiến cho xã hội được vui vẻ (Dự có ngĩa là vui vẻ sung sướng).
Một thí dụ nữa: quẻ Trạch Thiên Quải   ䷪ có năm hào dương, một hào âm, thì lấy hào âm (hào 6) làm chủ. Nghĩa là khi xét ý nghĩa của tòan quẻ thì nhắm vào hào âm đó: Năm hào dương là một bầy quân tử cùng nhau cương quyết trừ khử một hào âm (kẻ tiểu nhân); cho nên quẻ có ý nghĩa là cương quyết (Quải là cương quyết, quyết liệt), và gặp hào đó thì đóan là sau cùng kẻ tiểu nhân tất phải chết.
Tóm lại, một hào tốt (hào 4 trong quẻ Lôi địa Dự) làm chủ cả quả và một hào xấu (hào 6 trong quẻ Trạch thiên Quải) cũng có thể làm chủ cả quẻ. Làm chủ vì nó là số ít trong một đám số nhiều, chứ không phải vì tốt hay xấu.
Vậy thì qui tắc “chúng dĩ quả vi chủ” trong Dịch không có nghĩa là đa số phải phục tùng thiểu số (trái với chế độ dân chủ) mà cỉ có ngĩa là khi xét ý nghĩa của quẻ thì tìm cái nét đặc biệt của quẻ. Nét độc nhất, đặc biệt đó là một hào dương giữa năm hào âm, hoặc một hào âm giữa năm hào dương, không cần để ý tới hào đó có cao qúi , tốt hay xấu hay không!
Nhưng ta cũng nhận thấy rằng nếu hào đặc biệt là hào thứ năm, đã trung mà lại chính thì hầu hết là tốt. Nếu lại hợp thời nữa thì chắc chắn là trất tốt.
Thoán t, Hào t
Thoán từ (cũng gọi là Quái từ) là lời giải nghĩa, lời đoán cho toàn quẻ
Hào từ là lời giải nghĩa, lời đoán cho mỗi hào.
Trong khi bị giam ở ngục Dữu Lý, có thể Văn Vương đã làm việc trùng quái, và chắc chắn ông đã đặt tên và tìm nghĩa cho 64 quẻ, rồi viết Thoán từ (cũng gọi là Quái từ) để giải nghĩa cho mỗi quẻ. Văn Vương mới chỉ đặt ra Thóan Từ để giải nghĩa toàn quẻ. Chu Công đặt them Hào từ cho mỗi hào của mỗi quẻ (64 x 6 = 384 hào), để giải nghĩa từng hào một.
Chẳng hạn quẻ Càn, dưới hào sơ (hào 1), Chu Công viết: “Tiềm long vật dụng”, nghĩa là: rồng, còn ẩn náu, không dùng được. Dưới hào 2, ông viết: “Hiện long tại điền, lợi kiến đại nhân”
Nghĩa là: rồng đã hiện lên cánh đồng, ra mắt kẻ đại nhân thì lợi. Dưới hào 3:” quân tử chung nhật càn càn, tịch dịch nhược, lệ, vô cữu” Nghĩa là: người quân tử suốt ngày hăng hái tự cường, đến tối vẫn còn thận trọng như lo sợ, nguy hiểm, không tội lỗi v.v..
Tới đây Chu Dịch mới thành một cuốn sách có văn từ, nghĩa lý, đời sau gọi là Kinh và chia làm 2 thiên: thượng cho 30 quẻ đầu, hạ cho 34 quẻ sau.
Thp dc (Thp truyn)
Nhưng Thoán từ và Hào từ quá đơn giản, ít ai hiểu, nên người đời sau phải chú thích thêm, tổng hợp thành bản Thập dực (Thập là mười, dực là cánh con chim) Nó có ý bảo Thóan từ của Văn Vương, Hào từ của Chu Công đặt ở dưới mỗi quẻ, mỗi hào, là đủ hình con chim rồi, bây giờ thêm Thập Dực, là thêm lông cho con chim. Thập dực được gọi là Thập truyện (truyện là
giải thích). Đại truyện giải thích Thoán từ, Tiểu truyện giải thích Hào từ.
Nguyên tc vt cc tt phn:
Sự vật phát triển tới đỉnh điểm sẽ phản ngược lại: "Dương cực biến âm, âm cực biến dương".Dương: cũng gọi là hào thực. Âm: cũng gọi là hao hư.
Trong Kinh Dịch còn có nhiều điều khó hiểu nữa, chúng ta đành phải chấp nhận thôi.
Thí dụ: 5 và 4 có trị số là 3, 9 và 8 có trị số là 2 .v.v...
(còn tiếp)
Nguyên Lc                                                                         
..................
Tham Khảo: 
Nguyễn Hiến Lê, Ngô Tất Tố, Wu Wei, Richard Wilhelm, Kiều Xuân Dũng,
Đông A Sáng, Internet, Facebook...
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn