BÀI ĐỌC NHIỀU NHẤT
(Xem: 73404)
(Xem: 62247)
(Xem: 39435)
(Xem: 31179)
SỐ LƯỢT XEM TRANG
0

Sỏi Đá Ngậm Ngùi (Chương 8 --> Hết)

28 Tháng Giêng 201612:00 SA(Xem: 1221)
Sỏi Đá Ngậm Ngùi (Chương 8 --> Hết)
50Vote
40Vote
30Vote
20Vote
10Vote
00


Chương 8


Cửa sắt khép lại. Sử gia của Đảng Cộng sản bảo tôi:


- Chừng nào cô cảm thấy sợ hãi, hãy báo cáo ngay với người của chúng tôi.


Tôi hỏi, giọng bình thản:


- Người của các ông?


- Phải, người của chúng tôi.


- Công an có mặt cả ở nhà thương điên?


- Ở khắp nơi.


- Tôi hiểu rồi.


- Cô cần hiểu thêm điều này: Tự ái của cô sẽ biến cô thành người điên thật sự như cô Hoàng Thị Nga. Một ngày trong phòng điên bằng một năm trong cachot. Cô nên nhớ kỹ.


- Bằng mấy phút sống với các ông?


- Hãy sống đi, cô sẽ biết so sánh.


Sử gia lùi lại vài bước và khoanh tay đứng nhìn tôi. Tôi vừa xoay lưng về phía ông ta là bị ngay hai người điên nhào tới, túm tóc, kéo tôi vào góc phòng. Họ quật ngã tôi trước sự rửng rưng của những người điên khác. Tôi, hầu như kiệt lực, không đủ sức kháng cự, đành nhắm mắt chờ đợi một trò chơi mới, khiếp đảm và nhục nhã. Nằm yên, tôi chịu đựng những trái đấm, những cái tát không thương sót. Tôi không thể nhớ rõ thời gian rớt khỏi cầu vồng dưới âm phủ và chó ngao đã cắn xé tôi bao nhiêu miếng, nhưng tôi biết đòn điên đã làm tê liệt thể xác tôi. Đúng lúc đó, lúc mà tóc tôi bị xoắn chặt, giật mạnh không còn cảm giác đau đớn, những người điên trong phòng dẫm chân, vỗ tay, bu kín quanh cuộc chơi. Họ la hét và xông vào đấm đá hai người điên bắt nạt tôi. Tôi được giải cứu. Vẫn nằm co coắp ở góc phòng, tôi cố gắng mở mắt. Cửa sắt bị rung ầm ầm. Giám thị mở khóa, tay cầm chiếc roi mây. Sử gia của Đảng còn đứng ngoài hành lang. Giám thị mở tung cửa, chạy vô, vụt roi tới tấp vào đám người điên. Vòng đai dãn rộng lập tức. Hai người điên hành hung tôi được lôi ra khỏi phòng. Cửa sắt đống rầm, khóa chặt. Sử gia theo sau Giám thị, mất hút. Bây giờ tôi mới thấm đòn. Tôi dẫy dụa, quằn quại va thiếp đi trong cơn say của hình phạt.


Khi tôi vụt tỉnh, tôi thấy cả khuôn mặt tôi lạnh toát. Mở mắt, tôi thấy tăm tối. Và tôi hoảng sợ, hét lớn. Một bàn tay vỗ nhẹ lên vai tôi và một giọng nói tôi đã từng nghe ở đâu đó:


- Bình tĩnh, em nhỏ!


Vẫn bàn tay ấy, lột cái khăn thấm nước khỏi mặt tôi. Vẫn giọng nói ấy rót vào tai tôi:


- Em nhỏ, sợ hãi là đầu hàng đấy.


Tự nhiên, tôi quên hết đau đớn, đôi môi rướm máu của tôi mấp máy, tôi khẽ gọi:


- Chị Nga!


Chị Nga mỉm cười. Tôi vươn tay nếu lấy cổ chị. Một người điên khác giúp tôi ngồi dậy, dựa lưng vào tường. Chúng tôi nhìn nhau. Tôi không hiểu chị Nga đã nghĩ gì khi ngắm nghía khuôn mặt đầy móng vuốt cào cấu còn rướm máu, khuôn mặt của người con gái hơn 1390 ngày thiếu ánh sáng mặt trời. Mặt trời chiếu cho mọi người, mặt trời đã bị cấm chiếu cho chúng tôi. Mặt trời bất lực dưới quyền uy của chủ nghĩa. Mặt trời mù lòa, hèn mọn, khiếp nhược. Mặt trời phản bội thiên chức soi sáng những vùng tội ác và hâm nóng lương tri đã đống băng của loài người. Nhưng, mặt trời vẫn mọc, vẫn lặn và con người vẫn sống quằn quại, sống hãi hùng. Mặt trời cũng vẫn chiếu xuống trái đất và chẳng phản ảnh nổi một chút xao xuyến nào từ trái tim bọc gọn lớp mỡ dầy của những kẻ gọi là lãnh tụ, những kẻ luôn luôn khoe mình ban phát hạnh phúc cho con người. Cuối cùng, mặt trời đồng lõa với bọn lái buôn nỗi khổ, bọn thu thuế bác ái, bọn đấu thầu nhân quyền và bọn đầu cơ tình nghĩa. Hẳn chị Nga đã nghĩ nhiều lắm. Đôi mắt thâm quầng và trũng sâu của chị mới là mặt trời của tôi, một mặt trời tâm cảm làm rực rỡ những ước mơ trong quan tài cachot.


- Em xanh xao và già đi nhiều quá, Lan ạ! Chị Nga nói.


- Ở tù mấy ai trẻ mãi, chị Nga nhỉ? Tôi nói. Em hy vong ước mơ của chúng ta không già. Khi nào hết ước mơ, đó là lúc chúng ta nên chết.


- Học điều đó ở đâu vậy, em nhỏ?


- Ở một người tử tù.


Tôi kể cho chị nghe 240 ngày đêm nằm cachot FG khám Chí Hòa. Chị Nga ôm chặt lấy tôi, vỗ về:


- Em mong muốn một phần thưởng gì không?


- Không.


- Nhưng sẽ có một phần thưởng cho em, phần thưởng dành tặng con người chế ngự hình phạt của thù hận. Rốt cuộc, chủ nghĩa nào cũng thay phiên nhau vào quan tài và chết ngạt. Con người thì cứ hiên ngang sống, thách thức tất cả. Em là biểu tượng của sự sống tuyệt vời ấy.


- Còn chị?


- Chị à... Chị chẳng có gì đáng nói.


Chị Nga lảng qua chuyện khác.


- Chẳng có gì phải sợ hãi người điên cả, nếu ta ở lâu với họ. Người điên biết sợ Giám thị và cũng biết thương yêu. Họ hiền hòa vô cùng khi họ hết cơn điên.


Tôi đưa tay rờ những vết cào cấu trên mặt.


- Họ đã...


Chị Nga cười:


- Họ đã cứu em đấy. Hai đứa hành hung dằn mặt em là công an được đẩy vô phòng trước lúc em tới nữa giờ.


- Em hiểu rồi, hiểu rồi...


- Em phải biết giả vờ điên, giả vờ đấm đá, cấu xé và thoát y để bị còng. Chúng ta khó trở thành người điên lắm. Ước mơ còn giúp ta luôn luôn tỉnh, dù ta bị kéo dài thời gian nhốt chung với người điên. Hãy nhớ điên không phải là bệnh truyền nhiễm, em nhỏ thân mến.


- Chị đã bị tra tấn nhiều lần?


- Những ngày đầu. Bây giờ, họ tưởng chị điên thật. Sống với người điên suốt đời vẫn dễ chịu hơn sống với cộng sản. Họ có thể làm đau đớn thể xác ta khoảnh khắc, làm phiền ta nhưng họ không bắt ta làm tự khai.


- Chị đã bị còng?


- Bằng còng Mỹ. Có dịp nhìn còng Mỹ dính trên tay mình, chị lại nghĩ đến Nhi và bài diễn văn dang dở.


- Mãi mãi chị xoáy tâm hồn vào cái còng Mỹ.


- Còng Mỹ và cai ngục Nga. Hai thứ là một. Hai thứ cùng chung mục đích tạo tác bất hạnh và chết chóc. Yên tâm không có gì để sợ hãi, không còn gì để sợ hãi.


Có chị Nga bên cạnh, tôi khởi sự những ngày sống ở nhà thương điên, thứ nhà tù khốn kiếp nhất. Người ta muốn biến đổi tâm hồn con người mà không cần dùng hệ thống tẩy não của Palov. Với ai đó, người ta sẽ thành công. Với chúng tôi, họ chỉ thất bại. Bởi vì, nếu bị điện, chúng tôi đã điên ở những cachots câm lặng đằng đẵng tháng năm. Phấn đấu trong bóng tối với sự quạnh hiu soi mòn xương thịt khổ hơn phấn đấu để khỏi bị điên trong thế giới người điên. Chị Nga biết cách sống với người điên, biết cách giả vờ điên. Kinh nghiệm nào đã dậy chị? Ôi, thứ kinh nghiệm gớm ghiếc chị rút tỉa được dưới đáy địa ngục. Bằng kinh nghiệm ấy, chị Nga qua mặt các sử gia của Đảng Cộng sản, cái đám lãnh «sứ mạng» điều nghiên tâm lý của tuổi trẻ chống đối họ không thấm mệt. Họ tưởng chị Nga điên rồi. Nhưng chị Nga chưa điên, không bao giờ điên.


Chị Nga chỉ già nua, tàn tạ nhan sắc và, chắc chắn, xuân đời của riêng chị đã phôi pha. Jane Fonda hay Elizabeth Hopkins đã là những kẻ thông manh tội nghiệp. Họ thiếu may mắn để chữa bệnh tật của họ. Làm sao họ biết những người con gái bị còng dính chùm trong cachot tối tăm, hôi hám. Nếu họ mở nổi mắt nhìn rõ hình hài chị Nga lúc này và cái chết thê thảm của chị Nhi năm ngoái thì ngay cả Bertrand Russell cũng sẽ đòi hỏi chính tòa án của ông ta kết tội ông ta như ông ta đã kết tội chiến tranh Việt Nam. Chiến tranh Việt Nam bỉ ổi hay hình phạt của hòa bình Việt Nam bỉ ổi? Và, những kẻ phản chiến hôm qua, những kẻ thân hửu với cộng sản hôm nay phải cúi mặt xấu hổ. Nói chi bọn vong bản che dù. Tất cả hãy chịu khó hình tưởng những người con gái Việt Nam yêu tổ quốc, yêu tự do, yêu dân chủ – chỉ có mỗi tội ấy thôi – mà phải úa héo, tàn tạ một kiếp người trong những chiếc quan tài xi măng cốt sắt, câm lặng và đói khát, xiềng xích triền miên. Bóng tối và tủi khổ chỉ làm mờ mắt và gầy mòn nhưng vẫn làm ước mơ rực sáng. Dẫu họ gục xuống trong cô đơn, trong sự ngoảnh mặt không mảy may trắc ẩn của những kẻ thích ồn ào phán xét, thích lên tiếng vô trách nhiệm, thích làm dáng nhân quyền thì ước mơ của họ vẫn tồn tại. Đó là chất ngọt của trái đắng, là ý nghĩa của đời sống của những ai dám đánh đu với hình phạt của thù hận để định nghĩa làm người, để dâng hiến cuộc đời.


- Chị Nga, chị còn giữ vững cái cung cách đối xử với cộng sản khi sông núi chuyển vẫn không?


- Còn chứ. Ta phải dạy họ làm người, cần dạy họ làm người.


- Dù họ dạy ta điên? Dù họ nhỏ át xít từng giọt lên đời ta?


- Dù gì chăng nữa, vẫn nên dạy họ làm người. Hễ được làm người, họ sẽ hết là cộng sản, sẽ hết đày đọa con người. Đó là Di chúc của cô giáo Trần Thu Nhi và chúng ta có bổn phận phải thực hiện.


Chị Nga luôn luôn tuyệt diệu. Tâm hồn chị đã đáp trên chuyến xe hồi tưởng trở về vùng đất trăm năm xưa cũ của người Việt Nam cao thượng, người Việt Nam chưa hề bị biến chất bởi những chủ nghĩa phi nhân Tây phương, bởi những tinh thần hẹp hòi của các thứ giáo hội. Sống bên chị, nhà thương điên bỗng trở thành miếng sân đời, và, chị Nga, tôi có cảm tưởng chị là cây thông sừng sững, cao vút, cô liêu.


Phải mất một tuần lễ, những vết cào cấu trên gương mặt tôi mới tróc vẩy. Những vết cào cấu không thể thành sẹo. Tôi thèm có một vết sẹo. Để, thỉnh thoảng, rờ rẫm mà nhớ một hình phạt hèn mọn của thù hận. Sinh hoạt nhà thương điên, dần dần, thích hợp với tôi. Chị Nga đã trang bị đầy đủ «vũ khí chống điên» cho tôi. Những người điên không còn là nỗi ám ảnh của tôi nữa. Ta sẽ mường tượng hàng ngàn điều quái đản ở một nơi chốn ghê gớm khi ta chưa bước tới. Đã bước tới, huyền thoại của nó sẽ tan biến. Nếu ta một lần đau khổ dám can đảm chấp nhận, ta sẽ nghìn lần đau khổ khinh thường và không thể dễ dàng bị khuất phục, bị gục ngã. Người ta nói thẳng với chúng tôi rằng người ta chỉ muốn chúng tôi sợ hãi. Nhiệt tình và lòng tự phụ của chúng tôi không cho phép chúng tôi sợ hãi. Sợ hãi là đầu hàng. Cuộc chiến đấu vừa lãng mạn vừa cô đơn của chúng tôi đã làm cho kẻ thù choáng váng. Và chúng tôi rất tự hào. Để có niềm tự hào, chúng tôi phải đánh đổi bằng nghẹn ngào, cay đắng, chết chóc và ngay cả xuân mộng đời mình. Tự nhiên, tôi mơ ước làm nhà văn để viết về chị Nhi, chị Nga, về những người bằng tuổi tôi đang âm thầm chiến đấu, đang bắt đầu cuộc chiến đấu với các thứ chủ nghĩa đã làm mòn mỏi, lây lất dân tộc tôi. Tôi mơ ước được vinh tôn họ, những người không biết ồn ào, không một tham vọng quyền bính, không ngớ ngẩn và lố bịch quần áo đen, khăn rằn học đòi đóng vai lãnh tụ và sẵn sàng tình nguyện vắng mặt ở cuộc vui lớn thành công. Nghĩ thật tội nghiệp lịch sử nước tôi, trải qua một kinh quá đau đớn nhục nhằn, vẫn còn sót lại nhiều bọt bèo, rác rến.


Sang tuần lễ thứ hai, tôi quen thân gần hết bạn điên trong phòng. Chị Nga bảo những người bị nhốt trong phòng là những người điên nặng, những người điên thích phá phách, cắn xé và la hét. Một điều khiến tôi lạ lùng là người điên nặng vẫn còn biết sợ hãi. Họ nem nép khi Giám thị xuất hiện và biết tìm chỗ lẫn trốn khi Giám thị cầm roi mây vào phòng. Mỗi ngày, nhiều trò điên diễn ra theo đúng thời khoá biểu của người điên. Nếu không được tôi luyện ở các cachots, tôi cũng sẽ điên vì những trò chơi này. Nhờ thèm khác tiếng nói, giọng cười của mọi người từ lâu, tôi cảm giác thú vị và ấm áp sống với cộng đồng nhỏ, dẫu chỉ là cộng đồng điên khùng, rồ dại. Sau mỗi lưu lạc thần trí đáng sợ, những đôi mắt ngầu đỏ trở lại hiền dịu và giọng nói đằm thắm vô cùng, người điên trầm tư và ngôn ngữ của họ chả điên tí nào. Họ khôn hơn các người tỉnh khi họ tâm sự với tôi. Nhưng khi họ nổi cơn, cấu xé lẫn nhau, đập đầu vào tường, bám chấn song cửa gào thét, cởi quần áo tênh hênh, cười, khóc, chưởi bới đủ điều, đủ hạng người thì họ giống hệt quỷ sứ dưới địa ngục. Lúc ấy, để bảo vệ mình, chị Nga dạy tôi, phải sững sờ, dữ dằn để chứng tỏ mình ghê gớm hơn họ. Vì người điên biết sợ hãi. Chinh phục người điên, mình sẽ không sợ người điên và sợ bị điên. Chị Nga bắt tôi làm một giác đấu sĩ trong đấu trường điên. Tôi đã lăn xả vào người điên thật, túm tóc họ, lột xé quần áo họ, ngoạm cắn họ. Và, quả nhiên, tôi biến thành người điên bất khả xâm phạm, đầy quyền uy. Tôi có thể ra lệnh cho họ cả lúc họ điên lẫn lúc họ tỉnh. Rồi tôi nghẹn ngào, cay đắng.


Cuộc đời đẩy tôi vào nhà thương điên. Hình phạt hay ân huệ? Nhà thương điên, động từ bất qui tắc của văn phạm đời sống của tôi. Tôi thao thức với những động từ bất qui tắc này. Đêm đêm, chợt thức giấc, tôi thấy những người điên hoặc dựa lưng vô tường đan lát tưởng tượng, đọc sách tưởng tượng, ôm con nũng nịu tưởng tượng... hoặc tay chắp sau đít đi đi lại lại trong phòng hẹp, nói năng lảm nhảm, nguyền rủa vu vơ. Họ ngủ rất ít, ăn rất ít. Ngày nào đó, họ sẽ chết. Người ta đâu thích cứu họ. Nhà thương, nơi họ đến, họ không được thương xót, chữa bệnh mà chỉ có hất hủi, đọa đầy và đánh đập. Nhà thương điên, đúng theo nghĩa thời đại, là trại tập trung cải tạo người điên. Điên, có lẽ, là bệnh của tư sản, thứ bệnh đáng căm thù như giai cấp tư sản. Từ mấy năm nay, tỷ lệ người điên ở Sài Gòn gia tăng một cách ngoạn mục. Người ta điên vì mất tất cả. Người ta cũng điên vì muốn đi tìm lại tất cả. Điên giả vờ nhiều hơn điên thật. Điên giả vờ để được cấp chứng chỉ điên để nộp hồ sơ xuất ngoại chữa bệnh – cách vượt biên ít mạo hiểm – và để tha hồ công kích chế độ mà không bị nằm tù. Người ta bảo, sống với cộng sản, thần kinh luôn luôn căng thẳng, riết rồi mất trí hết. Cõi đời thênh thang đã là trại điên vĩ đại thì Chợ Quán chỉ còn là túp lều trong cái trại ấy.


Tôi thường bám chấn song cửa sắt nhìn ra sân nhà thương, khu vực người điên không bị quản chế, những người điên tỉnh. Họ không thích ồn ào nên không gây ồn ào. Chị Nga nói với tôi rằng, có người nổi điên từ một buổi tối công an ập đến nhà, siết còng chặt tay chồng mình, đọc Quyết định bắt và dẫn đi. Có người nổi điên từ chiến dịch đánh tư sản đợt hai năm 1978. Của cải bị tịch thu, bị đuổi đi vùng kinh tế mới đèo heo hút gió với hai bàn tay trắng. Thế là điên. Nhưng thê thảm nhất là trường hợp điên của một người đàn ông. Anh ta cùng với vợ và đứa con nhỏ trốn khỏi Việt Nam bằng thuyền. Thuyền của anh ta gặp cướp biển Thái Lan. Bọn cướp sau khi vơ vét vàng bạc thì hãm hiếp đàn bà con gái. Vợ anh ta bị cướp hiếp bảy lần. Anh ta điên từ lúc nghe thấy tiếng vợ mình kêu cứu, rên xiết. Người chồng bất lực. Thế giới bất lực. Quyền uy của loài người bất lực. Đạo lý và tinh thần sùng bái Phật giáo của cả hai nước Thái Lan nằm trong sự man rợ của bầy thú cướp biển. Người chồng ôm đứa con nhỏ nhảy xuống biển. Khốn nạn cho anh ta là anh ta được cứu vớt lên cái thuyền bị bầy thú gỡ nốt cả máy. Đứa con đã chết sặc và chìm nghỉm. Thuyền lênh đênh, trôi giạt về bờ bải quê hương. Anh ta bị bắt bỏ tù. Nhờ điên, anh được đưa vào Chợ Quán. Bây giờ, suốt ngày, anh ôm cái gối, dựa gốc cây, ngồi trên ghế chuyện trò với cái gối, ru cái gối ngủ, vỗ về cái gối, tưởng chừng cái gối là con mình. Thuyền nhân bất hạnh này vẫn còn hạnh phúc là được điên ở quê nhà. Nếu anh tới bến tự do, anh sẽ điên trên đảo vì số phận của anh, chắc chắn, không khơi dậy mảy may trắc ẩn của những kẻ nắm cái quyền ban phát ân huệ định cư cho anh. Họ sẽ lạnh lùng hỏi anh: «Có thân nhân ở nước thứ ba nào không? Trước đây có làm cu ly cho Mỹ không, có ôm súng Mỹ bắn cộng sản hay không?» Vân vân... Nếu không, anh phải nằm đảo, đợi người ta coi anh như rác và hốt anh đi định cư. Thời gian anh hóa thành rác, ít nhất, là 1095 ngày! Những người điên vì yêu chuộng tự do, chưa kịp xuống thuyền đã bị đồng bào của mình lừa gạt hết vàng bạc, đầy rẫy ở nhà thương điên. Khi họ nổi cơn, cả loài người bị nguyền rủa thậm tệ.


Chỉ cần nghĩ tới thân phận của họ, đã đủ điên rồi. Nhưng bọn phản bội, bọn réo rắc bệnh điên thì vẫn tỉnh táo. Chị Nga khuyên tôi đừng nên suy tư về người điên. Tôi chợt hiểu tại sao tóc chị Nga mau bạc!


Một đêm, cùng thức giấc, chị Nga buồn bã tâm sự với tôi:


- Có lẽ chị em mình sắp xa nhau.


- Chị linh cảm à?


- Ừ, chị linh cảm. Chị đã thấm mệt, thấm mệt thật sự. Chị lo ngại sức khỏe của chị không chịu đựng nổi hình phạt. Ý chị không cần ăn, ước mơ không cần ăn những thể xác rất cần. Nó cho mình ăn uống tồi tệ quá.


- Em phải nói với chị điều gì?


- Khỏi. Trong hai đứa mình, một đứa phải sống. Ta nợ nần nhiều, phải có đứa sống để trả nợ.


- Và để dạy cộng sản làm người.


- Dĩ nhiên.


- Để viết tiếp vài diễn văn dang dở.


- Chứ sao.


- Chị Nga ạ, thế thì đứa phải sống là chị. Vị chỉ có chị mới đủ tư cách viết và độc diễn văn.


- Tại sao không là em?


- Em chưa thể trang trải và độ lượng như chị. Nhưng, chị ạ, đừng nói chuyện bỏ cuộc, đừng nói chuyện chết chóc. Có lần, chị nhớ chứ, chính chị đã nói: «Ở đây không cho phép ai nói đến cái chết» khi ba chúng ta bị còng dính chùm trong cachot đề lao Gia Định.


- Mấy năm rồi, Lan?


Mấy năm rồi? Tôi muốn làm một tù nhân lạc tháng, rồi ngày để khỏi phải nhớ từng phút phấn đấu với sự sợ hãi và cái chết. Hãy tính hai đời tổng thống Mỹ. Tôi vào tù từ Gerald Ford, nằm cachot sang Jimmy Carter. Ngọn cờ Human rights của Jimmy Carter phất vào tháng trước thì tháng sau chúng tôi ăn cơm độn khoai, ngô, sắn và ăn bột mì đầy mọt nhân đạo của Tây phương luộc chưa chín. Sau đó, chúng tôi ăn bobo, thứ thực phẩm của ngựa. Tám mươi phần trăm tù nhân Việt Nam bị hư răng và đau dạ dầy vì sắn và bobo. Ngọn cờ Human rights thiếu gió, nó rũ rượi, ủ ê. Và quyền làm người vẫn chỉ là thứ đồ trang sức của những kẻ thích đi trên con đường của vĩ nhân. Giờ này, Jimmy Carter đang lo vận động tái ứng cử. Giờ này, chị Nga vừa hỏi tôi ở tù được mấy năm rồi.


- Sắp hai nhiệm kỳ tổng thống Mỹ rồi, chị Nga ạ!


Chị Nga mỉm cười. Nụ cười trong phòng điên, dưới ánh đèn néon, thấy nó mỉa mai làm sao!


- Cả Hiến chương Nhân quyền lẫn khẩu hiệu Nhân quyền của ông Carter đều không đề cập tới những chiếc còng.


- Chị sẽ giúp ông Carter tranh cử bằng còng Mỹ ở Việt Nam.


- Nếu ra ngoài kịp.


- Nhân quyền càng hung hăng ở bên kia trái đất bao nhiêu thì còng Mỹ càng siết chặt tay chân những người chống cộng sản ở bên đây trái đất bấy nhiêu. Nếu họ im miệng họ lại, mình sẽ được đối xử khá hơn, hoặc mình yên thân hơn.


- Đôi khi, sự độc ác thường được diễn tả bằng lòng từ bi. Thời đại của chúng ta thì thường xuyên vĩ nhân thuyết pháp Độc Ác và bảo đó là Từ Bi. Những kẻ gian manh nhất loài người lại thích mình Phật hơn Phật, Chúa hơn Chúa. Thôi, ngủ thêm một tí, em nhỏ.


Chị Nga nhắm mắt. Tôi không quen ngủ dưới ánh sáng đèn néon. Ở cachot thêm chút ánh sáng, ở phòng điên tôi lại thấy nó thừa. Người điên đâu biết khoét tường trốn trại mà phải thắp đèn thâu đêm. Có lẽ, người ta muốn những người chưa điên, luôn luôn nhìn rõ người đã điên để chống điên. Và người ta bảo chủ nghĩa của người ta ưu việt, chế độ của người ta quý trọng con người! Tôi ngắm khuôn mặt chị Nga và tôi cảm giác một sợi khói nào cay nhất vướng trong mắt tôi. Đã một lần, chị Nhi nói đến cái chết. Rồi chị chết. Chết tay vẫn đeo còng Mỹ. Bây giờ, chị Nga cũng nói đến cái chết. Nước mắt tôi ứa ra. Tôi đã nhủ, sẽ có một hôm, đi tìm nấm mồ của chị Nhi, dựng bia mộ cho chị và máng lên đó cái còng Mỹ. Nếu chị Nga chết, tôi sẽ làm gì trước nấm mồ của chị? Bài diễn văn đọc trước Quốc Hội Mỹ hay sẽ chỉ một chiếc còng Mỹ, chiếc còng rực sáng nhờ đã còng tay nhiều người Việt Nam yêu tự do, dân chủ, người Việt Nam làm sáng danh các vĩ nhân Lincoln, Kennedy...


Tôi không dám nghĩ gì thêm. Ngủ ngoan, chị Nga, em không cho phép chị nói đến cái chết.


***


Chương 9


Sử gia của Đảng hỏi tôi:


- Cô cảm thấy sợ hãi chưa?


Tôi nhìn thẳng vào đôi mắt của sử gia. Dẫu mang kính cận, sử gia vẫn không dấu nổi những tia bàng hoàng. Bạn đã bao giờ thấy mắt diều hâu chưa? Dữ tợn lắm nhưng chưa bằng đôi mắt gà mái bảo vệ đàn con chống lại diều hâu.


- Cô... Cô điên rồi à?


Sử gia ngồi thủ thế. Tôi cười nửa miệng:


- Ông hỏi hai câu đều ngớ ngẩn.


- Ngớ ngẩn?


- Phải, ngớ ngẩn tuyệt đối. Có thể, ông giả vờ ngớ ngẩn như người giả vờ điên. Ông dặn tôi, khi nào cảm thấy sợ hãi mới báo cáo, tôi chưa cảm thấy, ông đã gọi tôi đi làm việc. Rồi ông lại hỏi tôi điên rồi à! Người điên không biết mình điên như kẻ độc ác không biết nó độc ác.


- Cô ám chỉ ai?


- Tôi nói thẳng vì tôi thẳng thắn.


- Cô liều mạng vô ích, cô Lan ạ!


- Ông lầm. Tôi biết lúc nào cần phải chết. Thế thôi.


- Vậy cô muốn gì?


- Tôi đã đọc «Ngục trung nhật ký» của ông Hồ Chí Minh và những bài thơ tù của ông Tố Hữu. Tôi rút ra hai điều nhận xét. Một, thực dân và phát xít nhốt các ông ấy lỏng lẻo quá. Ở tù kiểu đó, ai cũng ở được và ở suốt đời. Hai, cả hai ông đều thích rên xiết trong tù. Nhà tù của các ông gớm ghiếc gấp ngàn lần nhà tù thực dân, phát xích. Tôi không rên xiết, chúng tôi không thèm rên xiết. Chúng tôi sống phơi phới và có quyền nói chúng tôi can đảm hơn ông Hồ Chí Minh.


- Tôi hỏi cô muốn gì?


- Muốn dạy cộng sản làm người? Thực lòng, chúng tôi muốn dạy cộng sản làm người, dù cộng sản dạy chúng tôi điên, nhỏ từng giọt át xít lên đời chúng tôi.


- Tôi không hiểu cô.


- Tôi hiểu ông, hiểu các ông. Các ông độc ác và vô liêm sỉ. Đó là bản chất cộng sản. Muốn hành hạ thể xác tôi, nói toạc móng heo, muốn tra tấn tôi, các ông cứ việc tra tấn một cách thẳng thắn, mặt đối mặt cho nó quân tử. Hà tất phải bầy kịch công an sắm vai người điên tra tấn tôi. Người điên các ông cũng chưa tha, còn chà đạp lên phẩm cách của họ. Các ông, quả thật, chưa làm người nổi, cần được dạy dỗ nhiều.


- Cô điên rồi. Cô nói y hệt người điên.


- Các ông hèn mọn. Các ông là bọn ném đá dấu tay, bọn chuyên môn gây tội ác rồi vấy tội lên đầu kẻ khác.


Sử gia lắc đầu. Ông ta đốt điếu thuốc, hít một hơi đẫy đà, nhả khói rồi gật gù:


 - Nếu cô tỉnh táo, cô sẽ khôn ngoan hơn.


Tôi phá ra cười:


- Tôi chưa điên đâu, sử gia ạ! Người điên dễ chịu hơn cộng sản và nhà thương điên thoải mái hơn chế độ xã hội chủ nghĩa. Tội nghiệp ông quá, ông vì cái sự nghiệp gì mà hành hạ chúng tôi? Ông sẽ được cái gì? Đừng hòng xác ông được bỏ vào hòm kính hay chôn trong Lăng Bác của ông. Đừng hòng, đừng hòng... Người cộng sản đáng tội nghiệp lắm, họ chẳng có chút ước mơ nào. Ông đang ước mơ gì? Ông mong tôi chết sớm hả? Ông mong tôi nếm đủ hình phạt của chủ nghĩa của ông hả? Rồi ông có leo lên xác tôi để sánh vai với Trường Chinh, Lê Duẩn không?


- Cô Lan, tôi sắp nói với cô những lời tâm cảm. Nói cho đúng, tôi sắp nói với cô những lời tâm cảm của Đảng. Tôi muốn cô nghe bằng thái độ thành khẩn.


- Tôi rất thích thành khẩn.


- Hẳn cô phải hiểu Đảng rất ưu ái tuổi trẻ.


- Để làm vật thí nghiệm.


- Hơn cả thế, để trao lịch sử vào tay các cô, các cậu. Những người bạn trong tổ chức của cô đã được thả về hết. Rồi cô sẽ gặp họ bằng xương bằng thịt. Sẽ gặp. Cô cũng sẽ gặp thân nhân của cô. Dù có thù ghét cộng sản, tôi vẫn nói với cô điều này: Cộng sản thèm muốn những người ngoan cường như cô. Tại sao cô không là cộng sản nhỉ? Chúng tôi sẵn sàng kết nạp cô. Lịch sử Đảng không thiếu những đảng viên lãnh đạo đã từng chống Đảng dữ dằn như cô. Nghĩ lại đi, cô Lan, giữa cô và Đảng, giữa gia đình cô và Đảng chưa hề có chút nợ nần gì. Tại sao cô chống Đảng mãi?


- Hình như tôi đã trả lời ông. Hình như người điên không nên nghe người cộng sản. Ông đứng nói nữa. Tất cả đều muộn bởi vì không bao giờ nó sớm.


- Cô điên rồi. Tự ái của cô đã làm cô điên. Chúng tôi sẽ chữa bệnh cho cô, sẽ đưa cô từ cái tĩnh ra cái động.


- Từ cái chết mòn ra cái chết lẹ! Ông đạo đức và nhân ái quá, ông sử gia ạ! Sẽ có ngày tôi dạy ông làm người.


Giám thị dẫn tôi về phòng. Chị Nga đã bị còng ở giữa cửa sắt. Chị đứng bên trong, thò tay qua chấn song. Hai cổ tay chị toòng teng chiếc còng số 8. Dĩ nhiên, còng chế tạo tại Mỹ! Giám thị mở khóa, kéo mạnh cửa ra phía ngoài. Chị Nga bị kéo theo, chị nghiến răng chịu đựng. Tôi bước vào. Cánh cửa đóng mạnh. Chị Nga lại văng vào tư thế cũ. Tôi thừa hiểu tại sao người ta phạt chị Nga. Chị không thể qua mặt được sử gia của Đảng như chị và tôi đã tưởng. Cộng sản họ thâm độc ở chỗ đó. Họ biết tất cả hành động của mình nhưng họ cứ lờ đi. Chỉ cái gì dấu trong đầu óc là họ mới không dám phá nổi. Chẳng hạn, họ chẳng thể nào hiểu được tâm hồn cao cả của chị Nga. Người đàn bà đã tàn tạ thời con gái trong các nhà tù, người đàn bà đang bị còng tay vào chấn song sắt của nhà thương điên, người đàn bà bao nhiêu ngày đêm phấn đấu với hình phạt của thù hận mà vẫn không thèm nghĩ đến chuyện hận thù, vẫn mơ ước dạy cộng sản làm người, vẫn âm thầm soạn những bài yêu thương giáo khoa thư cho thú vật để chúng sớm hóa kiếp thành người. Người đàn bà tuyệt diệu ấy, chị Nga kính mến của tôi, tôi đứng cạnh chị, trừng trừng nhin Giám thị đang loay hoay ổ khóa.


- Ông Giám thị! Tôi gọi.


- Gì? Giám thị đứng thẳng người, hất hàm.


- Tôi muốn làm việc lại.


- Với ai?


- Với người vừa làm việc.


Chị Nga lắc đầu:


- Vô ích, em nhỏ. Đừng dại dột xin cộng sản thương hại. Cũng đừng ngu si phản kháng. Tốt nhất là ngẩng mặt trong cô đơn.


Tôi chưa kịp nói thêm. Giám thị đã mất hút. Lát sau, sử gia tới. Ông ta hỏi tôi:


- Cô Lan muốn làm việc?


Tôi đưa tay lên vai chị Nga. Rồi tôi luồn cánh tay tôi qua cánh tay dính còng của chị.


- Không phải làm việc. Tôi muốn nhắc lại câu nói của tôi để ông khỏi nuôi ảo tưởng: Tất cả đều muộn bởi vì không bao giờ nó sớm. Không bao giờ.


- Nó vẫn sớm, lúc nào nó cũng sớm. Ngay bây giờ, chẳng hạn, cô muốn gì?


- Tôi muốn được còng chung với bạn tôi.


- Yêu cầu của cô, không được thỏa mãn đâu. Tuy nhiên, chúng tôi sẽ mở còng cho bạn cô.


- Tôi không xin điều đó.


- Cô Lan, tôi đáng tuổi cha anh của cô. Với cộng sản, các cô vẫn còn khờ dại lắm. Ngoan cường thừa nhưng thiếu gian ngoan.


Sử gia bỏ đi. Buổi chiều, người ta mở còng cho chị Nga thì buổi tối người ta gọi tôi lên văn phòng giám thị làm việc. Sử gia ngồi hút thuốc lá, tỏ vẻ đắc ý. Ông ta mở đầu câu chuyện có nước trà ướp sen thơm ngát và bánh ngọt:


- Cô đã làm say mê công cuộc nghiên cứu của tôi. Vì tôi say mê nên tôi muốn tâm sự với cô, nhân danh người lớn tuổi hơn cô. Cô dùng nước đi.


- Cám ơn ông, tôi đã quen uống nước tù.


- Vậy cô dùng bánh.


- Tôi cũng quen nuốt sắn rồi. Phải cám ơn các ông vì các ông đã dạy chúng tôi biết coi thường vật chất.


- Tôi tin cô nói thật.


- Tôi thiếu gian ngoan nên thích nói thật. Và tôi bằng lòng sự thiếu thốn ấy.


- Bởi vậy, chúng tôi mới mất công vì các cô, các cậu Sài Gòn.


- Các ông sẽ tốn công đấy.


- Cộng sản kiên trì tối đa. Các cô là đá, chúng tôi là nước chảy.


- Thí dụ chúng tôi là hư vô.


Sử gia cười. Ông ta không trả lời tôi mà nói:


- Quả thật, chúng tôi dễ dàng hy sinh thế hệ của các cô. Chúng tôi không cần các cô, các cậu đâu. Vài năm nữa, chúng tôi có thế hệ không biết chống đối, không dám chống đối chúng tôi, đã đành, mà còn trừ khử kẻ nào chống đối chúng tôi. Nhưng chúng tôi ngổn ngang vấn đề phải đối phó, chúng tôi không muốn phí thì giờ với các cô, các cậu. Tóm tắt, một là cô cộng tác với chúng tôi. Hai là cô ở tù suốt đời. Cô sẽ không được chết theo ý muốn của cô đâu.


Tôi nhớ lại chị Nga nói buổi trưa: «Đừng dại dột xin cộng sản thương hại. Cũng đừng ngu si phản kháng.» Và tôi chớp mắt ra chiều cảm động.


- Tôi sẽ suy nghĩ.


- Phải, cô nên suy nghĩ.


- Còn các bạn trong tổ chức của tôi? Tôi muốn gặp họ.


- Họ được tha hết rồi. Tất cả đều từ chối gặp cô. Họ có quyền công dân nên có đủ quyền tự do. Họ nói không thích dính dáng đến phản động và người còn đang bị tù. Rất tiếc.


Sử gia giải thích trôi trẩy quá. Mỗi sáng «sẽ gặp họ bằng xương bằng thịt» đã tới «họ không thích dính dáng đến phản động».


- Ông còn gì để nói với tôi nữa không?


- Cô sẽ từ cái tĩnh ra cái động rồi từ cái động về cái ấm êm. À, cô muốn gặp mẹ cô không?


- Không.


- Tại sao?


- Tôi muốn mẹ tôi để dành cho tôi những giọt nước mắt, mai này.


- Thế nghĩa là...


- Là mẹ tôi sẽ khóc trên nấm mồ của tôi, một mai, đất nước ta có cái hội đi tìm những nấm mồ không có mộ bia.


Tôi tự ý đứng dậy:


- Ông sử gia, xin ông cho tôi biết tên thật của ông?


Sử gia gỡ mắt kính, dụi mắt:


- Để làm gì, cô Lan?


- Dù chết cách nào thì tôi cũng sẽ chết sau ông. Và dù sống cách nào thì cũng sẽ đem một vòng hoa đặt trên nấm mồ buồn tẻ của ông.


- Cô lạ quá.


- Có chi lạ, tôi được vinh dự làm người, tôi phải cư xử như con người dầu cộng sản đã ngược đãi tôi ngang hàng con vật.


- Chắc chắn, tôi sẽ đặt vòng hoa lên mộ của cô.


- Ông chắc chắn?


- Phải.


- Vậy ông sẽ là người và tôi hãnh diện đã dạy ông làm người.


Sử gia bực bội. Ông ta xoắn tay, nét mặt danh lại:


- Tôi không thể kiên nhẫn hơn.


Tôi lại ngồi xuống ghế:


- Vậy là ông là đá, hết là nước chẩy rồi. Tôi rất phục ông. Những nhà nghiên cứu cộng sản nói rằng, chỉ cần có một chút lương tâm thôi, người cộng sản hết là cộng sản. Ông còn một chút lương tâm nào không? Ông cảm giác gì thấy con cháu ông bị đòn thù của các ông giáng nện? Ông nghĩ gì khi thấy xuân đời chúng tôi tàn tạ trong cachot, trong nhà điên? Ông có lợm giọng bởi những hình phạt tồi tệ dành cho chúng tôi, cho những kẻ mà ông đã sôi kính hiển vi không tìm ra dấu vết thù hận về ý thức? Sau hết ông cảm tưởng gì khi đã vuốt ve tôi bằng những lời nói dối?


Sử gia nín thinh. Căn phòng hoàn toàn yên lặng. Một lúc khá lâu, ông ta nói, giọng vương vướng chút gì đó xúc động làm cảnh:


- Cô sẽ được đi lao động cải tạo. Tôi tin rằng mọi ẩn ức của cô sẽ sớm được giải tỏa. Lao động sẽ giúp cô tìm lại sự sống. Tôi sẽ vẫn thường xuyên theo rỗi cô.


Tôi hỏi:


- Đó là tĩnh ra động?


Sử gia gật đầu. Bóng tối ra ánh sáng. Cô sẽ gặp những thử thách mới. Và tôi hoàn toàn vô trách nhiệm khi cô bước ra ánh sáng.


Tôi cười:


- Trách nhiệm của ông trong bóng tối?


Sử gia đứng dậy:


- Bây giờ cô về nghĩ ngơi. Người ta sẽ lo thủ tục cho cô thật sớm. Ở trại cải tạo, cô sẽ có rất nhiều cơ hội gặp thân nhân. Cô cần nhớ điểm đặc biệt này: Chợ Quán chưa phải là nhà thương điên đúng nghĩa. Nhà thương Biên Hòa mới đúng nghĩa!


Đưa tôi ra khỏi cửa phòng, sử gia nói lời từ biệt:


- Nhiệt tình và lòng tự phụ của tuổi trẻ Sài Gòn xứng đáng để tôi cảm phục. Trong lịch sử chiến đấu của Đảng Cộng sản, chưa có thời đại nào chúng tôi gặp địch thủ ngoan cường như các cô, các cậu hôm nay. Chúng tôi vẫn hy vọng có ngày các cô phản tỉnh. Chúng tôi thèm nhiệt tình của các cô, thèm kiến thức của các cô cho tương lai và cho sự tồn tại vĩnh cửu của Đảng. Nhiệm vụ của tôi đến đây là chấm dứt. Ngày mai tôi về Hà Nội. Nhưng tôi vẫn theo rỗi diễn tiến tư tưởng của các cô. Chúc cô mạnh khỏe.


Tôi nhìn sử gia không chớp mắt và nói:


- Cám ơn ông. Dẫu ông là cộng sản. Tôi sẽ nhớ suốt đời tôi rằng có một người cộng sản đã không đập bàn, la hét, dọa nạt tôi. Ông ngọt ngào hơn những người cộng sản khác nhưng cũng chua sót hơn. Tuy nhiên, nếu ông chết trước, tôi không quên đặt trên nấm mồ ông một vòng hoa.


- Tên thật của tôi là Nguyễn Bình Nam.


- Tôi ghi nhớ.


Giám thị dẫn tôi về phòng. Chị Nga vẫn còn thức chờ đợi tôi. Tôi kể cho chị nghe buổi «mạn đàm» của sử gia và tôi. Chị Nga thản nhiên nói:


- Em sắp làm chuyện phiêu lưu dưới ánh mặt trời.


Từ cái tỉnh ra cái động, từ bóng tối ra ánh sáng, chuyến phiêu lưu sắp tới của tôi sẽ ra sao? Chẳng ai có thể đoán nổi thâm ý của cộng sản. Với họ, con đường an toàn nhất cũng đầy rẫy mìn, chông, cạm bẫy. Sự thành thật và lương tâm là hai danh từ không có định nghĩa trong tự điển cộng sản.


- Chị Nga, chị khuyên em điều gì trước khi em ra đi chứ.


- Với em, với tháng năm tù đày của em, không cần khuyên điều gì nữa.


- Một lời thừa thãi cũng đủ sưởi ấm lòng em.


- Trong bóng tối, ta chỉ nhìn thấy ta. Ngoài ánh sáng, ta sẽ nhìn thấy mọi người. Cái tiểu ngã sẽ nhập vào đại ngã. Bóng tối và ánh sáng đều rất cần thiết.


- Cám ơn chị.


Hai hôm sau, người ta đưa tôi về đề lao Gia Định. Dĩ nhiên, tôi bị nhốt trong cachot. Và, lạ lùng biết mấy, cachot oan nghiệt đó lại là cachot số 12 khu B, cachot tôi «tạm trú» một thời gian khá dài. Tôi nhớ ngày tôi bước vào quán trọ địa ngục này là ngày 14 tháng 3 năm 1976. Bốn năm rồi, bên ngoài, hẳn đã nhiều thay đổi, nhưng, bên trong, đề lao Gia Định vẫn y nguyên. Người tù đến. Người tù đi. Cai ngục thì ở lại. Những khuôn mặt cai ngục cứ dầy dặn thêm vì độc ác như những lớp sơn xám mỗi năm một lần sơn phết trên cửa sắt. Cai ngục không biết mệt mỏi, không biết buồn bã. Họ cứng đơ trong giòng đời xã hội chủ nghĩa, ánh mắt cú vọ và giọng cười đười ươi. Mụ cai ngục của tôi mập mạp hơn năm xưa, con heo ủn ỉn, dũng sĩ nhà lao của chủ nghĩa, lại xách xâu chìa khóa, lại nói những câu cũ rích. Nghĩ tội nghiệp mụ và nghề coi tù của mụ. Thượng đế sinh ra con người, cho nó làm người và ước mơ. Chủ nghĩa tước đoạt hết, chủ nghĩa hủy hoại toàn diện ân huệ Thượng đế ban cho nó. Nó biến thành chó, thành trâu, thành ngựa... Rồi nó rên rỉ, đòi hóa kiếp: Nếu là người, tôi sẽ chết cho quê hương. «Chết cho quê hương» là lý tưởng ngụy trang của yêu cầu «nếu là người». Bạn thấy chưa, cộng sản rất thèm làm người. Đừng tàn sát họ, hãy dạy họ làm người. Họ nên người, họ sẽ hết là cộng sản, sẽ liệng chủ nghĩa ngu đần của họ xuống hố phân thăm thẳm. Và, nhân loại sẽ vui mừng thấy cái chủ nghĩa thỏa hiệp với cộng sản, chủ nghĩa đấu thầu nỗi khổ, chủ nghĩa nhẩy đầm trên niềm bất hạnh, chủ nghĩa trục lợi từ sự gian ác của cộng sản chết đuối giữa đại dương. Từ đó, bước sang vận hội mới của loài người.


Tôi quan sát cái cachot «kỷ niệm». Nền xi măng đã đen thui và bức xi măng lỗ chỗ nhiều vết. Ba bức tường hoen ố, đầy vết máu quệt lên. Máu đập mũi, giết rệp đốt mình. Máu ghẻ lở, mụn nhọt. Cả máu cắn đầu ngón tay viết lời thề son sắt. Những vết gạch đánh dấu từng ngày nằm cachot, những tên người khắc sâu, những bức vẽ cảnh nằm còng, ngồi còng, đứng còng đầy khắp tường tù. Bao nhiêu người đã trọ ở quán địa ngục? Mùi hôi hám lợm giọng. Cachot khu B của đề lao Gia Định sắp sang ngang hàng với cachot FG Chí Hòa và đã vượt xa cachot Sở Công An thành phố. Qua ô cửa gió, tôi nhìn dẫy phòng tập thể buồn hiu. Những người từ năm xưa đã ra đi. Họ ở đâu bây giờ? Bao nhiêu người đã chết? Bao nhiêu người còn sống? Những người hiện đang lúc nhúc như bầy gà trong chuồng chẳng thiết nhòm ngó tới. Sự nồng nhiệt tiếp đón bạn tù mới đến của người năm xưa đã úa héo. Tù nhân không còn hấp dẫn tù nhân, không còn hấp dẫn ai nữa. Tất cả đã khô cằn, chai đá trong một xã hội mà chính cái xã hội ấy đã là nhà tù.


Tôi ngỡ sẽ phải trải qua nhiều đêm hiu quạnh ở cachot 12. Không ngờ, ngay buổi tối «tái ngộ đề lao», người ta dẫn tôi sang phòng tập thể C1. Ở đây, tập trung khoảng ba mươi tù nữ từ Chí Hòa, Đại Lợi và các trại giam của các quận trong thành phố gửi tới. Và, ngạc nhiên đến nghẹn ngào, tôi gặp chị Nga. Định mệnh nào êm ái thế? Nó cho phép chúng tới gần gũi nhau giữa biển khơi, trong bão táp. Tôi nghĩ tới chiếc còng và những đêm cachot dính chùm thân phận. Có lẽ, con người chỉ có thể gần gũi, cảm thông và gắn bó sau một kinh quá khốn khổ cùng nhau. Định mệnh tôi được sát kề định mệnh chị Nga bằng chiếc còng.


- Chị Nga, em rất sung sướng.


- Chị cũng vậy.


- Có chị, em không sợ hãi gì cả.


- Em sợ hãi gì?


- Từ bóng tối ra ánh sáng, người ta dễ bị chói mắt, choáng váng.


- Khỏi sợ. Ánh sáng trại tập trung vẫn chỉ là bóng tối, bóng tối nhầy nhụa. Ánh sáng ở trái tim em mới là thứ ánh sáng chị đã nói với em.


- Tại sao họ cho chị đi cải tạo?


- Vì họ chưa làm người.


- Họ có «mạn đàm» với chị không?


- Không. Họ tự hào «biến sỏi đá thành cơm». Ta tự hào biến sâu bọ thành người.


Chị Nga cười. Nụ cười của chị rất tươi và rất lạc quan dù đôi môi chị khô héo. Chúng tôi kiếm góc phòng ngồi tâm sự. Trong khi, các tù nữ ồn ào bàn tán về các trại cải tạo. Họ thuộc đủ thành phần: Phản động, tình nghi mãi dâm, gái điếm, buôn lậu, dân chợ trời, vượt biên... Một điểm nổi bật trong xã hội chủ nghĩa là không ai sợ tù đày, không ai có mặc cảm tù đày. Họ quan niệm thật giản dị: Tù trong thì khỏi tù ngoài. Quan niệm giản dị đó là vết nhơ trải dài lên cái ưu việt của chế độ. Thế mà người ta cứ vỗ ngực khoe khoang rằng cộng sản là tinh hoa của nhân loại. Khi súc vật phô trương, sỏi đá cũng phải ngậm ngùi.


- Họ sẽ đưa mình đi đâu, chị Nga?


- Đi đâu thì đi, ngày mai ta sẽ rõ.


- Chị thích ra Bắc không?


- Nếu được sang Sibérie càng thú vị.


- Em thì em muốn biết «Khách sạn Hilton» của lính Mỹ.


- Ồ, cái mụn ghẻ của tù ngục ấy, nghĩa lý gì. Chị nghĩ, cachot FG Chí Hòa, nơi em đã đến, mới là ung thư.


- Chị Nga à, chị thật phi thường.


- Phi thường?


- Vâng. Bị nhốt chung bao nhiêu ngày với người điên mà chị không điên. Em sẽ bị điên nếu không gặp chị.


- Tử vi của chị thiếu sao điên!


Chị Nga cười lớn. Từ khi gặp chị ở cachot ba người, tới nay, tôi mới thấy chị cười thoải mái và bông đùa. Tôi bỗng nhớ chị Nhi ra riết. Giá mà chị Nhi còn sống, chị đã lập xong cái thuyết tiểu tư sản của chị rồi. Tôi tin rằng học thuyết của chị sẽ rất nhân bản. Ai đó, hình như văn hào Georghiu trong Giờ thứ hai mươi lăm, đã tuyệt vọng vì những nền văn minh hiện đại, vì những chủ nghĩa phi nhân đày đọa con người, nô lệ hóa con người. Georghiu khẳng định rằng chỉ có thứ ánh sáng từ phương Đông lóe lên và dàn trải khắp trái đất mới cứu nổi loài người trong cơn hồng thủy chủ nghĩa hôm nay. Ánh sáng từ phương Đông, Giorghiu chưa nghĩ, và chưa biết nó sẽ xuất xứ từ đâu. Tôi, tôi đoán quyết, nếu chị Nhi không chết sớm, nó sẽ lóe lên từ cái cachot ẩm mốc, hôi hám có ba người con gái bị còng dính chùm bên xô cứt. Ánh sáng ấy tỏa lên cao ngút như pháo bông rạng ngời tư tưởng cao cả của những con người biết ngậm trái căm thù để định nghĩa yêu thương. Nghĩ cho cùng, trên thế giới, có một dân tộc nào triền miên nô lệ, chiến tranh, ngục tù, bất hạnh như dân tộc tôi. Vậy thì thứ ánh sáng cứu rỗi nhân loại có xuất phát từ vùng trời nghìn năm hiu quạnh, vùng trời quê hương yêu dấu của tôi, cũng chẳng có gì lạ lùng. Đó là nguyên lý và cũng là chân lý.


***


Chương 10


Năm giờ sáng, sau một đêm ồn ào không ngủ, người ta mở cửa phòng và gọi tên từng tù nhân. Mỗi tù nhân được gọi tên, xách bị hành lý ra khỏi phòng và đứng xếp hàng đợi ngoài hành lang. Các phòng tập thể và biệt giam khu C1 thức giấc đồng loạt. Tù nhân bám song cửa, nhìn qua ô gió tiễn tù nhân lên đường cải tạo bằng những cái vẫy tay lén lút. Chị Nga và tôi ra cuối cùng để xếp hàng chót. Hai người một chiếc còng Mỹ, người ta siết tay chúng tôi. Thủ tục điểm danh và còng chấm dứt, bầy tù nữ một tay đeo còng, một tay xách hành lý, theo lệnh của cai ngục, thất thểu bước ra sân trước cửa đề lao Gia Định. Ở đây, hành lý liệng lên trước, mỗi cặp tù dùng tay bám, dùng bụng trườn leo lên xe sau trong tiếng quát tháo «khẩn trương, khẩn trương», của cai ngục. Người lên trước giúp người lên sau.


Tấm vải bố trùm kín mít. Xe nổ máy một lúc rồi chuyển bánh. Tôi không nhìn thấy gì từ cái xe bít bùng này. Khoảng bẩy giờ, xe ngừng lại, tắt máy. Người ta nâng miếng vải bố phía sau và hạ cửa. Tù nhân liệng hành lý và, từng cặp nhảy xuống như ếch! Chúng tôi được mở còng. Cai ngục đề lao Gia Định giao tù cho cai ngục trại cải tạo. Chúng tôi xếp hàng đợi, ngồi giữa sân trại. Cai ngục đếm đi đếm lại. Mấy ả công an sắc phục quanh quẩn chờ lệnh của giám thị. Một cái bàn nhỏ được khiêng tới, kê trước chỗ chúng tôi ngồi. Giám thị trịnh trọng tuyên bố:


- Đây là Trại Cải Tạo Long Thành. Các chị đến đây để lao động và cải tạo tư tưởng. Chúng tôi sẽ giáo dục các chị, sẽ giúp các chị sớm tiến bộ để trở về xum hợp với gia đình. Chính sách của Đảng và Nhà nước ta vô cùng nhân đạo. Các chị sẽ học tập Nội quy. Nếp sống văn hóa mới, sẽ được lao động. Tôi yêu cầu các chị tôn trọng mọi kỷ luật của trại. Cán bộ trại sẽ săn sóc tinh thần và vật chất cho các chị. Các chị nên yên tâm tư tưởng...


Giám thị nói thật dài, thật dài mà cứ ngỡ chưa đủ. Ông ta «một lần nửa» hơi nhiều. Cuối cùng, ông ta buông tha chúng tôi, cùng cai ngục đề lao đi vào văn phòng trại, giao nhiệm vụ ghi tên nhập trại cho đám nữ công an. Chủ cũ đã hoàn tất thủ tục «bán nô lệ» cho chủ mới. Chẳng sai tí nào, chúng tôi bị biến thành nô lệ xiềng xích bầy bán giữa chợ. Để sẽ lao động như trâu như ngựa. Trước hết, tên tuổi, nghề nghiệp, địa chỉ, ngày bị bắt, tội trang của chúng tôi được ghi vào cuốn sổ dầy cộm. Rồi những cái bị hành lý được lục tung khám xét. Rồi thân thể chúng tôi bị lần mò, vuốt nắn. Sau hết, người ta dẫn chúng tôi vào một căn nhà và đóng cửa, khóa kín. Tôi vừa thấy ánh sáng của sử gia, vừa biết cái động khi ra cái tĩnh. Chị Nga nằm lăn ra ngủ. Những người khác cũng đã ngủ. Tôi ngồi nhìn ra sân trại, mường tượng những tình tiết của cuộc phiêu lưu mới. Trại Long Thành, tôi đã nghe về nó hồi tôi chưa bị bắt. Nơi này, các viên chức thư lại cao cấp của chế độ cũ, các ông dân biểu, nghị sĩ, nghị viên chạy trốn không kịp đã bị giam giữ. Những người bị xếp vào loại «ác ôn» lần lượt bị đẩy ra các trại tù Sơn La, Lào Kai, Vĩnh Phú, Nam Hà ngoài Bắc. Một số nhỏ, chừng hơn trăm người, thoát lưới lưu đầy. Dân biểu có, nghị viên có, dự thẩm có, phó quận, phó tỉnh có. Khi tôi tới, đám thư lại ngái ngủ đã bị phát vãng vào Sa Ác, thuộc huyện Xuyên Mộc. Nhưng các tù nữ thư lại, các cấp chỉ huy nữ quân nhân, cảnh sát Thiên Nga vẫn còn học tập cải tạo tại Long Thành.


Trại Long Thành có một huyền thoại trước năm 1975, khi nó là Làng Cô Nhi dưới «triều đại» Tư Sự. Theo người ta kể, năm 1954, Tư Sự về Cà Mau, xuống tầu thủy ra Bắc tập kết. Người Mỹ biết. Ngày Tư Sự xâm nhập miền Nam, người Mỹ cũng biết. Bằng sự vận động, tài trợ và bảo trợ của người Mỹ, Làng Cô Nhi Long Thành được tạo dựng khang trang, đầy đủ tiện nghi nước, điện. Tư Sự và mấy chục đệ tử võ nghệ cùng mình của y đã đi quyến rũ, thu hút cô nhi, nạn nhân khốn khổ của chiến tranh không cần chiến thắng của Mỹ, đem về nuôi nấng, dạy dỗ. Cô nhi Long Thành bị cạo trọc đầu, được huấn luyện theo đúng phương pháp «trồng người» của Hà Nội và sẽ là đạo quân xung kích tiền phong đánh chiếm Sài Gòn. Tư Sự ngạo nghễ trong cái giang sơn Long Thành của y. Bộ Xã Hội chế độ cũ không có tư cách giám sát, giám thị Làng Cô Nhi và An Ninh không có quyền động chạm tới Tư Sự. Nhưng bỗng một đêm, người Mỹ bảo An Ninh Sài Gòn bắt Tư Sự và đồng bọn. Và họ đem xe vào Làng Cô Nhi chở hết cô nhi của Tư Sự ra phi trường Tân Sơn Nhất. Chẳng ai biết đám cô nhi này đi về đâu và sẽ bị sử dụng cho mục đích gì. Làng Cô Nhi, từ đó, sát nhập vào các Viện Mồ Côi thuộc Bộ Xã Hội. Nó ở hơi xa Sài Gòn nên nó kém hấp dẫn các nhà từ thiện. Nó trở thành cái làng hiu quạnh gần hoang phế. Và đến tháng 6 năm 1975, nó bị cải danh: Trại Cải Tạo Long Thành.


Mười một giờ, bầy tù nữ kéo nhau về làm ồn ào sân trại. Dưới nắng trời tháng ba hừng hực, đạo quân quần ngắn phơ bầy trọn vẹn cái ý nghĩa nhân đạo và khoan hồng của Đảng và Nhà nước cộng sản. Nếu hình ảnh này, chỉ cần thế thôi, được thu vào ống kính quay phim, được đem chiếu cùng khắp thế giới không cần thuyết minh, không cần phụ đề, người coi, chắc chắn, sẽ tưởng họ đang thưởng thức cuốn phim tài liệu dưới âm phủ. Những khuôn mặt cháy nắng đen đúa, hốc hác. Những cặp đùi than tro khẳng khiu. Những thân hình gầy đét chẳng còn thấy ngực. Từng người, tóc sũng ướt, tay xách lon guigoz, thất thểu bước chân không trên cát bỏng. Đàn bà, con gái đấy ư? Con người đấy ư? Hội Bảo Vệ Súc Vật các nước trên thế giới và Các Nhà Nuôi Chó, Sưu Tầm Chó sẽ bảo đó là những nhân vật hư cấu của tiểu thuyết giả tưởng. Còn Hội Bảo Vệ Nhân Quyền thì miễn đề cập, bởi vì họ đã mù. Riêng các Hội Thân Hữu với Cộng Sản chắc đã được giải thích rằng đó là bốn tù hình sự nham nhở, sản phẩm của văn hóa đồi trụy Hoa Kỳ, đang phục hồi phẩm cách.


Tôi vừa nhận ra bà Vệ, Hội thẩm Tòa thượng thẩm Sài Gòn; bà Trịnh thị Dung; bà Phù Tuyết Hồng, Thẩm phán; bà Đại tá Hương, chỉ huy lực lượng nữ quân nhân; bà Đại tá Vẽ, chỉ huy trưởng Trường Nữ Quân Nhân; bà Trung tá Thủy, con chim Thiên Nga đầu đàn; bà Long, giám đốc Nha xã hội, bà dân biểu Nguyễn Thị Lý, bà Bí thư của vợ ông Tổng Thống, vân vân... Những con người danh vang hôm qua và những con người phản động hôm nay cùng với những con người vượt biên, buôn lậu, mãi dâm, trộm cắp, bụi đời, xì ke, ma túy... đứng chung hàng ngũ tù đầy, án phạt tập trung cải tạo. Cuộc đổi đời ngoạn mục đã tạo ra nghịch cảnh thẩm phán và gái điếm cùng chung một còng! Bầy tù nữ lần lượt diễn binh trước mặt tôi, qua khung cửa sổ. Hàng ngàn, hàng ngàn. Đàn bò lao động nửa ngày bị vắt sữa lại về gặm cỏ cháy. Cụ thể, buổi sáng, buổi chiều, tháng tháng, năm năm. Sữa lao động bị vắt đều đều dưới nắng lửa, trong mưa lạnh. Tôi nghĩ mình có thể giúp chị Nga một đoạn dài cho «Bài diễn văn đọc trước Quốc Hội Mỹ», nếu tôi đi hết con đường hệ lụy.


Bây giờ, người ta mở cửa phòng phát chiếu, chén, muỗng và hướng dẫn tù mới nhập trái đi lấy cơm nước. Tôi hơi ngỡ ngàng. Bữa ăn của bò sữa tồi tệ hơn bữa ăn của người điên. Một chén sắn lát và một chén cơm. Thức ăn là củ cải nấu muối! Bạn biết sắn lát chưa? Sắn tươi thái ra từng lát, phơi khô, đóng vào bao bố, nộp thuế cho Nhà nước. Nhà nước liệng trong kho, cung cấp thực phẩm cho tù và Nhà nước bảo nhân dân đã nuôi dưỡng những người học tập cải tạo! Thực phẩm của con người quần quật lao động đốn mạt gấp ngàn lần cỏ nuôi bò sữa. Niềm bí ẩn nằm trong đó nếu, ở bên kia trái đất, người ta có ngạc nhiên thấy những tù nhân đàn bà, con gái còn sống, vẫn tha thiết với đời sống, vẫn ước mơ, không rên xiết, không cầu cứu, không thù hận và luôn luôn chứng tỏ muốn hiến dâng đời sống cái ý nghĩa cao cả của sự chịu đựng hình phạt rã rượi, tê buốt, đòi đoạn khi phải qua cầu.


Ngay buổi chiều, người ta biên chế chúng tôi vào các đội khác nhau của trại đàn bà. Tôi ở đội Rau Xanh, chị Nga ở đội Rau xanh khác. Cửa phòng tạm nhốt mở tung, tôi bắt đầu là trại viên cải tạo và được phép đi lại quanh trại, từ nhà này sang nhà kia. Tôi sung sướng gặp lại một vài người tôi đã quen biết khoảnh khắc ở phòng 1C1 đề lao Gia Định năm xưa. Một cô gái chạy tới ôm chặt lấy tôi:


- Trời ơi chị, em nhận mãi mới ra chị. Chị gầy ốm quá, già nua quá. Chị còn nhớ em không?


Tôi nhìn cô gái chằm chằm:


- Xin lỗi nhe, mắt tôi yếu kém lắm rồi.


Cô gái nắm chặt tay tôi:


- Em hỏi chị trước tiên, buổi trưa, hôm chị vô 1C1. Em vẫn nhớ chị, không hiểu tại sao em nhớ chị hoài.


Tôi chớp mắt:


- Nhớ rồi. Em... em... tàn tạ... Xin lỗi. Tôi không bao giờ quên em, quên tình nghĩa 1C1.


Cô gái kéo tôi về chỗ nằm của cô. Rồi cô mời dăm bẩy người khác tới, giới thiệu tôi với họ. Tôi biết thêm những khuôn mặt «danh trần giang hồ» của «làng bụi» như nữ chúa Jacqueline, Hai Ba Dạng; như vũ nữ Lệ Thủy; như vũ nữ thoát y Hà Tố Mai và, thú vị nhất, người con gái bất cần tất cả là Đặng Vũ Thanh Thủy, hỗn danh Con Lan xì ke. Buổi tối, khi cửa nhà tù đã khóa, chúng tôi tự do chuyện trò.


- Em thường hay nhắc chị với các chị đây. Không ngờ có ngày gặp chị. Em tên Hoa. Còn chị tên gì?


- Lan, Ngô Kim Lan.


Hoa cho tôi biết đội trưởng của tôi là Jacqueline, nữ chúa phốp pháp như đô vật, trái lại, nữ chúa Hai Ba Dạng thì mảnh mai như gái đài các. Chúng tôi tán gẫu chung một tiếng đồng hồ. Cuối cùng, chỗ tôi nằm cạnh Hoa, còn Con Lan xì ke, Hoa và tôi.


- Chị Lan, ở căn nhà này, chúng nó rỗng tuếch. Con Lan xì ke nói.


- Cám ơn chị Thủy. Tôi nói.


- Gọi tôi là Con Lan xì ke. Tôi thích vậy.


- Vâng, tôi nhớ.


- Chị chả cần cho chúng nó biết những gì về chị.


- Còn chị?


- Tùy ý chị thôi. Tôi không tò mò. Thoáng nhìn chị, tôi hiểu chị không thể gần gũi bọn rỗng tuếch. Sự ngu dốt của chúng nó sẽ hại chị chứ không phải chúng nó.


Con Lan xì ke vấn điếu thuốc rê. Chị bật diêm, mồi thuốc. Mùi khói thước Gò Vấp khét lẹt. Cái vẻ phong trần hôm nay chưa thể tàn phá hết nhan sắc của chị. Đôi mắt chị vẫn đẹp, vẫn còn là đôi mắt ngục tù sẵn sàng nhốt bất cứ gã đàn ông si tình nào.


- Chỉ Con Lan xì ke!


- Con Lan xì ke thôi.


- Vâng. Chị có nhiều u ẩn lắm thì phải.


- Sao chị biết?


- Nỗi u ẩn nằm trong mắt chị.


Con Lan xì ke thở dài:


- Chị đã từng nghe về giòng họ Đặng Vũ chưa?


Chị tự trả lời:


- Giòng họ khoa bảng đấy, thứ khoa bản đần độn, ích kỷ. Tôi đã khước từ nó từ lâu. Bây giờ tôi là con bà phước. Có người đi tìm hiểu mặt tốt của đời sống, tôi đi tìm mặt xấu. Rồi tôi vào tù vì tôi xấu. Ở tù, tôi bỗng thấy tôi tốt. Và cái tốt mà người ta rêu rao chỉ là cái đốn mạt, hèn hạ. Nếu chị đến sớm vài tháng, chị đã gặp đủ mặt viên chức thư lại của chế độ cũ.


Con Lan xì ke buồn bã hỏi tôi:


- Ở thời đại của chúng ta, có gã thư lại nào dám làm cách mạng không, chị?


Tôi đáp:


- Bản chất của thư lại là cầu an, ù lỳ, làm cách mạng sao nổi.


Con Lan xì ke phá ra cười:


- Vậy mà vào tù, bọn thư lại cứ dọa sẽ giải phóng đất nước. Tôi chửi chúng nó. Chúng nó ghét tôi, vu tôi đủ tội. Tôi nghĩ, bây giờ, tôi có quyền xử những đứa đã xử tôi.


Tôi nói:


- Có lẽ, chị nên dành sức phấn đấu với nghịch cảnh hiện tại.


Con Lan xì ke vỗ vai tôi:


- Mấy năm nay chị ở đâu?


Tôi kể những nhà tù tôi đã qua, những cachots tôi đã ở và sau hết là nhà thương điên. Con Lan xì ke say mê nghe. Chị gật gù:


- Tôi khỏi lo ngại cho chị nữa. Với những nơi chị đã ở, đây chỉ là nơi chị dưỡng sức.


Con Lan xì ke chào tôi, về chỗ nằm của mình, hẹn tôi mai tán gẫu tiếp. Kẻng báo ngủ đã điểm. Căn nhà náo động vài phút rồi im phăng phắc. Và vì lao động mệt mỏi, tất cả ngủ rất dễ dàng. Riêng Hoa còn thức. Cô thầm thì kể cho tôi nghe «quần đảo Phước Long», nơi cô đã cải tạo ba năm. Hoa nói nhiều người đã chết vì kiệt sức, vì đói khổ, vì bệnh hoạn. Xác những người đàn bà, con gái bất hạnh ấy vùi dập trên một ngọn đồi không tên. Mưa rừng đã san bằng nấm mồ. Dấu tích của tội ác cũng chẳng còn. Trại của Hoa mang hàng chữ đầy nhân ái: Trại Phục Hồi Nhân Phẩm Phụ Nữ. Thực ra, trại đã đầy ải, ngược đãi phụ nữ và bóc lột sức lao động của họ. Ông chủ cộng sản đánh đập nô lệ đàn bà bằng roi dây điện hằn lên án tích tập trung cải tạo, thứ án không hề được tuyên án trước tòa. Hoa nói, mấy tháng trước, người ta chọn một số gái điếm và tình nghi điếm có nhan sắc rồi chuyển từ Phước Long về Long Thành. Hoa đã thoát địa ngục Phước Long, nhờ có chút nhan sắc!


- Chị à! Hoa sụt sùi. Em đau khổ lắm...


- Can đảm lên, em. Mọi việc sẽ tốt đẹp.


- Không tốt đẹp nữa đâu. Chúng nó đã vùi em xuống bùn nhơ. Em không phải là điếm, bây giờ chúng nó đã cải tạo em thành điếm.


Trong những tiếng nấc, Hoa kể... Bọn công an phường tán tỉnh cô, bị cô cự tuyệt. Chúng vu vạ cô tội làm điếm. Chúng bắt cô và gửi cô đi phục hồi nhân phẩm. Ở Phước Long, mỗi khi bọn cán bộ thích giải trí, chúng chọn những cô gái xinh đẹp mà chúng bảo là tình nghi mãi dâm, gọi lên phòng Y tế khám nghiệm. Chúng bắt «người cải tạo» cởi trần truồng để chúng sờ mó, nắn bóp và cười rũ rượi như lũ quỷ điên. Rồi chúng đề nghị sống sượng. Chúng ban phát ân huệ miễn lao động, hưởng phần cơm nhiều hơn để hành lạc những gái điếm nhà nghề. Nếu cô nào bị mang thai, chúng cho phép về đẻ. Đẻ xong lại lên trại trình diện. Nhiều người trốn luôn. Nhiều người trở lại.


- Em đã bị chúng nó hãm hiếp. Chúng nó toa rập với nhau, cấm em tiết lộ. Chúng dọa, hễ tiết lộ, chúng sẽ thủ tiêu. Em thù hận chúng.


Hoa khóc thành tiếng. Tôi chẳng hiểu phải an ủi Hoa thế nào. Để mặc Hoa khóc, tôi nằm vắt tay lên trán, nghe tiếng khóc mới lạ nhất thời đại. Tôi đã nghĩ không sai về sử gia của Đảng cộng sản. Ông ta ngọt ngào và cũng chua sót lắm. Hình như ông ta đang có mặt đâu đây. Hình như ông ta đang mỉm cười khi ngắm tôi đang nằm nghe tiếng khóc của cô gái ngây thơ, vô tội. Ánh sáng và cái động, thứ đòn vọt thâm hiểm của chủ nghĩa phi nhân đã dành cho tôi. Họ thí nghiệm tôi trong bóng tối và cái tĩnh. Họ thí nghiệm tôi ngoài ánh sáng và cái động. Tiếng khóc của Hoa, những giọt nước mắt của nàng đã đủ làm sỏi đá ngậm ngùi chưa? Hay phải nói về những vết chém, những giọt máu ô nhục hằn lên lương tri của loài người?


- Rồi em sẽ ra sao, chị Lan? Hoa nghẹn ngào hỏi.


- Em sẽ nên người. Tôi đáp.


- Còn vết nhơ bẩn?


- Vết nhơ ấy của chủ nghĩa cộng sản, của những kẻ hô hoán nhân quyền, của sự phản bội đê tiện, của tình hữu nghị chó má...


Tự nhiên, tôi phẫn nộ ghê gớm. Ngồi vụt dậy, tôi ôm lấy ngực. Vết chém không hẳn chị Hoa hay những người con gái ở khắp các trại cải tạo phụ nữ Việt Nam phải chịu đựng mà tôi, mà chúng ta đang phải chịu đựng. Cái tiêu ngã đã nhập vào cái đại ngã. Chị Nga rất đúng. Ngoài ánh sáng, tôi đã nhìn thấy mọi người.


- Em sẽ rửa vết nhơ bẩn ấy, chị ạ!


- Bằng cách nào?


- Bằng máu của em.


- Cách ấy không giải quyết được gì cả.


- Với em, chỉ có cách ấy thôi.


- Ngủ đi, em Hoa thân mến. Ngày mai em sẽ nghĩ khác.


- Em đã nghĩ thế từ hôm em bị chúng nó hãm hiếp.


- Ngày mai ta bàn tiếp.


Hoa nín thinh. Tôi không dám nhìn thẳng vào khuôn mặt cô gái nữa. Tôi không muốn hai cái ngọn đèn néon khốn nạn tỏa thứ ánh sáng nhầy nhụa trong nhà tù. Tôi đã thù bóng tối cachot. Tôi lại thù ánh sáng cải tạo. Rất tiếc, chị Nga ở nhà khác, nếu không, tôi đã hỏi chị xem chị còn giữ vững cung cách đối xử với cộng sản khi sông núi chuyển vần. Tôi nằm xuống, nhắm mắt. Nhưng tôi đã không ngủ. Sáng hôm sau, cả ba mươi người mới đến đều được lệnh nghỉ ở nhà. Chúng tôi phải làm sơ yếu lý lịch, tóm tắc quá trình đời mình từ năm mười tuổi đến ngày bị bắt. Người ta dạy chúng tôi học Nếp sống văn hóa mới, Tiêu chuẩn cải tạo và Nội quy. Và, sau hết, người ta chỉ dẫn cách viết thư, cách nhận quà của thân nhân. Hai người được làm việc với Giám thị trại là chị Nga và tôi. Giám thị trại, Con Lan xì ke đã cho tôi rõ, tên là Ba Tơ, tên cai ngục chuyên nghiệp. Y được huấn luyện nghề nghiệp ở các nhà tù lừng danh miền Bắc: Lý Bá Sơ, Đầm Đùn... Ba Tơ đọc hồ sơ của tôi. Y cười nham nhở:


- Các trại tạm giữ đã nhận xét về chị khá chính xác. Ở đây, chúng tôi không chấp nhận sự ngoan cố. Bằng mọi cách, chúng tôi sẽ quản lý chị chặt chẽ. Ngày về của chị xa hay gần là do chị.


Y bắt đầu chầu chực suốt buổi chiều để đe dọa có một câu ngắn ngủi. Tôi không lộ vẻ gì chống đối y. Tôi còn nhớ lời chị Nga dạy. Tôi bắt đầu dùng sự im lặng của tôi để khinh bỉ cộng sản. Chị Nga cũng bị dọa phủ đầu giống tôi. Chúng tôi thả dài sân trại, quan sát hàng rào giây kẽm gai chung quanh «làng tù» và dẫy cachots hiu hắt góc trại.


- Có ngày nào mình nằm cachot nữa không? Tôi hỏi.


- Chưa biết. Chị Nga đáp. Tốt nhất là không nên vào đó làm gì. Bọn cộng sản tép riu ở các trại không có quyền bắt chúng ta, không có quyền tha chúng ta, nhưng có quyền hành hạ chúng ta chết thảm, chết nhục. Họ đâu phải đối tượng đấu tranh tư tưởng của ta. Cái lũ chăn trâu, cắt cỏ, ngọng nghịu này, ta đừng chọc tức nó. Ta cần sống, sống, sống. Bị chết vì phản kháng nó là chết bất trị, ngu xuẩn chứ không phải là anh hùng đâu. Em nhớ kỹ.


- Em nhớ.


- Họ đang theo rỗi mình, vậy ta không nên thường xuyên gặp nhau.


- Vâng.


- Đề phòng tất cả mọi người. Đừng để bọn chăn trâu cắt cỏ chửi mắng mình, phạt mình! Phải lao động vừa sức mình để bày tỏ thái độ của người trí thức.


Chúng tôi chia tay nhau ai về nhà người ấy. Tôi thu mình tôi một chỗ, không giao thiệp với những người phản động. Đội tôi có chị Hiền, chị Lý liên quan tới vụ Vinh Sơn. Chúng tôi chỉ nhìn nhau, mỉm cười thông cảm. Con Lan xì ke, nữ tù nhân thâm niên của trại Long Thành, truyền hết «kinh nghiệm cải tạo cho tôi». Chị không giống những cô gái bụi khác. Ở chị, có dáng dấp một người quý tộc phản kháng giai cấp của mình. Chị đọc rất nhiều, nhớ rất kỹ. Chị luôn luôn bày tỏ sự miệt thị bọn trí thức. «Tôi đã sống gần họ ba năm ở vùng lầy này. Họ phơi trọn vẹn bản chất khiếp nhược của họ. Triết lý sống của họ nằm trong cái bị quà thăm nuôi. Họ đã bị phá sản tinh thần và vật chất rồi, nhưng vẫn chưa chịu tỉnh ngộ, vẫn bo bo, ích kỷ, ăn thừa vất đi, không thèm cưu mang ai. Nếu chị đến sớm, chị sẽ gặp hai thằng bác sĩ toa rập với bọn cai ngục, lôi chúng ta lên bệnh xá, lột quần áo, khám trinh tiết vì tình nghi mãi dâm, khám bệnh hoa liễu để giải trí và thỏa mãn thú tính. Có thằng già rồi còn đòi phấn đấu vào Đảng Cộng sản!» Con Lan xì ke ra, vô cachot đều đều. «Bọn nó mới khiêng về cái connex. Có lần tôi sẽ vô xem nó ra sao.» Chị thản nhiên nói: «Tôi nếm đủ mùi hình phạt rồi. Nếu thua chỉ là thua nhà thương điên thôi.» Chỉ kể các thứ hình phạt của trại Long Thành, những hình phạt làm đau đớn thể xác.


Tôi bỗng yêu Con Lan xì ke, người con gái đoạn tuyệt cái tên Đặng Vũ Thị Thanh Thủy kiều diễm, người con gái nóng bỏng và thành khẩn.


- Chị Thủy, tôi xin lỗi nhe, chị có chơi xì ke nữa không?


- Không có xì ke ở đây.


- Tôi muốn nói ngày mai.


- Không. Tôi sẽ đi tìm bưng biền. Hoặc tôi sẽ «chiêu mộ» đàn em, lên rừng đóng phim O’ Cangaceiro. Chúng tôi chơi trò Lương Sơn Bạc tân thời, chuyên giải thoát các trại cải tạo. Tôi nói là làm. Chị cứ sống đi, tôi sẽ chứng tỏ. Đàn ông hèn thì đàn bà thay thế. Chị nghĩ sao?


- Lãnh tụ cách mạng, trước hết, là thảo khấu.


- Hay lắm. Chị là tri kỷ của tôi. Ở tù mòn mỏi bốn năm, nay mới gặp người xứng đáng giãi bày tâm sự.


Khẩu khí của Đặng Vũ thị Thanh Thủy đúng là khẩu khí Lương Sơn Bạc. Chị bắt tôi ăn cơm chung mâm với chị. Và chị đã «vận động» với đội trưởng Jacqueline đổi chỗ nằm để gần gũi tôi. Một người nóng bỏng như chị, tôi chưa thể nói với chị ý nghĩa cuộc chiến đấu của chúng tôi. Nhưng tôi nghĩ, đất nước chúng ta rất cần những người như chị, những người khước từ dĩ vãng, dứt khoát khước từ để còn lo cho ngày mai. Sử gia đã lầm lẫn khi quên mất sự ngoan cường của những Đặng Vũ thị Thanh Thủy. Tôi chợt thấy tôi không cô đơn.


- Chị Thủy!


- Sao?


- Tôi không muốn gọi chị là Con Lan xì ke.


- Sao?


- Vì đó cũng là một dĩ vãng chị cần khước từ.


- Cám ơn nhiều. Gọi tôi là Thanh nhé!


- Vâng.


Chúng tôi thân nhau. Thanh gây cảm hứng sống cho tôi, cho bài Diễn văn đọc trước Quốc Hội Mỹ. Cả nhà, cả trại chỉ hiểu Thanh là cô gái bụi xì ke, nửa điên nửa khùng. Riêng tôi, tôi nhìn rõ cả đại dương sóng gió trong lòng chị. Tôi đã mất chị Nhi, tôi vừa được chị Thanh. Phải, tại sao ta không làm O’ Cangaceiro? Tại sao ta không trả cái động của kẻ thù cho nó. Ta vẫn có thể ngồi trên lưng ngựa, múa gươm và nói chuyện yêu thương chứ. Tôi lại mơ ước thêm một chân trời...


***


Chương 11


Nắng trời làm xăn thịt và thay đổi mầu da của những người tù trong bóng tối rất mau. Bốn năm ở cachot, sống như gà công nghiệp thiếu dinh dưỡng, nước da của tôi xanh mướt và thịt muốn nhão, xương muốn mục. Những vết mụn ghẻ đầy khắp cánh tay, chân, đùi tưởng thành sẹo, cũng đã bay đi. Vì phải làm việc vất vả, không còn thì giờ suy nghĩ, tôi ngủ được, ăn được, dẫu chỉ ăn cơm độn khoai, sắn. Các bạn tù có thăm nuôi thường cho tôi đường. Nhờ những tán đường, tôi thấy khỏe khoắn. Cán bộ quản giáo của tôi là một nữ công an. Người này theo rỗi tư tưởng của tôi qua lao động. Tư tưởng thể hiện bằng hành động. Hành động tốt, tư tưởng tốt. Hành động xấu, tư tưởng xấu. Đó là châm ngôn cải tạo và cũng là châm ngôn giữ mình. Quản giáo chỉ định tôi vào tổ gánh nước tưới rau. Thoạt đầu, tôi gánh lưng thùng, xương sống muốn oằn, nghỉ nhiều chặng. Đêm về, vai nhức, bụng mỏi, chân rời rã. Thanh và Hoa phải xoa dầu đấm bóp giúp tôi. Sang ngày thứ hai, đặt đòn gánh lên vai, tôi ngỡ mình sắp xuống địa ngục leo dốc cầu vồng. Dần dần, vai hết nhức, bụng thon lại, chân cứng, tôi gánh một mạch từ chỗ lấy nước về vườn rau. Và rồi, tôi gánh đầy thùng nước, biết cách đổi vai, nhịp nhàng cơ hồ một thôn nữ. Bài học thứ nhất của lao động dạy tôi cảm thông với người lao động, kính trọng họ và hiểu thấu giá trị của lao động. Dĩ nhiên, cộng sản đã không hề dạy tôi bất cứ điều nào trong nhà tù, ngoài trại tập trung. Họ chỉ dọa nạt, trừng phạt, dụ dỗ và bắt làm việc giống hệt bọn chủ nhân nô lệ hành xử quyền uy của mình. Bài học thứ hai của lao động, tôi tự dạy tôi từ những giọt mồ hôi trí thức, còn dạy tôi niềm tự tin tuyệt vời: Tôi có thể làm được những công việc mà trước đây tôi tưởng không bao giờ tôi có thể làm được. Lao động đã thắp sáng kiến thức của tôi. Nó là giòng nước luân lưu đưa đẩy tư tưởng con người xuôi ngược. Nó làm long lanh trí tuệ, làm trong suốt tâm hồn, rạng ngời ý thức. Trí thức của chúng ta cứ nằm trong tháp ngà, cứ trùm mền hưởng thụ, đâm ra lười biếng, sợ khó, sợ khổ. Nên, khi đụng vào nghịch cảnh của đời sống thì không dám đương đầu, thì ngớ ngẩn và hèn mọn. Với cộng sản, lao động là hình phạt trả thù chúng tôi. Nhưng, với tôi, lao động là một chương dài trong văn phạm của đời tôi.


Chị Đặng Vũ thị Thanh Thủy rất thân tôi mà còn chưa hiểu tôi. Chị phàn nàn thấy tôi gánh nước đầy thùng.


- Tội gì chị phải vất vả khổ thân. Cứ ỳ ra, bảo sức mình nửa thùng thôi. Hai mươi lít nước trên vai chị, đủ khốn nạn rồi. Bốn mươi lít, chị sẽ sớm gục.


- Tôi muốn thử sức tôi.


- Chúng nó sẽ khai thác tối đa sự thử sức của chị.


- Chị Thanh, không phải sức của tôi, sức của phụ nữ. Hơn tất cả, sức của con người chịu đựng hình phạt nổi.


- Khó hiểu chị quá.


- Dễ hiểu thôi, nếu chị bằng lòng cho tôi chơi phim O’ Cangaceiro bên cạnh chị. Trò chơi này vất vả hơn gánh bốn mươi lít nước ngàn lần.


Chị Thanh không phàn nàn nữa. Ở trại Long Thành, chẳng còn việc gì để làm ngoài trồng rau, trồng ngô, trồng khoai, trồng sắn và nuôi heo. Công việc phát hoang khai thác diện tích canh tác, mấy năm qua, năm ngàn tù nhân nam nữ đã hoàn tất kế hoạch. Bây giờ, ngót hai ngàn tù nữ vừa lao động vừa chơi. Nguyên nhân chính của «vừa lao động vừa chơi» là lao động nhiều quá, lâu quá chán ngán lao động và nhờn với kỷ luật. Thầy Lénine dạy môn đệ rằng: «Không nên kéo dài thời gian lao động cải tạo. Kéo dài quá sẽ biến nỗi sợ hãi của lũ cải tạo thành niềm căm hận». Môn đệ mất dạy, cưỡng lời thầy. Nó cứ kéo dài triền miên thời gian cải tạo. Trại nào cũng giống trại nào, rập theo một khuôn mẫu tổ chức, biên chế tù nhân thành các đội lao động khác nhau. Cô Hoa nói, ở Phước Long, cô đã từng vô rừng sâu chặt lồ ô, chặt nứa, nguy hiểm vô cùng. Nhiều người đã bị thân nứa lao xuống, đâm xuyên ngực cơ hồ trúng một cây thương, nằm dẫy dụa trên vũng máu và vết chém vạt thân nứa còn găm lún đất. Chặt lồ ô thì phải leo trèo như vượn. Trước tiên, phải chặt tay tre đan lấy nhau. Chặt từ ngọn xuống gốc. Không chặt tay tre không thể kéo nổi cây lồ ô ra khỏi bụi. Khối người rơi chết vì tuột chân. Mùa mưa, vắt cơ man, nó bám dính vào da, hút máu, cơm gạo não sinh máu kịp. Sốt rét một cơn, kiết lỵ một trận là tàn đời. Hoa kể hàng trăm nỗi thê thảm ở «quần đảo» Phước Long, nơi cô tưởng đã chết mà vẫn sống. Tôi thèm cái trại đàn bà ấy. Nỗi đau khổ càng lớn thì cuộc sống càng phong phú. Nếu tôi được sống hai trăm tuổi, tôi tình nguyện đi hết các nhà tù của nước tôi. Chị Thanh nói, năm kia, tù đàn bà và con nít ở Bù Gia Mập chở về Long Thành cả ngàn. Bù Gia Mập, hòn đảo trong quần đảo Phước Long. Người từ đó về như người từ âm phủ chui lên. Chỉ còn da bọc xương. Phải lết từ sân vào nhà. Hàng chục con nít chết trên xe do đói khát, vì ngộp thở. Họ mang chấy trên đầu, rận trong áo, ghẻ lở trên thân thể và các thứ bệnh ho lao, kiết lỵ, trĩ... Niềm hân hoan của chế độ xã hội chủ nghĩa đấy! Họ được nuôi như heo và khi khỏe thì lao động như trâu bò. Con nít lại ném lên hòn đảo Phú Văn. Đàn bà, con gái phân phối vào Xuyên Mộc.


Vậy thì trại Long Thành chả thấm tháp gì. Nó chỉ là nơi dưỡng sức của tôi, theo chị Thanh. Hãy tạm nghĩ thế, bởi vì không ai đoán nổi thủ đoạn và trò chơi của cộng sản. Mỗi ngày, chúng tôi rời trại ra bãi lao động đóng góp công sức cho sự phồn vinh của đất nước. Một đội có hai vệ binh đeo súng AK đề phòng tù nhân nổi loạn và trốn trại và một quản giáo. Vệ binh con trai, quản giáo con gái. Đội của tôi chuyên canh... rau cải củ. Công việc đều đặn xới luống, tưới nước, bón phân, làm cỏ, xịt thuốc rầy, thu hoạch và lại xới luống, gieo hạt. Tất cả đều mặc quần xà lỏn, áo thung hoặc áo cánh cắt hết ống tay áo. Những cô gái giang hồ, gái bụi và phản động thuộc thành phần «con bà phước» thì tả tơi hết chỗ diễn tả. Mọi người phải tự chế một kiểu nón chống mưa nắng. Họ chân đất dẫm lên chông gai nghịch cảnh. Họ không cả xì líp, xú chiêng. Cụ thể, ngày hai buổi, sáng 11 giờ, chiều 4 giờ 30, hai ngàn đàn bà trần truồng nhào xuống suối nước cạn mùa hè ngụp lặn, tắm táp, chẳng thèm lưu ý bọn vệ binh nhìn lén. Chúng tôi giống đàn trâu bị lùa xuống vũng nước. Tất cả bình đẳng cỡi truồng và không đòi hỏi nhân quyền. Bởi vì, hình như, người ta đã quên tranh đấu nhân quyền cho những người bị cỡi truồng!


Tôi quen thật nhanh với sinh hoạt trại cải tạo. Người ta chưa bới ra một lầm lỗi nào để mắng chửi tôi hay kỷ luật tôi. Tôi đã nghe Quản giáo mắng nhiều người về tội lười biếng, làm việc cẩu thả. Cái lối «lên lớp» tù của bọn cán bộ ở đâu cũng như ở đâu. Nó xấc xược, hỗn láo, trịch thượng và ra mặt... ông bà chủ. Và ngọng níu lưỡi. Và đơn điệu. Vẹt con được vẹt mẹ dạy sao nói vậy. Để bọn chăn trâu cắt cỏ này nhục mạ mình là điều không thể chấp nhận. Hãy mặc kệ thứ đầy đọa, chẳng cần nó ban phát ân huệ nhưng cũng chẳng để tự mình làm mất phẩm cách của mình. Tôi cứ quần quật lao động đúng giờ, đủ giờ, không than vãn. Quản giáo bắt tôi làm việc gì, tôi làm việc ấy. Hôm qua, đang gánh nước, Quản giáo gọi tôi tới làm việc. Ả ngồi trên ghế, dựa lưng vào thân cây. Tôi đứng nghiêm, cách ả năm thước theo đúng Nội quy.


- Chị có oán hận chúng tôi không?


- Thưa cán bộ, không.


- Tôi theo rỗi chị từ ngày đầu. Chị lao động tích cực nhưng thái độ của chị có vẻ thiếu chân thật với chúng tôi. Chị im lặng khó hiểu.


- Thưa cán bộ, tù không thể thân mật với người coi tù. Nội quy không dạy tôi phải thân mật với cán bộ.


- Tôi sẽ không phát «phiếu thăm gặp» cho chị tháng tới.


- Tùy cán bộ.


- Chị không cần thăm gặp à?


- Bốn năm nay, tôi sống nhờ cơm của Đảng.


- Chị là trí thức. Trí thức làm được những việc gì?


- Làm được tất cả mọi việc.


- Tôi sẽ cho chị xuống hầm phân.


Quản giáo gọi đội trưởng Jacqueline tới, ra lệnh điều tôi sang tổ phân bón. Cả đội ngưng lao động nhìn tôi. Đội trưởng Jacqueline cố tình loan báo công tác mới của tôi. Vũ nữ Lệ Thủy phẫn nộ. Nàng hét lớn:


- Đồ... dép râu!


Quản giáo đứng vụt dậy, chạy lại. Chị Jacqueline vỗ vai tôi, mỉm cười:


- Đứng xem con điên Lệ Thủy «đấu tranh» với con nhà quê.


Chị Thanh đã nói cho tôi nghe về chị Lệ Thủy, kẻ bất cần đời, thích cải nhau tay đôi với cán bộ. Chị Thủy có một dĩ vãng lẫy lừng trong giới ăn chơi của Sài Gòn trước năm 1975. Chị đẹp. Nhưng rồi chị đi tìm cảm giác xì ke. Và chị sa đọa, tàn tạ. Tù nữ Lệ Thủy, bàn tay thon mềm đã chai rắn sau bốn năm cầm thùng nước tưới rau, đã xa lánh mùi nước hoa, son phấn để ngửi mùi nước đái khai nồng và cứt thối om, đã đói khổ triền miên, mắt trợn trừng thách thức. Kẻ đã ban phát hạnh phúc cho bao nhiêu đàn ông tướng, tá, tư sản, công tử..., lúc này, đội cái nón may cắt từ cái bị cói, mặt áo thung rách lỗ chỗ, quần xà lỏn, chờ đợi ăn thua đủ với người đại diện của chủ nghĩa cộng sản. Giữa vườn rau xanh, chị giống hệt hình nộm bù nhìn, hình nộm tuyệt đẹp.


- Chị Thủy, chị vừa chửi ai đấy? Ả quản giáo hỏi.


- Tôi không chửi ai. Tôi nói bâng quơ «Đồ dép râu!». Đứa nào điếc mới bảo tôi chửi.


- Chị miệt thị tôi điếc à?


- Tôi không bảo cán bộ điếc. Đứa nào điếc mới bảo cán bộ điếc.


- Chị lưu manh.


- Ai lưu manh thì nó biết nó. Nội quy cấm cán bộ chửi bới tù.


- Ai cho phép chị nói động đến dép râu?


- Tôi. Tôi đi dép râu bị nó làm bẩn chân, tôi chửi nó, được không?


- Dép râu là dép chiến thắng. Dép râu và nón cối là văn minh mới, chị dám bôi bác, hả?


- Kệ mẹ nó, nó làm bẩn mắt tôi, tôi chửi nó.


 Ả quản giáo bước tới chỗ chị Lệ Thủy. Ả vung tay tát chị một cái. Lệ Thủy, vũ nữ cao bồi, đầy máu cao bồi, chị phóng tay tát lại ả quản giáo trả miếng. Ả la lối. Hai vệ binh chạy lại. Một đứa lên đạn, chĩa nòng súng thẳng vào chị Lệ Thủy. Chị cười rũ rượi. Rồi chị lột áo thung ra. Cặp vú phì nhiêu, đẫy đà của chị nay đã xẹp lép. Chị nghiến răng:


- Mày có ngon, bắn trúng tim má mày đi. Má mày đang cần chết. Bắn đi cộng sản nhí, bắn đi!


Vệ binh hạ súng xuống, chửi thề lảm nhảm và bỏ đi. Quản giáo cũng bỏ đi luôn. Chị Jacqueline bảo tôi:


- Lâu lâu, con điên Lệ Thủy dở chứng một lần. Hôm nay, nó bênh chị đấy, nó thương chị bị đì xuống hầm phân.


Sinh hoạt của đội bình thường trở lại. Tôi mở căng mắt nhìn vũ nữ Lệ Thủy, cố thu hình ảnh của chị vào tâm trí tôi. Sóng gió, tôi nghĩ, bắt đầu nổi. Một tháng «trăng mật cải tạo» của tôi đã trôi qua. Bây giờ là lúc người ta hành hạ tôi theo chỉ thị trung ương. Chẳng sao, tôi khơi dậy từ trái tim niềm tin mộc mạc: Trời hại, ta mới chết; người khó hại ta. Tôi mạnh bước tiến về phía hầm phân. Đó là cái hầm hình vuông, mỗi cạnh khoảng ba thước, sâu mười mấy thước. Mỗi đội rau xanh có một hầm chứa phân và một hồ chứa nước tiểu. Sáng sáng, đội vệ sinh khiêng những máng phân ở các phòng tù và cầu tiêu của cai ngục đem ra ngoài trại. Tổ phân bón của trại chờ đợi, chuyển phân đến vườn rau, đổ xuống hầm. Vào thời vụ, các đội rau phải tranh nhau phân, phải «hối lộ» rau cho đội vệ sinh trại mới có phân bón rau. Các phòng tù đều có cầu tiêu riêng. Ban đêm tiêu, tiểu trong đó. Người ta chế các máng nước tiểu cho nó trôi ra cái hồ bên ngoài phòng. Nếu không, nước tiểu sẽ ngập lụt. Phân tươi và nước tiểu «xuất khẩu» ra các đội rau xanh. Các đội rau xanh «nhập kho dự trữ.» Tổ phân bón chia làm ba tốp. Tốp kiểm tra về ủ phân, tốp ngào phân và tốp xuống hầm múc phân. Tôi ở trong tốp xuống hầm phân.


Bây giờ, hầm đã cạn, không thể đứng trên bờ ròng cái xô xuống múc mà kéo lên. Do đó, đội trưởng Jacqueline đã cho làm cái đường thang thoai thoải xuống hầm. Nhưng lom khom trên bực thang đất dễ té nhào nên tù nhân đành phải lội hẳn xuống phân bầy nhầy, hôi thối, hàng tỉ con ròi, vục xô múc đầy để bên trên kéo lên. Tôi đứng sát miệng hầm, nhìn xuống. Sự ưu việt của chủ nghĩa cộng sản ở dưới ấy. Đầy đọa con người tới mức đó là hết. Chị Jacqueline hỏi tôi:


- Liệu chị kham nổi không?


- Tôi cố gắng. Tôi đáp.


- Nếu không kham nổi, cứ ỳ ra. Nó kỷ luật mình, tống vô cachot còn sướng, khỏi lao động.


- Tôi kham nổi.


Chị Thanh cũng chạy lại, khuyên tôi:


- Chị không xuống hầm phân nó cũng không dám giết chị đâu. Chúng tôi đều chê hầm phân. Để bọn ngu sợ hãi. Chúng tưởng lao động tích cực thì sớm được tha. Còn lâu.


Tôi nói:


- Nó hỏi tôi trí thức làm được những việc gì. Tôi trả lời, trí thức làm được tất cả. Tôi cần chứng tỏ với chúng nó rằng, việc của chúng nó, người trí thức làm được còn việc của trí thức, chúng nó không làm được. Tôi còn muốn chứng tỏ với chị và với chính bản thân tôi.


Chị Thanh lắc đầu:


- Chị khó hiểu nhưng tôi yêu chị.


Tôi cầm tay chị Thanh:


- Đừng ví tôi với bọn ngu chỉ biết sợ hãi và ham được tha, chị nhé! Tôi tích cực làm việc vì đó là công việc. Công việc đó đem lại kết quả gì, không cần đếm xỉa. Tôi tập làm việc nào đến nơi đến chốn việc đó.


- Tôi bỗng ham sống quá, chị Lan ạ!


- Nếu gần chị Nga, chị sẽ ham sống hơn.


Buổi sáng hôm đó, tôi chưa xuống hầm vội vì chị Jacqueline chưa chịu phân phối công tác. Chị bảo tôi ngồi nghỉ. Nhưng buổi trưa về trại, lĩnh com nước xong, chị Lệ Thủy bị gọi lên văn phòng giám thị. Cả nhà xôn xao rồi cả trại xôn xao. Tôi qua nhà của chị Nga kể cho chị nghe mọi diễn biến buổi sáng. Chị bảo tôi chuẩn bị đương đầu với những hình phạt ngoài ánh sáng. Chúng tôi bỏ ngủ trưa đợi chị Lệ Thủy. Chị không về. Phần cơm của chị nguội ngắt, ruồi nhặng bu kín. Một giờ trưa, chúng tôi tập họp ở sân đi lao động. Người ta lôi chị Lệ Thủy, trói chị dưới cột cờ. Giám thị Ba Tơ «lên lớp» toàn trại. Người ta đọc quyết định thi hành kỷ luật chị Thủy. Rồi người ta tụt quần chị, quất những lằn roi phủ phàng xuống mông chị. Chị không hề rên la. Quất no tay, người ta kéo quần chị lên, cởi trói cho chị. Tôi nhìn lá cờ đỏ sao vàng phất phới bay trên ngọn cột cờ. Dưới đó, người tù nữ bị chà đạp nhân phẩm một cách bỉ ổi. Văng vẳng đâu đây, câu thơ của Tố Hữu ca ngợi ông Hồ Chí Minh: «Tự do cho mỗi đời nô lệ» và lời hát: «Bác đã đến từng nhà thăm các cụ già, cầm tay chúng con bác bắt nhịp bài ca kết đoàn...». Chị Thủy đã đứng thẳng. Chị khạc một bãi nước miếng vào mặt kẻ vừa quất chị. Chị nhìn chúng tôi mỉm cười, vẫy tay và ngạo nghễ đi vào cachot. Buổi chiều tôi xuống hầm phân.


Trong bóng tối, tôi chỉ nhìn thấy ta. Ngoài ánh sáng, ta sẽ nhìn thấy mọi người. Chị Nga đã nói thế. Luôn luôn, chị tuyệt diệu. Tôi vừa mở mắt: Không có nỗi khổ nào hạng nhất, nỗi khổ nào hạng bét. Nỗi khổ là nỗi khổ. Nỗi khổ trong bóng tôi và nỗi khổ ngoài ánh sáng. Thế thôi. Tôi đã thấm nỗi khổ trong bóng tối. Tôi sẽ thấm nỗi khổ ngoài ánh sáng. Tôi bước xuống. Rờn rợn. Bốn năm ròng rã, gắn liền đời mình bên xô cứt, tôi đã quen. Nhưng cái hầm phân này thì thật là ghê rợn. Gọi nó là đầm phân mới đúng. Chân tôi chới với, lún sâu dần, sâu dần. Khi bàn chân đụng đáy hầm, phân đã ngập sát háng tôi. Trên miệng hầm, bạn tù ròng cái xô xuống. Tôi vục đầy xô. Bạn tù kéo lên. Nửa thân thể ngập phân, tay dính đầy phân. Tôi đứng trong phân, trong sự ưu việt của chủ nghĩa cộng sản hàng tiếng không thèm đếm xỉa tới hàng tỷ con rồi đang lúc nhúc. Dứt phiên tôi, bạn tù khác xuống hầm. Tôi ngoi lên, ngoi lên... Tù nhân làm công tác phân bón được phép tắm trước. Chị Thanh đã kiếm cho tôi cục xà phòng thơm và túi nhỏ xà phòng bột. Tôi tới con suối gần vườn rau. Cởi áo ra, tôi vuốt hàng trăm con ròi trên mình mẩy. Ròi chui rúc cả vào nách tôi. Tôi nhẩy xuống suối, ngụp lặn. Xà bông bột tắm gọi và giặt quần áo đợt đầu. Tôi phơi quần áo bên bờ suối rồi lại ngâm nước. Sau hết, tôi sát xà phòng thơm, vò tóc và kỳ cọ. Chị Jacqueline đã nhờ người mang quần áo mới cho tôi thay. Một mình giữa dòng suối, tôi tưởng tưởng địa ngục và và đào nguyên, nỗi khổ và hạnh phúc. Thế là xong, hầm phân của cộng sản, cái cầu vồng nào đó của âm phủ, tôi đã leo qua. Còn gì nữa, cộng sản? Chắc chắn, hầm phân cải tạo là bến mơ ước cuối cùng của họ.


Buổi tối, chị Thanh hỏi tôi:


- Chị cảm thấy đau đớn không?


Tôi hỏi lại:


- Đau đớn nỗi gì?


- Nỗi ngâm mình dưới hầm phân


- Không. Tôi đau đớn thấy họ đánh đập chị Thủy như con chó.


- Như thế đó, từ mấy năm nay. Chúng nó hèn hạ, đê tiện. Đánh đàn bà, con gái mà vẫn sợ, vẫn phải trói. Chờ đợi lâu quá, tôi phải trốn trại.


- Chỉ định vượt ngục?


- Vâng. Tôi sẽ lập chiến khu đàn bà. Tôi chán làm nữ chúa vỉa hè rồi.


Ô ế Cangaceiro... Tôi khẽ hát. Chị Thủy cười. Đôi mắt chị chan chứa ước mơ. Tôi đã quên hầm phân và loài ròi. Chúng tôi ngồi nói chuyện đến khi kẻng báo ngủ. Chị Thanh nói:


- Lát nữa, con Thủy điên sẽ gửi thông điệp cho chúng ta.


- Tôi chưa kịp cám ơn chị ấy.


- Cám ơn gì?


- Chị Jacqueline bảo, vì bênh tôi, chị ấy đã gây sự với quản giáo.


 - Nó gây sự dài dài, toàn chuyện bốc đồng vớ vẩn. Lần này thì nó thật tình phản kháng vì chị. Vài hôm nữa nó ra, chị đừng lo.


Trại im phăng phắc. Từ phía cachot, giọng hát của chị Lệ Thủy, qua ô cửa gió vọng ra.


- Nó sẽ hát một bài độc địa. Chị Thanh nói.


Dứt bài tình ca mở đầu, chị Thủy hát tiếp bài «Thành phố mang tên Bác», nhạc cộng sản, lời do chị chế biến.


 Có tiếng chân người chạy rầm rập ngoài sân trại và tiếng chửi thề ỏm tỏi. Chúng tôi nằm im.


- Chúng nó chạy ra đóng cửa gió cachot đấy. Chị Thanh nói. Không bịt nổi họng con Thủy điên đâu.


Quả nhiên, chị Thủy gào thét, đập cửa sắt thình thình. Cuối cùng, chị Thủy hát nhưng không còn hát những bài «độc địa» nữa. Đó là chuyện hôm qua, chuyện một ngày của nhiều người tù đàn bà. Hôm nay có khác đôi chút, đời tôi thiếu chị Thủy và tôi bước xuống hầm phân thản nhiên như tôi bước xuống suối. Văn phạm của đời sống của tôi thêm những trang hầm phân. Tôi sẽ pha linh hồn vào mỗi con ròi. Với chúng ta, ròi bọ cần có tâm hồn. Để nó hơn cộng sản. Mặc dù, chúng tôi bị các ông chủ cộng sản bóc lột tàn tệ, bị nuôi dưỡng thua cả những con chó của phương Tây. Chúng tôi ăn cơm độn sắn, độn khoai dài dài. Bo bo đã trở thành thực phẩm xa xỉ đối với chúng tôi. Bạn đã từng ăn bo bo chưa? Thứ bo bo chưa chà sát vỏ? Bo bo có mày sắc hơn mày ngô. Nó đâm vào lợi là gặm luôn, phải dùng ngón tay lôi nó ra. Nó đâm vào kẻ chân răng, lôi được nó ra là lợi xưng, răng nhức. Bo bo dễ tiêu hóa. Nó vô dạ dày tiếng đồng hồ trước thì tiếng đồng hồ sau biến thành phân chín mươi phần trăm và bị tống khỏi ruột già. Mày của nó cọ sát ruột của bạn. Bạn hỏng răng, loét bao tử, sước máu ruột già. Chúng tôi có cái cầu tiêu «dã chiến» ở vườn rau. Một hôm đi cầu sớm, tôi thấy bọ hung thưởng thức hết phân, chỉ còn lại đống mày. Mày bo bo, bọ hung không kham nổi. Thế mà chúng tôi phải nuốt ròng rã hai năm. Khi sắn lát và khoai sùng đã ngán, bo bo là thực phẩm giá trị sau cơm gạo mục.


Ăn sắn và củ cải riết, tất cả tù nhân «con bà phước» mắc bệnh huyết trắng và tê bại. Điểm sơn của chế độ xã hội chủ nghĩa là trại tù đàn bà không phát serviettes hygiéniques và những cái mùng bị cụt ngủn. Huyết trắng và tê bại vẫn phải lết đi lao động, vẫn phải oằn vai gánh nước, không được nghĩ ngơi. Dinh dưỡng tồi tệ, thuốc men không có, cái nghĩa địa tù của trại Long Thành đã đầy mồ. Nhiều người đã phải chống gậy. Họ được miễn ra hiện trường nhưng phải quét sân, nhặt cỏ trong trại. Tù con gái chống gậy quét sân. Tù đàn bà chống gậy nhặt cỏ. Và hình phạt không ngừng giáng xuống họ. Một năm, ông chủ cộng sản phát cho nô lệ mỗi người hai bộ quần áo. Nô lệ phá quần dài khâu thành hai quần xà lỏn. Vải nhà nước mau rách vì mô hôi tù đổ ra quá nhiều. Do đó, tù nhân tả tơi, thê thảm. Nhà nước bình quân một tù nhân hưởng 10 đồng 5 cắc một tháng kể cả tiền thuốc men, trong khi, một tô phở đặc biệt giá 15 đồng! Nô lệ thời trung cổ còn sướng hơn nô lệ thời cộng sản. Vì họ chỉ quần quật lao động, phơi xác chịu roi vọt nhưng được ăn no. Họ không bị học tập chính sách của Đảng, đường lối của Nhà nước, họp hành, bình bầu và kiểm điểm, tự khai và bị còng bằng còng Mỹ.


Tôi bắt đầu lo ngại bệnh hoạn. Bốn năm trong các cachots tăm tối, tôi đã chịu đựng quá nhiều. Mắt tôi chưa hết mờ mà răng đã đe dọa. Nhai ngô đã là một cực hình đối với tôi. Tôi nghĩ, chỉ cần một trận tiêu chảy biến sang kiết lỵ là tôi gục. Chị Nga không nghĩ gì cả. Chị khuyên tôi để cho đầu óc nghỉ ngơi, nếu tôi còn ham sống. Nhưng làm sao không suy nghĩ đây? Mỗi ngày, những lằn roi da tới tấp vụt xuống thân hình những người tù đói ăn sinh ra lười biếng, bệnh hoạn, nổi khùng chống đối lung tung. Mỗi đêm tiếng hát của chị Lệ Thủy vang vọng, thôi thúc nỗi niềm gì đó. Và hình những người tù con gái tê bại, chống gậy khập khểnh quét sân trại. Và trò giải trí khám nghiệm tù nữ tình nghi mãi dâm. Và chủ nghĩa cộng sản. Và huyết trắng... Đó là ánh sáng của Nghị quyết, là sáng tạo nhiệm màu của Đảng. Tôi cần suy nghĩ dù sáng mai tôi không còn thức dậy.


***


Chương 12


Chị Thủy vẫn nằm trong cachot. Ngày tháng cải tạo trôi đều, tẻ nhạt, buồn tênh. Chị Nga chưa bị đẩy xuống hầm phân nhưng chị bị các viên chức thư lại của chế độ cũ ghét bỏ vì sự bày tỏ thái độ trí thức của chị trong lao động và lòng khoan dung của chị đối với những kẻ đang đầy ải chị. Người ta bảo chị khiếp nhược, đầu hàng. Người ta bảo chị điên. Chị vẫn quan niệm bọn cán bộ coi tù là bọn vô học, con nít. Phản kháng bọn vô học là tự hạ mình xuống. Để bọn vô học giết chết là ngu xuẩn. Những anh cộng sản gộc không bao giờ chịu làm anh hùng, liệt sĩ. Họ đã sống vì bầy liệt sĩ khờ khạo. Nếu họ thích chơi trò liệt sĩ, họ đã chết hết trong tù và lịch sử đã không giống hôm nay. Chị Nga là đại bàng. Lũ người đàm tiếu, họ chỉ là chim sẻ. Chim sẻ léo nhéo, khả năng bay của nó từ cây nọ sang cây kia, từ mái nhà này sang mái nhà khác. Làm sao chim sẻ hiểu nổi chí của đại bàng? Bệnh huyết trắng và tê bại trở nên trầm trọng. Thực phẩm không thay đổi. Vẫn sắn lát, cơm gạo mục ăn với củ cải nấu muối, kho muối. Chúng tôi chưa được viết thư về gia đình. Phải được phép viết thư mới có phiếu thăm nuôi. Nếu không, đành sống kiếp tù đày «con bà phước», thiếu thốn hoàn toàn. Hơn bốn năm, chị Nga và tôi đã sống như thế. Lao động rút dần rút mòn sức lực của chúng tôi. Bài học mà tôi có từ lao động quá đắt.


Đội của tôi hơn năm mươi người mà đã quá hai mươi người tê bại, huyết trắng. Các tù nhân thuộc thành phần thư lại của chế độ cũ thì vẫn nhởn nhơ. Họ được thăm nuôi đều đặn, đầy đủ thuốc men, thức ăn béo bổ. Đi tù mà vẫn bơ, sửa, phó mát, đồ hộp! Họ có tiền, có tặng phẩm mua chuộc cai ngục nên họ nhàn hạ. Nhưng họ cứ than vãn, rên xiết. Nỗi khổ, sự thiếu ăn, mệt mỏi, bệnh hoạn giết chết cả dục tính của tù nhân. Tôi có cảm tưởng trại tù đàn bà, con gái Long Thành hay bất cứ trại tù đàn bà, con gái nào trên quê hương tôi, dưới sự thống trị của đế quốc cộng sản, là trại nuôi heo cái thiến. Heo cái thiến thêm những máng cám của heo thịt nuôi trong trại. Nếu mỗi tù nữ, mỗi bữa ăn được thêm một chén cám heo, bệnh tê bại sẽ giảm dần. Chị Jane Fonda và chị Elizabeth Hopkins thấy chưa? Chúng tôi sống cạnh chuồng heo và thèm cám heo để chữa bệnh. Con người thua con heo. Cái chế độ mà các chị ca ngợi là «lương tri của loài người» thế đấy. Bao giờ chị Fonda thăm Phước Long, Bầu Lâm, Ba Tơ, Sa Ác, Long Thành, những trại tù đàn bà ở miền Nam Việt Nam như chị đã thăm Hà Nội dưới mưa bom của Mỹ để phát biểu cảm tưởng? Hồng Thập Tự quốc tế đâu? Những nhà báo nổi tiếng vụ chuồng cọp Côn Sơn đâu? Tòa án Bertrand Russell đang làm gi? Các hội Thân Hữu với Cộng Sản đang làm gì? Lớn khôn rồi đấy, cô Elizabeth Hopkins còn xác định «Hà Nội cho Sài Gòn phẩm cách làm người» nữa không? Tôi nghĩ, trên thế giới, còn mỗi Hội Bảo Vệ Súc Vật chưa đến nỗi phải cúi mặt xấu hổ. Bạn muốn hiểu thế nào về Hội này, tùy ý bạn.


Sự thèm khát cám heo làm xúc động các chị ở đội chăn nuôi. Các chị đã lén lút, hóa trang mọi cách, tối tối, mang đến mỗi nhà một xô cám heo nấu chung với rau muống già, thân chuối. Chẳng bao lâu, có kẻ báo cáo với cai ngục. Thảm họa xảy ra. Buổi chiều, sau khi điểm số, vào nhà xong xuôi, chị Thanh chia cám heo cho những người tê bại. Bất ngờ, vệ binh ào tới, chĩa súng qua các song cửa sổ. Của tù mở tung. Giám thị Ba Tơ và bốn trực trại hùng hổ bước vào.


- Đứa nào ăn cắp cám nuôi lợn. Tự giác khai đi! Ba Tơ rít từng tiếng qua kẽ răng.


Im lặng. Ba Tơ quát hỏi:


- Đội trưởng đâu?


Chị Jacqueline đáp:


- Có tôi đây.


- Đứa nào dám ăn cắp cám lợn của trại?


- Tôi không biết.


- Đội trưởng mà không nắm vững được tình hình đội của mình à? Xuống, đừng làm đội trưởng nữa.


- Tôi đâu có xin xỏ làm đội trưởng.


- Bướng hả?


- Bướng gì!


Ba Tơ không nạt nộ nổi chị Jacqueline phốp pháp, y xỉa xối chị Thanh:


- Mày ăn cắp cám lợn hả?


Chị Thanh vẫn đứng cạnh xô cám heo. Chị bình tĩnh nói:


- Ông Giám thị, Nội quy cấm ông gọi tù bằng mày xưng tao. Tôi nghiêm khắc phê bình thái độ của ông. Tôi sẽ báo cáo với Thanh tra khi Thanh tra tới.


Ba Tơ xùi bọt mép, múa tay:


- Tao có quyền.


Chị Thanh nhìn thẳng mặt Ba Tơ:


- Mày có quyền, bà nội mày đây cũng có quyền. Mày muốn gì bây giờ?


Căn nhà của tôi quy tụ những nữ chúa và gái bụi. Khi dĩ vãng của Hai Ba Dạng, Jacqueline, Con Lan xì ke... được đánh thức, họ bất chấp tất cả. Trải qua bốn năm tù đầy, họ hết biết sợ hãi. Với họ, tù đầy là giấc ngủ, chế độ nào cũng thế, chế độ nào họ cũng nếm mùi tù. Ba Tơ giận run mà không dám làm gì. Y xuống nước:


- Ăn cắp cám lợn làm gì? Đối hả? Chế độ đâu có để ai chết đói đâu. Đồ súc vật.


- Đứa nào súc vật? Chị Thanh «đấu tranh tư tưởng» ngay. Súc vật là bọn đầy đọa con người. Bị bệnh tê bại, xin thuốc không phát thì lấy cám chữa bệnh.


Cả nhà vỗ tay hậu thuẫn chị Thanh. Giám thị Ba Tơ sợ đàn bà nổi loạn sẽ mất điểm, sẽ bị kiểm điểm, sẽ bị hạ tầng công tác. Chị Thanh thừa khôn ngoan để hiểu tâm lý cai ngục Ba Tơ. Y rất sợ mất chức giám thị. Y đã có xe Honda, máy vô tuyến truyền hình, radio, đồng hồ nhờ quyền uy của y và ân huệ thăm nuôi y ban phát cho bọn thư lại chế độ cũ. Y không dại để vuột chỗ ngồi, chỗ y được giải trí bằng trò khám nghiệm tù nữ tình nghi mãi dâm. Ba Tơ cáu quá rồi, y vung chân đá tung xô cám và bước ra khỏi nhà. Tù nhân la ó y. Cửa đóng lại, khóa kỹ. Ba Tơ sang các nhà khác. Chị Thanh đứng giữa nhà, ong óng:


- Tôi biết đứa nào tố cáo rồi. Tôi sẽ trừng phạt nó. Tôi nói là tôi làm. Mà tôi làm là phải xong.


Sáng hôm sau, tin tức loan truyền khắp trại. Ba Tơ đã đến các nhà, chửi bới, dọa nạt và đổ cám vào cầu tiêu. Sáu giờ, tập trung đi lao động, Ba Tơ «lên lớp» rồi đọc quyết định thi hành kỷ luật một số chị em thuộc đội chăn nuôi. Y không nói năng gì tới chị Thanh và chị Jacqueline. Không khí trại ngột ngạt. Ngoài hiện trường lao động, công việc uể oải. Tù nhân bàn tán kế hoạch cứu các chị ở đội chân nuôi ra khỏi cachot. Quản giáo xoa dịu tù, không kiểm tra lao động. Tù nhân tha hồ ngồi tụm năm, tụm ba nguyền rủa cộng sản. Buổi trưa, không có gì xảy ra. Nhưng, vào giờ tập trung đi lao động, trước khi cán bộ trực trại kêu lên từng đội, bất ngờ, chị Thanh đúng dậy, rời hàng lối. Chị lững thững bước lên phía trước, rút con dao nhọn, đâm mạnh xuống lưng tù nữ Ba gà, chủ chứa điếm. Ba gà thét lớn, lăn ra dẫy dụa. Chị Thanh bồi thêm cái đá thật mạnh vào mông nạn nhân:


- Tao đã nói là tao làm. Mày hại mọi người, tao giết mày!


Chị thản nhiên đứng chờ hình phạt. Sân trại náo động tưởng chừng tù nhân nổi loạn. Trực trại hò hét: «Trật tự! Trật tự»? Vô ích. Vệ binh được lệnh nổ súng. Những băng đạn AK quạt lên trời trấn át tù nhân. Y tế trại đã khiên con mụ Ba gà lên bệnh xá. Con dao của chị Thanh vẫn găm sau trên lưng nó. Vệ binh nhào lại toan giáng báng súng xuống người chị. Tù nhân đúng dậy tất cả, la lối đồng loạt. Vệ binh chùn tay. Tù nhân đánh đai từng lớp quanh chị Thanh, bảo vệ chị. Vệ binh lách vội vã đứng cách xa chúng tôi hàng chục thước, súng lăm le ở tư thế khạc đạn. Cổng trại đã đóng chặt. Hai khẩu trung liên bên ngoài chĩa vào. Đạo quân áo thung rách và quần xà lỏn vá víu đủ màu vải thách thức súng đạn. Những chiếc nón đủ kiểu tả tơi đã tung lên và ngổn ngang sân trại. Chân đất, đầu trần, tay không, dù đàn bà chống đối sự ngược đãi của chế độ. Ba Tơ xuất hiện. Y giả vờ hỏi:


- Chuyện gì đã xảy ra thế?


Chị Jacqueline đáp:


- Vệ binh đánh đập chị Thanh Thủy, chúng tôi phản đối. Nội quy cấm đánh tù. Chế độ không cho phép đánh tù.


Ba Tơ mềm dịu:


- Tôi bảo đảm với các chị không ai được phép đánh đập chị Thanh Thủy, nhưng tôi yêu cầu đội nào về đội nấy , hàng ngũ nghiêm chỉnh, trật tự, tôi sẽ giải quyết mọi vấn đề một cách ổn thỏa.


Ba Tơ xứng đáng là một cai ngục chuyên nghiệp. Y hiểu lúc nào nên mềm mỏng và lúc nào nên cứng rắn. Tù nhân tuân lệnh y, người nào về đội người ấy, ngồi xếp hàng nghiêm chỉnh. Trực trại trình bày sự việc vừa xảy ra. Chị Thanh được gọi đứng lên. Chị bước khỏi hàng ngũ.


- Chị đã học Nội quy chưa ? Ba Tơ hỏi.


- Học từ bốn năm nay chúng tôi không thuộc. Chị trả lời.


Tù nhân cười rộ. Ba Tơ cố gắng giữ thái độ điềm nhiên.


- Học bốn năm mà chưa thuộc. Chưa thuộc làm sao trở về xum họp gia đình?


Chị Thanh nhún vai:


- Tôi không có gia đình, không thích về!


- Tại sao chị dám đâm chị Ba?


- Tôi ghét nó.


- Tại sao chị ghét nó?


- Vì nó đáng ghét.


- Chị biết giết người can thêm tội gì nữa không?


- Tử hình.


- Đúng. Nếu chị Ba chết, chị sẽ bị đưa ra tòa án. Bây giờ, chúng tôi tạm thời đưa chị vào biệt giam.


Giám thị Ba Tơ nhìn mọi người:


- Có ai phản đối không?


Tất cả im lặng. Ba Tơ hỏi tiếp:


- Có ai đề nghị gì không?


Ba Tơ chờ đợi. Chị Jacqueline dơ tay:


- Tôi.


- Chị đề nghị gì?


- Tôi đề nghị thả các chị ở đội chăn nuôi ra khỏi biệt giam.


- Trại sẽ nghiên cứu. Bây giờ, tôi yêu cầu các chị về nhà. Chiều nay, các chị được nghỉ.


Vệ binh dẫn chị Thanh đi và tống chị vào connex. Chị ngoái lại nhìn mọi người với đôi mắt thất vọng. Biết làm sao, chị Thanh. Hành động của chị thật đẹp nhưng không phải là nguyên do đáng để chúng tôi nhập cuộc. Và nữa, với cộng sản, nổi loạn trong nhà tù chẳng ích lợi gì. Chúng ta đâu phải tù binh. Chúng tôi là thứ tù gì đó thật lạnh lùng, thứ tù không được phép nhận mình là tù nên chẳng có quy ước quốc tế nào đề cập tới. Chị Thanh nằm trong connex xong xuôi, tù nhân giải tán. Nón mũ lượm lên, mọi người về nhà bàn tán xôn xao, coi như mình đã thành công. Và Ba Tơ cũng tưởng y đã dẹp xong cuộc nổi dậy. Chúng tôi đợi bóng tối. Để biết chị Thanh có bị đánh đập không. Nhiều chị em đến với tôi, nhờ tôi đóng góp ý kiến cho ngày mai. Tôi bỗng sáng mắt: Không phải chỉ riêng tôi khôn lớn trong tù ngục, còn nhiều chị em khác nữa.


- Chị Lan, chị thử nhận xét về vụ chiều nay xem sao? Chị Jacqueline niềm nỡ nói. Chúng tôi dám làm nhưng thiếu đầu óc.


Tôi thận trọng ngó lên trần nhà. Chị Jacqueline hiểu ý. Chị cầm tay tôi:


- Đứa nào đụng tới chị, tôi sẽ bước qua xác nó.


Jacqueline và Hai Ba Dạng là hai nữ chúa lừng danh của Sài Gòn từ đầu thập niên 1970. Jacqueline tung hoành vùng Sài Gòn, Hai Ba Dạng vùng Chợ Lớn. Biên giới của họ tính ở ngã tư Nancy-Trần Hưng Đạo. Mỗi nữ chúa có hàng trăm đàn em. Hai người chưa từng ân oán giang hồ lần nào. 30-4-1975 họ còn nằm ở nhà lao Thủ Đức. 1-5 họ đã có mặt ở Sài Gòn. Giữa tháng 5-1975, chế độ mới truy lùng nam nữ tù nhân hình sự mà họ đã thả ra chiều 30-4. Hai nữ chúa lẫn trốn. Đàn em của họ dấu diếm họ, nuôi dưỡng họ. Ít lâu sau, nữ chúa tái xuất giang hồ, chuyển hướng làm ăn. Họ tuyển chọn đàn em nhan sắc, khéo ăn nói, dụ dỗ bộ đội, cán bộ và lột hết tiền, đồng hồ, radio, Honda, Vespa. Tiến xa hơn, họ đột nhập các kho chứa hàng hóa của phường, quận đánh cướp và buôn xăng dầu của bộ đội. Họ mua chuộc cộng sản, sản xuất giấy tờ giả mạo, tổ chức vượt biên. Jacqueline sắp viếng ngân hàng nhà nước thì bị bắt. Còn Hai Ba Dạng bị đàn em phản bội. Cả hai đều đã nằm ở Chí Hòa, lên Bù Gia Mập rồi về Long Thành.


- Tôi thấy các chị sáng suốt. Tôi nói.


- Chị nói trắng ra di. Jacqueline dục.


- Tranh đấu phải nhằm mục đích tốt. Tôi rất yêu chị Lệ Thủy, chị Đặng Vũ Thị Thanh Thủy. Nếu các chị cho nổ tối qua thì tốt mà chiều nay thì dở.


- Còn ngày mai ?


- Ngày mai… Tôi nheo mắt, mỉm cười.


Chúng tôi nói chuyện khác chẳng nhằm nhò gì tới chuyện tranh đấu. Sau kẻng báo ngủ, chị Thanh gửi thông điệp bình yên cho chúng tôi bằng bài hát O’ Cangaceiro. Chị ấy chưa bị đánh. Nếu đã bị đánh, chị ấy đang nằm ôm vết thương mà rên rỉ. Tôi cố hình tượng chị Thanh, dĩ vãng gấm hoa của chị và hiện tại tan nát. Có những con người ta không thể hiểu nổi. Có những con người mà gặp họ, hiểu họ, ta phải xét lại mình. Nửa đêm, chị Jacqueline mò lại chỗ tôi nằm, bàn tiếp chuyện cứu các chị ở đội chăn nuôi ra khỏi cachot. Tôi nói thật với chị ấy rằng, tôi đã đọc nhiều sách và tôi chưa hề thấy bất cứ một cuộc nổi dậy nào của tù nhân thành công cả. Sau mỗi vụ nổi dậy là mỗi kỷ luật xiết chặt hơn. Cộng sản sợ tĩnh, không sợ động. Nó sẽ kiểm soát hết tư tưởng của mình bằng hành động chống đối để hành hạ mình cho đến khi mình chết. Người tù cộng sản cần dấu kỹ nanh vuốt. Chị Jacqueline không đồng ý thế. Tôi nói đó là ý nghĩ của riêng tôi nhưng tôi không thể tách riêng tôi khỏi mọi người. Cuối cùng, chúng tôi thỏa thuận một phương thức đấu tranh cho những ngày sắp tới.


Hôm sau, coi như mọi chuyện đã được Ba Tơ giải quyết hợp tình hợp lý, cả trại hân hoan đi lao động. Trong sân tập họp, chúng tôi giữ trật tự tối đa. Ngoài hiện trường lao động, chúng tôi làm việc tích cực. Về nhà, chúng tôi ăn ngủ đúng giờ giấc; họp đội, họp nhà, phê bình, kiểm điểm, rút tỉa kinh nghiệm, học tập nội quy, thảo luận Nếp sống văn hóa mới... Tuyệt nhiên, không còn ai nhắc tới chuyện cũ và cũng chẳng tụ tập từng nhóm tán gẫu. Một tuần lễ trôi qua, vệ binh và cán bộ trực trại hết theo rỗi. Sang tuần thứ hai, buổi sáng, tù nhân không lĩnh cơm sáng nhưng vẫn tập họp đông đủ và vui vẻ đi lao động. Buổi trưa, tù nhân lại lĩnh cơm. Giám thị Ba Tơ đã được nhà bếp báo cáo. Y chưa tỏ thái độ. Buổi chiều, chúng tôi vẫn lao động bình thường. Đội của tôi nhập trại sớm nhất. Thay vì về nhà, chị Jacqueline cho đội ngồi giữa sân trại, hàng đôi ngay ngắn. Trực trại ngồi trong chòi không hiểu chuyện gì sắp xảy ra. Y phải kiểm soát quân số của đội kế tiếp. Đội kế tiếp rồi đội kế tiếp. Tất cả theo lệnh của đội trưởng mình, trong hàng ngũ, ngồi gần nhau. Ba hồi kẻng tù tan lao, chấm dứt buổi chiều làm việc mệt mỏi. Mặt trời thấp dần, thấp dần. Cả trại tù ngột ngạt. Vệ binh tíu tít xách súng chạy ra ngoài vòng giây kẽm gai, bỏ dở bữa cơm chiều. Quản giáo lăng xăng điều nghiên tình hình. Cổng trại khép kín. Tù nhân ngồi im lặng, tuyệt đối im lặng. Giám thị Ba Tơ xuất hiện cách chúng tôi hơn mười thước. Đằng sau y, một tiểu đội vệ binh, AK dựng lưỡi lê, đạn nạp sẵn sàng.


- Các chị nổi loạn hả? Ba Tơ hất hàm hỏi.


Jacqueline đứng dậy trong tư thế nghiêm.


- Báo cáo ông Giám thị, chúng tôi không nổi loạn.


- Vậy, muốn gì?


- Chúng tôi chưa thấy ông tha các bạn tôi ra khỏi cachot.


- Ban giám thị còn nghiên cứu.


- Chúng tôi ngồi đây đợi ông nghiên cứu.


- Thế là nổi loạn, là chống nội quy, chống pháp chế của nhà Nước.


- Chúng tôi không chống gì cả. Nếu ông không hứa thả các bạn tôi, chúng tôi đã không ngồi đây.


- Các chị hoàn toàn chịu trách nhiệm.


- Chúng tôi chấp nhận. Ông hãy nhốt cả ngàn người vào cachot ngay đi, nếu ông muốn.


Một đàn em của chị Jacqueline đứng lên, phanh ngực ra:


- Đừng có dọa, Ba Tơ! Có ngon thì bắn giữa tim tôi đây nè! Tụi này sợ sống hơn sợ chết, nghe chưa!


Tù nhân vỗ tay. Náo động khởi sự. Ba Tơ nghiến răng, vung tay:


- Được, rồi sẽ biết.


Y bỏ về doanh trại. Tù nhân cười rộ để nhạo y. Hôm nay, Ba Tơ không mềm mỏng vì y «ngửi» được vấn đề. Các chị bụi đời thay phiên nhau đứng tố cáo Ba Tơ gian ác. Bóng tối đã phủ mờ Trại Cải Tạo Long Thành. Cô bé Hoa của tôi nhập cuộc như một chiến sĩ ! Cô muốn tẩy sạch một vết sẹo cộng sản ô uế trong đời cô. Cô trấn an những người tham gia một cách bất đắc dĩ. Và cô dõng dạc tuyên bố:


- Tôi chưa hề là phản động, bây giờ tôi là phản động. Bất cứ ở không gian và thời gian nào, mỗi cuộc cách mạng bạo động hay nổi dậy vô duyên cớ, những tay giang hồ hảo hán, những kẻ bị liệt vào hàng du thủ du thực, đều đóng vai trò xung kích. Thiếu đàn anh chị, cách mạng thiếu lửa và khó nổi đình đám. Những kẻ không biết sợ hãi, dễ dàng tham dự bạo động và tham dự nhiệt tình, sôi nổi. Nhiệt tình của họ đã cuốn hút những người cầu an.


Chị Hai Ba Dạng sát cánh chị Jacqueline. Đó là hai linh hồn của đêm nay.


- Tối nay chúng ta bỏ ăn và thức suốt đêm!


Jacqueline nói. Tù nhân hoan hô. Tiếng nói của hai nghìn đàn bà, con gái văng vẳng một khoảng trời. Tôi nhìn lên. Những vì sao đã mọc. Những vì sao rung rinh vì lâu đài âm thanh phẫn nộ ở dưới. Ba Tơ chắc đang ve ke hoạch đàn áp. Y sẽ phải điện thoại báo cáo tình hình về Sài Gòn. Tù nhân bắt đầu hát. Bài «Việt Nam, Việt Nam» phóng ra. Tín hiệu của trái tim vừa gửi đi. Hai xe cam nhông đầy nhóc bộ đội từ quận Long Thành cũng vừa đổ xuống trước cổng trại. Súng đạn đã dàn ra. Tiếng hát đang bốc lửa. Những người tê bại đã chống gậy khập khiễng rời nhà đến với cuộc chơi lớn. Đêm lịch sử đàn bà khỏi sự. Bao giờ trời sáng ? Chẳng cần biết. Trời sáng sẽ thế nào? Chẳng thèm hiểu. Hãy nhớ đã có một đêm đàn bà lên tiếng trước bạo lực. Tôi theo một nhóm chị em tiến về phía khu cachot. Phá những ổ khóa này cũng dễ thôi. Sẵn dao nhà bếp và búa bổ củi đó. Cánh tay chị Jacqueline vung lên, xích xiềng nào chịu nổi. Nhưng đã thỏa thuận với nhau không bạo động, chúng tôi chỉ đứng bên ngoài chuyện trò.


Tôi đến sát cửa connex, cái hộp sắt nhốt chị Thanh.


- Chào chị Thanh, tôi lại thăm chị.


Chị Thanh thò cánh tay ra ngoài:


- Tự do hả? Tôi biết có một khoảng tự do.


Con dế bị nhốt vào cái hộp diêm như chị Thanh bị nhốt vào cái connex. Người Mỹ, ngoài còng, khóa, còn để lại Việt Nam Connex. Thùng chứa đồ của họ hôm qua, hộp đầy đọa tù nhân của cộng sản hôm nay. Cộng sản chế biến thêm một chút để cánh cửa luôn luôn hé mở vừa đủ thò cánh tay ra. Tù nhân thở hít nhờ kẻ gió bủn xỉn đó. Nắng nhiệt đới nung connex. Connex hấp tù nhân. Con người đã nằm trong hộp sắt phơi nắng lửa ấy, tháng này qua tháng khác, ở các trại tập trung cải tạo có connex. Ban đêm, sương xuống nhiều, lạnh thấu xương. Vào mùa mưa, nằm connex, con người là cục đá ngâm dưới lòng suối.


- Chị lạnh không, chị Thanh?


- Tôi ấm lắm. Các chị đã sưởi ấm lòng tôi.


- Mụ Ba Gà chỉ bị thương nặng. Chị đừng ngại.


- Tôi không chí tình giết nó.


- Quên mất, tôi có vấn cho chị it điếu thuốc rê.


Tôi đưa thuốc và hộp quẹt cho chị Thanh. Chị bật que diêm, mồi thuốc hút.


- Ban ngày, tôi phải nhẩy choi choi. Như thế, mới đỡ nóng. Mồ hôi ra nhiều, tôi khát nước vô tả. Chúng nó bố thí có chút xíu nước lã. Ban đêm, tôi ngồi co ro, lạnh muốn phát điên. Giá đông người vô đây, ban đêm ôm nhau sẽ đỡ lạnh. Nhưng ban ngày thì khốn nạn! May mà chúng nó cho ăn ít uống ít nên cái xô phân bớt hôi hám.


Chị Jacqueline đã mang ca nước chanh đường lại. Kẽ hở quá hẹp không thể đưa vào. Mỗi lần đưa cơm nước, cai tù phải mở khóa. Chị Thanh đã đứng bên trong connex, ngậm cái miệng ca mà uống.


- Ở tù cộng sản tôi mới tìm thấy hạnh phúc ở ca nước lã. Tôi tập truy nã thân phận tôi. Tôi đã hư hỏng, phí phạm đời mình.


Chị Jacqueline nói đùa:


- Mày sẽ vá lại đời mày, Con Lan xì ke ạ!


Rồi chị bỏ đi.


- Chị Lan, tôi cam đoan với chị, tôi không chết trong connex đâu.


Tôi nắm tay chị:


- Không, chị cần cưỡi ngựa đóng phim O’ Cangaceiro. Đất nước cần nhiều người như chị. Ai cũng có quyền làm lại vì cả nước phải làm lại. Tôi về với mọi người nhé!


Chúng tôi chia tay nhau. Về khuya, những bài ca chính huấn vang vọng như thác gầm. Những người vừa mới được thăm nuôi, về nhà lấy đường và chanh pha nước mời tất cả. Biết chiến đấu là biết chia sẻ. Tôi qua chỗ chị Nga. Chị đang ngồi trầm tư giữa đám đông náo loạn. Một trời sao trên đầu tôi.


- Chị nghĩ thế nào, chị Nga?


- Đây là trò chơi năm 1963 và những năm kế tiếp của chúng ta. Trò chơi đẹp và cần thiết.


- Em lại thấy chị ưu tư?


- Chị đang nghĩ một trò chơi ngoạn mục hơn. Không phải ở trong tù, ở ngoài cuộc đời. Sài Gòn chẳng hạn. Chị vừa hiểu cái giá trị động của các chị em giang hồ, bụi đời. Họ hơn hẳn trí thức chúng ta trong hành động.


- Em đã nghĩ vậy.


- Nếu từ 30-4-1975, chúng ta biết kết hợp họ, họ sẽ lý tưởng hơn bất cứ giai cấp nào.


- Ngày mai, chị Nga?


- Ngày mai, họ sẽ mở đường và chúng ta sẽ vào con ngõ cụt buồn nản. Em hãy nhớ, hoặc em, hoặc chị, chúng ta cần sống sót.


Tôi bỏ chị Nga về với đội. Vì chúng tôi không bạo động, nên cái vòng đai công an, bộ đội bên ngoài vòng đai kẽm gai không có cố đàn áp. Họ bỏ mặc chúng tôi hát hò. Họ gài bẫy cho chúng tôi sa xuống. Nhưng chúng tôi đã khôn lớn. Quá khuya, chúng tôi ngồi im lặng, nón mũ trên đầu, hàng lối nghiêm chỉnh. Sự im lặng của tù nhân khiến cai ngục sợ hãi. Họ không hiểu chúng tôi sắp làm gì. Đêm không ngủ của chúng tôi cũng là đêm không dám ngủ của cộng sản.


***


Chương 13


Bẩy giờ sáng hôm sau, đáng lẽ, đang lao động ngoài hiện trường, chúng tôi vẫn ngồi bất động giữa sân trại. Cái kẻng tù hôm nay quên gầm gừ. Vòng đai công an vũ trang và bộ đội còn nguyên đó. Mặt trời đã chiếu những tia nắng đầu ngày. Ba Tơ đứng ở hành lang văn phòng của y quan sát cùng khắp. Một chiếc xe du lịch chạy vào phía cổng trại, dừng lại, bóp còi. Ba Tơ đích thân chạy ra mở khóa, kéo rộng cửa. Chiếc xe vô sân, lái rẽ bên phải rồi đậu trước văn phòng giám thị. Ba Tơ đuổi theo chiếc xe. Bốn người trên xe bước xuống. Họ leo lên bậc tam cấp, vào văn phòng. Nửa tiếng trao đổi giữa họ và Ba Tơ, bốn người y phục đại cán, nón cối, dép râu và Ba Tơ đến trước mặt chúng tôi.


Một người hỏi:


- Ai đại diện các chị?


Im lặng. Người này hỏi tiếp:


- Ai đại diện? Giọng ông ta không vướng víu chút giận dữ nào?


- Thưa ông, không có ai đại diện ai cả? Chị Hai Ba Dạng lễ độ trả lời.


- Các chị rất đáng biểu dương. Tôi đã được nghe đồng chí giám thị báo cáo đầy đủ. Khuyết điểm là do đồng chí giám thị trại giải quyết vấn đề chậm trễ. Các chị đã vi phạm Nội quy trại nhưng được khoan hồng vì các chị biết bảo vệ tài sản của nhà Nước, không phá phách. Bây giờ, chúng tôi, đại diện trung ương, đến đây giải quyết khẩn trương mọi yêu cầu của các chị.


Người thứ hai tươi cười:


- Chúng ta làm việc ngay nhé. Nào, các chị muốn gì?


Chị Hai Ba Dạng đáp:


- Nhiều người bị bệnh tê bại, cần ăn cám mà không có. Họ muốn được ăn cám thêm vào khẩu phần hàng ngày.


- Đâu, những người tê bại đâu?


Chị Hai Ba Dạng đứng im. Tự động những người tê bại đứng lên, tay vẫn chống gậy. Có tới hai trăm tù nữ đói cám!


Chúng tôi sẽ tạo điều kiện thuận lợi để sớm có cám. Người thứ hai hỏi tiếp:


- Còn gì nữa?


- Nhiều người bị bệnh huyết trắng vì ăn độn nhiều sắn, củ cải và lao động cực nhọc.


Gần hết trại đứng dậy, không chờ lệnh.


- Sẽ bổ xung bác sĩ và thuốc men.


Chị Hai Ba Dạng nói:


- Vì thế, một số chị em bị kỷ luật trong cachot.


- Chúng tôi thả họ ra ngay bây giờ.


Người thứ hai hất đầu. Ba Tơ sai trực trại xách chìa khóa mở cửa các cachot. Chúng tôi ngước mắt về phía đó. Các chị ở đội chăn nuôi và chị Lệ Thủy thất thểu bước theo anh công an trực trại. Họ không đến với chúng tôi mà về thẳng nhà của mình.


- Chính sách của Đảng và Nhà nước trước sau như một. Đã nói khoan hồng là khoan hồng, chỉ cần các chị tỏ vẻ ăn năn sám hối và tiến bộ thôi. Nhân tiện, ngay đây, tôi báo cho các chị tin mừng: Một số người sẽ được trở về xum họp gia đình hôm nay.


Khác hẳn những lần đọc quyết định trả lại tự do mà chị em ở Long Thành đã chứng kiến, người thứ ba mở sà cốt, lôi ra mấy tờ giấy đánh máy, đọc lệnh tha tại chỗ, vất bỏ những thủ tục rườm rà. Sau khi chiếu điều này, điều nọ, chúng tôi nghe tên các chị viên chức của chế độ cũ và các chị can tội buôn bán bất hợp pháp. Không khí phấn khởi vụt dậy, ít ra, từ những người nghĩ rằng mình phạm tội vớ vẩn, sẽ được tha. Và người ta vỗ tay hoan hô. Sự vỗ tay đi ra ngoài chương trình hành động và ngoài cả sự toan tính của chúng tôi.


- Các chị có tên được tha, hãy về nhà chuẩn bị đồ đạc cá nhân rồi lên văn phòng làm thủ tục, lấy giấy ra trại.


Năm mươi người được tha, đứng dậy, bỏ hàng ngũ. Người thứ hai nói:


- Còn tất cả, tất cả cũng sẽ được tha. Tha hết. Ai muốn tốn cơm nuôi các chị. Bây giờ, các chị về nhà nghỉ ngơi, trưa nay ăn uống bình thường, buổi chiều miễn lao động. Còn ai đề nghị gì không?


Không ai trả lời. Cuộc đấu tranh chấm dứt vì mọi yêu cầu đều được thỏa mãn. Tù nhân giải tán tự do. Cộng sản đáng sợ thật. Có nhiều Ba Tơ ngu xuẩn, nhiều vệ binh, quản giáo đần độn nhưng rất nhiều thứ «trung ương» gian ác, thủ đoạn tua tủa. Tôi tự nhận mình chưa phải là đối thủ của cộng sản. Như lời Sử gia của Đảng phán xét, tôi ngoan cường chứ không gian ngoan. Giải quyết êm thấm vụ tuyệt thực tranh đấu, bốn ông «trung ương» rời trại. Ngay buổi chiều, năm mươi chị em được tha cùng rời trại thơi thới, hân hoan. Giám thị Ba Tơ không hề nhắc nhở nửa lời về cái đêm không ngủ của tù nhân. Sinh hoạt trại trở lại bình thường, tẻ nhạt. Tất cả đều dè dặt và nghi kỵ nhau. «Chúng ta sẽ đi vào trong ngõ cụt, buồn nản.» Chị Nga đã nói thế và y như rằng. Tôi có thì giờ cám ơn chị Lệ Thủy đã dành cho tôi nhiều cảm tình quý báu. Chị lắc đầu từ chối. Chị bảo, còn người xứng đáng để chị bênh vực là chị còn ham sống, nói chi ân huệ.


Ba hôm sau, buổi sáng tập họp chờ đi lao động, mười chiếc xe vận tải vào trại. Và hàng chục cán bộ văn phòng trại đến đọc danh sách những người chuyển trại. Danh sách thứ nhất gồm 250 tù nhân gồm các chị viên chức chế độ cũ và các chị bụi đời sững sờ, phản động ngoan cường. Chị Nga, chị Hai Ba Dạng, chị Lệ Thủy nằm trong danh sách này. Họ về nhà chuẩn bị hành trang rồi ra ngay. «Khẩn trương», đó là dấu hiệu quen thuộc đến nhàm chán. Như lần tôi rời đề lao Gia Định tới đây, tù nữ, từng cặp đeo còng leo lên xe. Khác một chút là họ rình rang nồi niêu, xoong chảo và thực phẩm do gia đình tiếp tế. Năm chiếc xe chở 250 tù nhân đến một trại nào đó, tôi không biết. Nhưng tôi biết chắc sự ra đi của họ là hậu quả của đêm không ngủ và cái danh sách thả 50 người về xum hợp với gia đình đã có sẵn, hoặc tha sau hoặc tha đúng lúc. Cộng sản luôn luôn gian ngoan, họ đã lợi dụng đúng thời điểm để làm tan rã mọi âm mưu chống đội họ. Họ vuốt ve êm dịu rồi phóng một trái đấm bất ngờ.


Chưa đầy nửa tiếng, năm chiếc xe đã biến khỏi trại. Chúng tôi thì vẫn ngồi xếp hàng giữa sân. Nhiều con mắt ngơ ngác. Nhiều trái tim đập mạnh. Năm chiếc xe còn lại đã trở đầu ra phía cổng. Một nửa cánh cửa chấn song sắt đã hạ xuống. Tấm vải bố đã kéo lên. Danh sách thứ hai gồm 300 người. Có chị Jacqueline, có bé Hoa và tôi. Cảnh tượng lại diễn ra như vẫn diễn ra. Chúng tôi đeo còng, lên xe rời Long Thành. Lực lượng đấu tranh bị phân tán mỏng. Chuyến đi thiếu chị Nga, tôi cảm thấy lẻ loi. Bao giờ mới gặp lại chị? Trong lao tù, mọi chia ly tưởng chừng mọi vĩnh biệt muôn thuở. Và nếu còn thấy nhau, đó là hạnh ngộ.


Quá trưa, chúng tôi vào đất Xuyên Mộc. Xuyên Mộc, cái địa danh nghe đã não nề. Đi qua gỗ, chúng tôi phải đi qua gỗ, chúng tôi phải xuyên qua gỗ, chúng tôi phải xuyên qua gỗ bằng hình phạt của thù hận. Tôi chợt nhớ một truyện ngắn của nhà văn Marcel Aymé, nhan đề «Le passe-muraille». Người ta chỉ có thể đi qua bức tường gạch bằng mộng du và bằng sự mơ mộng của nhà văn. Chúng tôi đi qua tường, xuyên qua gỗ bằng hiện thực và bằng sự gian ác của cộng sản. Bằng cái mà họ gọi là «cải tạo tư tưởng» một cách kiêu hãnh. Thế giới luôn luôn bị huyễn hoặc, bị lừa gạt bởi danh từ cộng sản. Họ không thể hình dung nổi những trại tập trung cải tạo tư tưởng mọc giữa những đầm lầy, chênh vênh trên sườn núi, hun hút trong rừng già và những việc ghê tởm mà tù nhân bị cưỡng bức lao động và những làn roi giây điện, những cú đấm, cú đá mà tù nhân phải hứng chịu nhục nhã. Và, họ vô tư khiến phẫn nộ, bảo đầm lầy Nam Hà, đề lao Gia Định, khám lớn Chí Hòa, nhà tù Hỏa Lò, trại kỷ luật Phú Khánh là những «re-education camps»! Còn cái lò sát sinh Phú Văn, nơi có ngọn đồi Fanta chôn hàng ngàn trẻ con vô tội thì gọi là «camp» gì nhỉ? Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, tôi mới thấy mình quá dốt địa lý Việt Nam. Tôi vừa biết hàng chục ngàn địa danh mới mẻ, nhờ mỗi địa danh mới mẻ ấy là một nhà tù. Xuyên Mộc, địa danh mới. Nó là hòn đảo chính của quần đảo hãi hùng. Những hòn đảo nhỏ quấn quýt gần nó: Bầu Lâm, Bà Tô, Sa Ác... Tôi rơi vào Sa Ác, vào chỗ chết!


Tổ chức của trại Sa Ác giống hệt tổ chức của trại Long Thành. Nó có vẻ rùng rợn hơn vì nó nằm giữa rừng già. Nhà cửa luộm thuộm những bốn lớp hàng rào kẽm gai. Sổ tù Sa Ác ghi tên tôi đúng ngày tổng thống Reagan nhậm chức. Thế là tôi đã ở tù trải qua ba đời tổng thống Mỹ. Ngày hôm sau, 300 người chúng tôi bị biên chế thành 6 đội, bị lùa vào khu vực riêng, bị cấm đoán không được liên hệ với tù cũ. Chúng tôi thuộc các đội trừng giới và phải làm những công việc của đàn ông lực lưỡng. Cai ngục Sa Ác hành hạ chúng tôi đúng mức. Họ tính từng phút giải lao. Chúng tôi phải hạ những cây khổng lồ bằng dao cùn, cuốc mẻ, phải khiêng cây oằn vai, phải lao vào những bụi mây tua tủa gai nhọn phát hoang. Sa Ác, trước thời chiến tranh, là khu vực oanh kích tự do. Những hố bom lớn, sâu ngổn ngang đây đó. Cai ngục bắt chúng tôi phá gò mối trăm năm, đất rắn như đá, khiêng đất lấp hố bom. Bom Mỹ tạo ra hố, cộng sản sai chúng tôi lấp hố. Tôi nghĩ đã có nhiều hố bom ở Nicaragua và người Nicaragua cũng đang lấp hố bom giữa rừng như chúng tôi lấp hố bom ở Sa Ác. Nhân danh cái gì người ta ném bom? Và nhân danh cái gì người ta bắt chúng tôi lấp hố bom?


Tay tôi đã chai dầy. Có vài người kiệt sức, chết khi vác cây. Cây đè lên cái xác gầy ốm, đè lên thân phận làm người. Hèn hạ hơn cả, nó đè lên phụ nữ. Đàn bà sinh ra để tạo hạnh phúc cho đàn ông hay để chịu cực hình cộng sản? Tôi thèm nghe câu trả lời của một người đàn ông nào đó ở Washington, ở Paris, ở Londres hay ở Tokyo... Hay ở một người nuôi chó cái nổi tiếng trên thế giới cũng được? Hai tháng bị trừng phạt tưởng chừng hai thế kỷ, chúng tôi mòn mỏi, rạc rãi. Bệnh tê bại và huyết trắng tăng trưởng. Dinh dưỡng tồi tệ, thuốc men không có. Chỉ có họng súng dọa nạt, roi vọt quất vút và lao động chết bỏ. Tôi cầm chắc cái chết dù tôi rất thèm sống! Tôi có nhiều việc phải làm, một mai. Phép lạ giúp tôi tồn tại vẫn là ước mơ. Gần kề sự chết, nỗi ước mơ càng đằm thắm. Nhưng, đôi khi, nỗi ước mơ ngơ ngác, vì tôi chẳng còn thì giờ mơ ước. Tám giờ lao động trầy bả vai, nhỏ máu mắt, chúng tôi thèm ngủ hơn thèm ăn. «Ngủ đi em, ngủ mà quên. Cái buồn hoang dại làm điên cuộc đời.» Một giờ ngủ trưa, không đã. Ngủ thêm vài phút lúc ngồi giữa sân nắng chờ đi lao động. Ngủ trên đường ra hiện trường. Ngủ khi cầm dao cùn chặt rễ cây. Ngủ mệt mỏi. Ngủ khổ sở. Hình phạt Sa Ác đến đó tạm đủ. Người ta chuyển chúng tôi ra Bà Tô. Đến Sa Ác 300 tù nhân, qua Bà Tô còn 250. Hai tháng, một lò sát sinh hạ bao nhiêu con bò? Hai tháng, địa ngục Sa Ác chôn vùi 50 tù nữ!


Ở Bà Tô, chúng tôi bị ngược đãi không kém ở Sa Ác! Người ta dùng đòn lao động và roi gạo cải tạo chúng tôi thành những con người hèn hạ, đê tiện. Chẳng còn ai thiết nói chuyện đấu tranh, tâm tình. Người ta đã thù ghét nhau vì bát cơm đầy, bát cơm vơi. Người ta giành giật, đánh lộn, nguyền rủa nhau. Và, người ta xa nhau. Chúng tôi đã đi vào con ngõ cụt. Tôi càng ghê sợ thủ đoạn của cộng sản. Với đàn bà, con gái, họ cũng không khước từ chơi độc. Chúng tôi ở Bà Tô thêm hai tháng. Khi tất cả chúng tôi mắt mờ, chân mỏi, hình hài ma ốm, người ta lại chuyển về Long Thành. Cái danh sách có chị Nga chưa thấy về. Và chị Thanh vẫn nằm trong connex. Hầu hết các chị dân biểu, nghị viên, thẩm phán, viên chức thư lại ở lại Long Thành sau một «biển dâu tan tác» đã được tha về. Không hề có thêm cám cho những người bị tê bại. Cũng chẳng bổ xung bác sĩ, thuốc men. Ba Tơ vẫn lừng lững, vẫn đích thân quất roi da xuống mông tù nhân vi phạm kỷ luật, vẫn chọn đàn bà, con gái kháu khỉnh lên phòng y tế khám nghiệm xem có phải là điếm không!


Trại Long Thành, trại tù đàn bà kiểu mẫu của chế độ, không một chút thay đổi. Hình như nó nham hiểm hơn. Giám thị Ba Tơ là biểu hiện của chế độ. Đôi khi, tôi thấy ông giống hệt ông Hồ Chí Minh. Đôi khi, tôi lại thấy y giống hệt tên đồ tể. Và, thường thường, tôi thấy y như con bọ hung. Tôi, bây giờ, thuộc quân số đội nông nghiệp trồng khoai, trồng ngô. Công việc có nhàn hạ nhưng chán nản vô cùng. Một số người đã phát điên. Phần còn lại thì rã rời, bạc nhược cả thể xác lẫn tâm hồn. Tôi nhớ chị Nga. Không dám nghĩ chị đã chết vùi dập ở xó rừng nào, nhưng nếu chị chết, chị đã để di chúc cho tôi. Tôi sẽ định nghĩa đời sống như thế nào? Trước đây, tôi không tin rằng chết sướng hơn sống và hôm nay tôi cũng không tin rằng chết sướng hơn sống. Tôi sẽ phải định nghĩa thêm về cái chết nữa. Một tháng Long Thành lại sức, người ta gọi những cô gái điếm và tình nghi điếm, tuyển chọn từ các trại tập trung khác nhau về, lên làm việc liên tiếp năm sau ngày.


Cả trại xôn xao, lo lắng. Tất cả đều nghĩ Ba Tơ xét lại «vụ án đêm không ngủ» năm tháng qua và khai thác gái điếm để tìm ra những kẻ chủ mưu. Một căn nhà riêng dành cho các cô ở, sau khi đã làm việc với Ba Tơ. Sự phỏng đoán có phần đúng. Ba Tơ sợ các cô gái điếm bị trả thù ngay tại phòng của mình. Quản giáo đích thân dẫn các cô chuyển phòng. Cô bé Hoa của tôi cũng được gọi lên làm việc vào ngày cuối cùng. Khi trở về, bỏ bữa cơm chiều, cô nằm khóc rưng rức.


- Chuyện gì đã xảy ra cho em? Tôi hỏi.


- Khủng khiếp lắm chị ạ. Cô tấm tức trả lời.


- Họ bắt em chỉ điểm những người chủ mưu đêm không ngủ, hả?


- Không.


- Thế sao?


- Họ dọa em, họ bảo họ sẽ nhốt em suốt đời vì em đã nhận tội phản động. Rồi Ba Tơ đưa em tờ giấy bắt em ký tên. Em đọc, em hoa mắt, không dám ký.


- Giấy nhận tội?


- Không, giấy tình nguyện làm điếm !


- Thật vậy ư?


- Vâng, tình nguyện phục vụ các đồng chí Liên Xô thì sẽ được tha ngay, sẽ được bồi dưỡng no đủ. Ba Tơ kêu gọi lòng yêu nước của em. Nó bảo làm điếm là yêu nước, là đóng góp công sức vào chế độ xã hội chủ nghĩa, vào tình hữu nghị Việt Xô đời đời bền vững.


- Và em từ chối?


- Dứt khoát em từ chối.


Cô Hoa lại khóc. Tội nghiệp cô bé. Số phận cô như số phận anh nông dân Moritz trong Giờ thứ 25. Một người vì có nhan sắc mặn mà, một người vì nhan sắc của chính mình mà lận đận tù ngục. Anh Moritz thì phải ký giấy xin được chống cộng sản với người Mỹ. Còn cô Hoa thì phải ký giấy tình nguyện làm điếm cho cộng sản. Thân phận con người, trong thời đại của tôi, sao mà hẩm hiu thế. Tôi tự hỏi, trong Đoàn Thanh Niên Cộng Sản Hồ Chí Minh thiếu gì thanh nữ đẹp đẽ, đẫy đà mà Bộ Chính Trị Trung Ương Đảng không kêu gọi họ yêu nước tích cực, yêu nước hiện thực xã hội chủ nghĩa, khích lệ họ trở thành những dũng sĩ, anh hùng của chế độ trong nhà điếm quốc doanh. Lại phải tuyển lựa điếm nhà nghề ở cac trại cải tạo phục hồi nhân phẩm! Làm điếm cho Mỹ là mất nhân phẩm làm người. Nhưng làm điếm cho cộng sản là... yêu nước. Tưởng những ai đang yêu nước dưới những cái bảng hiệu «Trí thức yêu nước», «Việt kiều yêu nước» nên có phút giây suy nghĩ. Bởi vì gái điếm đã được đề cao và đánh giá cao hơn mọi thành phần yêu nước. Vết son của chủ nghĩa cộng sản hôm nay, nỗi bùi ngùi của xác chết trong hòm kính!


- Em phải làm gì, chị Lan? Hoa nghẹn ngào hỏi.


- Làm gì? Chị không biết mình sẽ phải làm gì nếu họ bắt chị tình nguyện… yêu nước. Đừng trách chị nhé, Hoa ! Chẳng có lời khuyên nào cho em cả.


- Cám ơn chị. Em nói với họ để em suy nghĩ hết ngày mai.


Hoa thôi khóc. Hôm sau, ở hiện trường lao động, vào khoảng 9 giờ, cô xách cuốc lại chỗ vệ binh ngồi gác, báo cáo đi vệ sinh. Bất thình lình, cô phóng tới, dùng cuốc bổ tới tấp. Vệ binh không kịp phản ứng. Y lãnh mấy nhát thù hận, nằm ngay đơ. Hoa vớ khẩu AK, dộng báng súng lên đầu vệ binh. Cô điên rồ. Cơn điên tăng sức mạnh cho cô. Máu tên vệ binh phọt ra làm cô ngây ngất. Hoa cười ha hả. Tôi đứng thẫn thờ nhìn cô, không thể nói được lời nào. Quản giáo sợ xanh mặt. Vệ binh thứ hai lúng túng vài phút rồi lên đạn, chĩa mũi súng nhắm Hoa. Cô thét lớn:


- Tao thà chết, không làm điếm cho cộng sản!


Hoa buông khẩu AK xuống, dang hai tay, ngước nhìn trời. Một băng đạn găm suốt vô ngực Hoa. Cô gục ngã. Máu của Hoa đã đổ trên luống khoai cải tạo. Hoa chọn cái chết êm ái. Trại nổ súng báo động. Các đội thu dụng cụ nghĩ làm. Đội trưởng ở lại. Chúng tôi về. Tôi cố nhìn Hoa lần cuối. Xác cô phơi dưới nắng, máu vẫn ứa ra. Nhân danh ai để tôi vinh tôn một thiếu nữ biết bảo vệ phẩm cách con người? Thôi, nhân danh những giọt nước mắt của tôi vậy. Sẽ có ngày, tôi tìm đến nấm mồ của Hoa, đọc bài điếu văn muộn.


Cái chết của Hoa được coi rất bình thường. Người ta sẽ ghi vào biên bản vỏn vẹn dòng chữ: «Trốn trại, bị bắn chết». Không có ủy ban nào điều tra, mất thì giờ vô ích. Buổi chiều chúng tôi ra hiện trường lao động, xác của Hoa đã đem vùi lấp ở nghĩa địa Long Thành. Chỉ còn những vết máu khô quánh. Vệ binh truyền lệnh mới: Báo cáo cách xa hai mươi thước. Quản giáo không thích gần tù nhân. Vụ khoai sắp tới, tôi muốn được ăn một cũ giữa luống thấm máu Hoa. Để suốt đời tưởng mộ nàng, suốt đời nhớ sự vô liêm sĩ của công sản. Những cô điếm yêu nước bị cách ly với chúng tôi. Thế càng tốt. Họ được ăn cơm trắng ba bữa, ăn thỏa thuê, ăn với thịt bò, thịt heo, tôm, cá, trứng, rau... Họ được nuôi nấng đúng tiêu chuẩn ngang hàng tiêu chuẩn cấp thứ trưởng. Họ được phát quần áo mới, vừa vặn, lộng lẫy. Họ được tặng son phấn, nước hoa, gương lược... Hơn tháng trời chăm sóc, Đảng ta trả tự do cho họ và phát thẻ điếm quốc doanh, sẽ phát thẻ đoàn viên, đảng viên nếu họ móc nhiều đồng «rúp» và hài lòng cố vấn Liên Xô.


Tháng 7 năm 1982, chị Nga trở lại Long Thành cùng một trăm người khác,thân tàn ma dại. Tóc chị bạc quá nửa. Da dẻ chị đen xạm, chân tay khẳng khiu. Chị nói chị đã bị lao. Rời Long Thành, chị đến Hàm Tân, bị đầy đọa ở trại Z30DK1, mấy tháng ròng rã đào gốc cây buông. Ở Hàm Tân, người ta thả hết các viên chức chế độ cũ. Chị Lệ Thủy trốn trại, bị bắt, bị đánh đập thê thảm. Sau đó, chị Nga đi Phú Khánh rồi Pleiku rồi Gia Lai rồi về Long Thành. Mỗi lần đi, mỗi lần để lại vài xác chết. Tính ra, chị Nga đã ở sáu nhà tù. Chị bảo trại tập trung nào cũng thế, nhà tù nào cũng vậy. Ánh sáng hay là bóng tối của chủ nghĩa đều nhầy nhụa, vàng bủng, tanh tưởi, lợm giọng. Tôi kể cho chị Nga nghe chuyện xảy ra ở Sa Ác, ở Bà Tô và cái chết của Hoa.


- Có thay đổi trong tâm hồn chị, Lan ạ!


- Đổi thay thế nào?


- Bài diễn văn đọc trước Quốc Hội Mỹ tầm thường quá. Nước Mỹ không phải là trái đất và dân tộc Mỹ không là loài người. Chúng ta sẽ soạn thảo Bài diễn văn đọc trước loài người.


- Còn còng Mỹ ?


- Vẫn là còng Mỹ thôi. Chúng ta không muốn còng Mỹ xuất hiện ở khắp nơi trên trái đất, kể luôn nước Mỹ.


- Còn cộng sản?


- Ta vẫn mong muốn họ làm người. Hãy giúp đỡ cộng sản làm người. Làm người, họ sẽ hết là cộng sản. Họ sẽ biết yêu thương và mơ ước.


- Còn sự phản bội của chính sách Mỹ?


- Bỏ đi. Nên cảm thông và tha thứ. Chúng ta làm lại quê hương chúng ta, làm lại trái đất bằng những trái tim không vấn vương quá khứ thù hận, không dính líu hiện tại ủ ê.


- Từ cảm hứng nào chị thay đổi?


- Từ những búng máu trong phổi chị trào ra. Từ còng Mỹ, từ roi vọt cộng sản... Và, có thể, từ cái chết của chúng ta.


- Chị cứ nói đến cái chết, buồn quá.


- Phải dọn sẵn cái chết, em ạ! Nếu chị chết trước em…


- Nếu chị chết?


- Nhớ rằng, có một thời để im lặng và một thời để lên tiếng. Thời để lên tiếng chưa tới, em lên tiếng sớm, tiếng nói của em sẽ chìm vào hư vô.


- Làm sao mình biết đúng thời lên tiếng?


- Sống đi, rồi sẽ biết. Hình như, bên ngoài người ta đang ồn ào lên tiếng. Em biết chứ, đó là tiếng nói chết.


Chị Nga ôm ngực ho.


- Có lẽ, chị không được tham dự một trò chơi ngoạn mục đâu.


Tôi thấy nhói tim.


- Thôi, nói chuyện khác, chị nhé !


Tôi hỏi thăm hai chị Lệ Thủy, Hai Ba Dạng, chị Nga nói họ còn ở Phú Khánh, trong xà lim vì dám khạc nhổ vào mặt giám thị. Chúng tôi bận bịu lao động, mệt nhoài khổ sai, ít có thì giờ gặp nhau. Dù vậy, lòng tôi đã được sưởi ấm vì chị Nga còn sống và đang chung trại với tôi. Một lần, trong nhà thương điên, tôi đã muốn trở thành nhà văn. Bây giờ, tôi khao khát trở thành nhà văn. Không cần phải nghi ngờ gì nữa. Chị Nhi chết hay chị Nga chết hay bao nhiêu người Việt Nam đã chết, đang chết và sắp chết đều để tạo thứ ánh sáng cứu rỗi nhân loại. Xưa, Thích Ca đã ngộ trong đau khổ. Và ánh sáng giải thoát đã áng lên trong nỗi mông lung khốn cùng. Ánh sáng ấy vẫn chỉ là thứ ánh sáng mới đến, kêu gọi thức tỉnh. Và sự giải thoát vẫn còn tiêu cực. Và loài người vẫn còn chìm đắm trong bể trầm luân. Nghĩ lại, thời đại của Thích Ca, tham vọng của con người bé nhỏ và nỗi khổ con người phải chịu đựng cũng đơn giản nên sông Hằng đã là to lắm. Nay, sau Ngài 2500 năm, tham vọng của con người vô hạn và nỗi khổ con người phải chịu đựng cũng vô hạn. Nỗi khổ con người phải chịu đựng từ những trò chơi tư tưởng của thế kỷ hai mươi phải tính bằng đại dương. Và nước mắt hòa với máu. Nỗi khổ ray rứt. Nỗi khổ đòi đoạn. Nỗi khổ thấm vào da thịt, vào lóng xương, vào ống máu. Và rụng rời nhất: Nỗi khổ trong ngục tù cộng sản. Chị Nga đã tới bằng nỗi khổ phá kỷ lục các nỗi khổ trên trái đất từ cổ chí kim, từ đông sang tây. Dẫu chị chết, và nói theo chị, nếu có thời để lên tiếng, thời ấy, chắc chắn, sẽ phải có những người Việt Nam cao quý phóng lên bầu trời mù mịt hận thù thứ ánh sáng huyền ảo cứu rỗi nhân loại, mở ra một nền văn minh, toàn chân, toàn thiện, toàn mỹ. Ánh sáng huyền ảo ấy, bắt buộc, là ánh sáng làm xao xuyến tâm tư, quyến rũ trời đất, thôi thúc lòng người: thứ ánh sáng bắt tìm đến, vụt thức tình nguyện. Và sự giải thoát sẽ tích cực, sẽ tạo dựng sự bình yên cho tâm hồn con người vĩnh cửu.


***


Chương 14


Vậy mà tôi còn gặp lại sử gia Nguyễn Bình Nam ở Long Thành. Ông ta bảo nhân tiện vô Sài Gòn công tác đột xuất, đến thăm tôi.


- Cô mạnh khỏe chứ, cô Ngô Kim Lan?


- Cám ơn ông Nam, bí danh Sử Gia, tôi chưa chết.


- Tôi rất mừng.


- Ông mừng gì?


- Mừng cô khỏe mạnh.


- Tôi thì lại thương hại ông. Ông có vẻ gầy đi. Ông nghĩ cách làm đau khổ chúng tôi nên ông hốc hác trông rõ. Ông không thích tâm hồn bình yên, thảnh thơi à?


- Thích chứ.


- Vậy ông nên sống thật một chút. Ông quen sống giả nên ông luôn luôn giả dối. Ông thừa hiểu cái động, cái ánh sáng ông ban cho tôi, nó đã đày đọa tôi tới mức nào. Thế mà, nhìn hình hài ông, ông nỡ hỏi tôi có mạnh khỏe không, ông rất mừng thì, quả nhiên, ông chưa là người, Sử Gia à!


- Cô vẫn ngoan cường. Gia đình cô thăm gặp cô đều đặn chứ?


- Tôi không cần thăm gặp.


- Đó là ý của cô. Cô chống chúng tôi đến bao giờ.


- Ông tự trả lời đi. Bây giờ, tôi thấy tôi vô cùng kiêu hãnh. Tôi đã chấp các ông hai tay và luôn hai chân. Khi đã còng tay, còng chân tôi lại rồi đấm đá, ông có cảm giác nhục nhã không? Có võ đài nào như thế không?


- Cô dùng nước trà đi.


Sử Gia, tạm coi đó là bí danh của Nguyễn Bình Nam - có lẽ cũng giả nốt – không chịu trả lời những câu hỏi của tôi. Ông ta ưa né tránh.


- Ông đừng mời tôi uống nước nữa.


- Tại sao?


- Vì ông chưa được làm người.


- Tôi sắp kết thúc cuộc trắc nghiệm tâm lý tuổi trẻ chống Đảng, chống chủ nghĩa cộng sản.


- Tôi hy vọng ông thành công.


- Phải thành công!


- Ông hơi chủ quan đấy, ông Sử Gia ạ!


- Cô chớ tưởng cô phi thường. Chúng tôi sẽ thả cô ra. Sẽ thả hết thành phần phản động ra. Cô thì làm nổi cái gì!


Sử Gia đấm mạnh vào tự ái của tôi.Tôi choáng váng mặt mày.


- Cô vẽ kế hoạch nổi loạn mấy tháng trước, ở Hà Nội, tôi biết hết. Đúng không?


Tôi dõng dạc đáp:


- Đúng.


- Trò chơi ấy không hợp thời và tự cô làm tàn tạ cô.


- Tôi thừa biết.


- Biết mà cô vẫn làm.


- Vì đám đông, vì thể diện, ông hiểu chưa?


- Tôi ngạc nhiên thấy cô tích cực lao động. Tư tưởng đang diễn tiến tốt thì cô dở chứng.


- Ông sẽ ngạc nhiên hơn nếu ông biết tôi tích cực lao động không phải vì sợ hãi, vì ham tiến bộ. Mà vì tôi muốn chứng tỏ thái độ của người trí thức: Trí thức có thể xuống hầm phân, đồng thời, có thể làm công việc mà cộng sản các ông không đủ trí tuệ nghĩ tới. Nói tóm lại, những gì cộng sản làm được, trí thức cũng làm được; những gì trí thức làm được, cộng sản không làm được.


Sử Gia mỉm cười kênh kiệu:


- Cô muốn nói đến hạng trí thức nào? Miền Nam nhiều trí thức lắm.Họ đang tụ tập ở Hội Trí Thức Yêu Nước. Có phải lũ trí thức bệ rạc đó không? Hay trí thức hải ngoại yêu nước để về nước phe phẩy, buôn bán tình ái, lừa gạt xuất nhập cảnh, chuyển lậu vàng, kim cương? Chúng tôi đã đánh giá bọn trí thức kể trên là đống phân trâu.Chúng tôi biết hết, khinh bỉ chúng nó mà vẫn lờ đi.Chúng tôi có mục đích của chúng tôi.


Tôi nhếch mép, khẽ lắc đầu:


- Ông xếp tôi vào hạng trí thức nào?


Sử Gia lại tránh né. Nhấp ngụm nước trà, ông ta châm điếu thuốc mới, nhả khói.


- Bạn cô thể nào?


- Thế nào là thế nào?


- Mạnh khỏe không, cô?


- Chị ấy chớm lao phổi. Vài tháng nữa, nếu có dịp ghé đây, ông chiếu cố chị ấy, tôi có thể trả lời ông: chị ấy chết rồi.


- Tội nghiệp.


- Ông nên tội nghiệp cho ông. Chính ông, các ông mới đáng tội nghiệp. Tội nghiệp cộng sản thật, chả phút giây nào họ được bình yên tâm hồn để sống thật với lòng họ. Kẻ nào giả dối sẽ chết bằng sự giả dối.


- Còn người chân thật?


- Người chân thật không chết, dẫu thể xác họ tan rã nhưng ý nghĩa sống của họ tồn tại. Và đó là linh hồn.


- Người chân thật sẽ chết thảm. Cô tin đi, trước khi dẫy chết, người chân thật sẽ phơi bày sự giả dối và cô sẽ được chứng kiến.


- Các vị anh hùng, liệt sĩ của chủ nghĩa cộng sản đã phơi bày sự giả dối trước khi chết thảm?


- Tôi chỉ đề cập mẫu người chân thật của cô, người đã nhồi nhét cho cô thứ chân lý không tưởng, đã mê hoặc cô. Tôi muốn cô tỉnh ngộ. Đừng tưởng tôi mù và điếc.


Sử Gia «kết thúc» buổi mạn đàm với tôi. Nửa tiếng sau, tôi thấy Trực trại dẫn chị Nga lên văn phòng. Sáng nay, đang ngồi tập họp chờ đi lao động, Trực trại kêu tên chị Nga và tôi và bảo «ở nhà làm việc». Và tôi tái ngộ Sử Gia. Ông ta vẫn rình mò chúng tôi. Chưa lần nào tôi tin Sử Gia cả, nhưng lần này, tôi rất tin lời dọa nạt «kết thúc cuộc trắc nghiệm» của ông ta. Tôi đứng dựa lưng vào tường mà nhìn ra sân trại. Những người tê bại, kiệt sức, tuổi tác đang chống gậy quét sân, khom lưng lượm rác, ngồi phệt nhổ cỏ, gợi tưởng hoàng hôn của đời sống. Ai rồi cũng phải chết. Thời chưa có trò chơi tư tưởng Tây phương, người bình thường của Đông phương chia đời sống thành bốn khúc: Sinh, Lão, Bệnh, Tử. Thi sĩ triết gia Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều mở đời sống «... khi mới chôn nhau, đã mang tiếng khóc ban đầu mà ra» và khép đời sống «... có nghĩa gì đâu, chẳng qua một nấm cỏ khau xanh rì». Từ được «chôn rau» đến bị «chôn xác», đời sống dằng dặc những hệ lụy, những điều «trông thấy mà đau đớn lòng», những cảnh «chết đuối người trên cạn». Trên cái dòng đời hệ lụy rã rượi đó, con người đã đi, vẫn đi từ bước đầu đẫm lệ đến bước cuối sầu thảm. Chắc chắn, đời sống phải chứa đựng niềm bí ẩn tuyệt vời nên mới quyến rũ nổi con người trong cuộc hành trình chông gai chân non rướm máu. Con người đi tìm cái gì? Sự khôn lớn, niềm tin yêu, ý nghĩa cao cả, cái khốn cùng của trời đất, hạnh phúc của muôn loài, hay ảo ảnh…? Một số người đã chụp được bí ẩn tuyệt vời ấy. Thích Ca đó. Lão tử đó. Khổng Tử đó. Trang Tử đó. Jesus đó… Chỉ gọn tay mình. Tay người ngắn, niềm bí ẩn còn nữa, còn nhiều, tít trên cao. Sức người hữu hạn. Niềm bí ẩn vô hạn. Mỗi ngày mỗi tuyệt vời, mỗi thời đại mỗi thay đổi. Có lẽ, mỗi con người đều mơ hồ thấy niềm bí ẩn của đời sống, đều hy vọng có lần vuốt ve nó, nâng niu nó và con người đã vuốt nước mắt, mỉm cười đi trên sầu đạo trọn vẹn đời mình. Con người sợ hãi cái chết, vì thế. Vì khao khát nhìn một sợi bí ẩn của đời sống.


Thời đại của chúng ta, dòng đời hệ lụy không còn đơn giản như bốn khúc đời sống đơn giản. Với những trò chơi của tư tưởng, đời sống đã bị chia thành trăm khúc nghìn đoạn. Khúc nào của cách mạng, của tự do, của dân chủ. Đoạn nào của thù hận, của thủ tiêu, của thanh trừng. Khúc nào của chiến tranh, của ý thức hệ, của phô trường quyền lực. Đoạn nào của tàn sát, của ngục tù, của đói rách, của ngu dốt… Dòng đời hệ lụy chẩy xiết cuốn phăng. Sầu đạo của con người hôm nay chênh vênh dốc nhọn. Những niềm bí ẩn của đời sống quyến rũ mãnh liệt, gấp bội. Con người hôm nay không phải chỉ đi trong cô đơn mà còn đi trong ngộ nhận; không phải chỉ đạp lên chông gai mà còn đạp lên bom mìn. Chị Nga là hình ảnh con người ấy. Chị đã tìm ánh sáng cứu rỗi loài người. Chị đi mòn mỏi, cô đơn. Chị đi quằn quại, thống khổ. Trên đỉnh cao hệ lụy, những búng máu phọt ra từ buồng phổi đọa đày, ánh sáng cứu rỗi chưa thấy nhưng tôi đã thấy những hạt giống mang tên một loài hoa Nhân Ái rắc đầy xuống các trại tập trung cải tạo ở quê hương tôi. Con người cao thượng ấy, chị Nga của tôi, đang đối diện với kẻ chưa được làm người. Tôi cảm giác một nỗi sót sa, bùi ngùi. Và, đột nhiên, tôi bị ám ảnh bởi cái chết nào đó.


Gần giờ tan lao động, tôi bị gọi lên văn phòng giám thị lần nữa. Chị Nga còn ngồi đó. Sử Gia gật gù, tự mãn:


- Chính tôi ra lệnh thi hành kỷ luật hai cô.


Chị Nga nói:


- Không ai phán xét ông cả vì không ai phán xét những kẻ mất hết lương tri.


Giám thị Ba Tơ dẫn chúng tôi ra hàng rào giây kẽm gai. Đích thân y cầm còng. Ba Tơ bảo tôi đứng bên trong hàng rào. Y đưa chị Nga ra ngoài hàng rào. Hai chúng tôi đối diện nhau. Biên giới ngăn cách là hàng rào một lớp giây kẽm gai tua tủa. Trực trại đã mang tới ba chiếc ghế thấp.Ba Tơ bắt chúng tôi trèo lên ghế.Y cũng trèo lên ghế. Theo lệnh của y, chúng tôi đứng sát hàng rào nhưng không được đâu mặt vào nhau. Hai cánh tay phải của chúng tôi đeo chung một cái còng. Trực trại lôi ghế mạnh.Chúng tôi đu trên giây kẽm gai.Sợi trên võng xuống sợi dưới, võng xuống, võng xuống, đến khi chỉ đầu những ngón chân của chúng tôi chạm đất.Nắng bây giờ dữ dội.Ba Tơ và bọn Trực trại đã bỏ về. Và Sử Gia đứng nấp đâu đó chiêm ngưỡng tác phẩm vĩ đại của ông ta. Không có trò chơi nào man rợ hơn trò chơi của tư tưởng cộng sản. Nó biến con người bất đồng quan điểm với nó thành cá khô, thịt muối.


- Nói một chuyện gì cho vui chứ, Lan?


- Chuyện gì, chị Nga?


- Cổ tích chẳng hạn.


- Em thuộc một bài thơ cổ tích mới, chị muốn nghe không?


- Muốn qua. Em biết ngâm thơ chứ?


- Em đọc.


- Đọc đi. Ta thả hồn vào thơ, sẽ quên mọi sự.


Tôi đọc bài Trái thị, quên tên tác giả:


«Ngày xưa cô Tấm ngời nhan sắc


Thật thà như đếm chả thù ai


Cô thương điều xấu yêu điều tốt


Chung hết tâm tư với mọi người.


Có nhiều đứa ác hờn ghen Tấm


Đày đọa Tấm và giết Tấm oan


Tấm hóa thành chim thành trái thị


Cuối cùng thành công chúa nhân gian.


Em ạ, anh là cô Tấm xưa


Lòng anh chứa chất cả hư vô


Anh đi với tháng dài năm rộng


Mơ nỗi niềm chưa ai ước mơ.


Anh cũng bị chôn dưới vực sâu


Trước khi sặc nước mắt cơ cầu


Rồi cũng thành chim thành trái thị


Ngạo nghễ lên đời chói ngọc châu.


Em, cổ tích này anh tặng em


Hãy nghe hãy truyện kể nghìn năm


Nghìn năm trái thị còn xanh mộng


Chỉ úa điêu ngoa héo dối gian.»


- Ai đã làm bài thơ này, chị Nga hỏi?


- Em không rõ. Tôi đáp.


- Có vẻ giống tâm sự chúng ta.


- Vâng, từa tựa.


Các đội đã nhập trại. Qua cổng, hàng ngàn con mắt nhìn hai chúng tôi treo tòng teng trên giây kẽm gai, ngón chân chạm đất. Nhìn khoảnh khắc rồi họ cúi đầu, lầm lũi bước. Rồi họ lĩnh com, chia cơm ồn ào, cãi lộn. Rồi họ ăn và họ ngủ trưa. Những người tò mò, không ngủ, theo rỗi cực hình qua cửa sổ.


- Em còn sức chịu đựng không, Lan?


- Còn, chị ạ !


- Bao lâu?


- Em không hiểu, nhưng em cố gắng.


- Chừng hết chịu nổi, em cho chị hay nhé!


- Để làm gì, chị Nga?


- Chị đầu hàng họ để em sống.


- Cám ơn chị.


Nắng toa rập với thù hận trừng phạt chúng tôi. Mồ hôi tôi toát ra. Đầu tôi như bị úp cái vun nóng ran. Tôi khát nước. Tay tôi mỏi đơ và chân cũng mỏi đơ.


- Lan này, em có nghĩ ngày nào đó em sẽ trốn khỏi Việt Nam không nhỉ?


- Em chưa hề nghĩ.


- Nghĩ đi.


- Em đã tự hỏi em nhiều lần, rời Việt Nam, em sẽ là cái gì ? Vâng, cái gì xa lạ, rỗng tuếch, buồn bã. Em không thích phiêu lưu trên dòng sông nước mắt mà bờ bãi chỉ là hiu quạnh, ưu phiền.


- Phải đi để đọc Bài diễn văn mơ ước, em ạ!


- Vinh dự ấy, xin dành riêng cho chị.


- Cho mọi người. Cái ta nhỏ bé quá. À, lúc này em mơ ước gì?


- Chị không chết.


Chị Nga cố khơi chuyện để tôi quên cực hình, dù chị đã thấm đòn thù. Tôi xoay cổ mấy lần, không thấy được mặt chị. Người ta hằng nói về thiên thần. Tôi nghĩ thiên thần chỉ là chị Nga, thiên thần đeo trên giây kẽm gai vẫn nói chuyện thân ái.


- Em chưa biết số nhà của chị, phải không?


- Vâng.


- Đường Lê Văn Hưu, số 158, quận 1. Căn nhà độc đáo nhất phố nhờ cái cổng như cổng chùa. Trong vườn có cây me lớn. Em sẽ gặp mẹ chị. Nói với mẹ chị là chị đã sống thật hạnh phúc từ khi xa nhà. Chị có người bạn trai đang ở trại cải tạo Nam Hà. Có thể anh ấy đã về rồi. Em nói với anh ấy rằng chị xin lỗi nhiều…


Chị Nga xúc động quá, ngừng lại. Tôi đã khô cổ họng, rã rời thể xác rồi. Mắt tôi hoa, nhìn cái này ngỡ cái nọ. Rồi mờ di. Tôi thật sự chìm vào ác mộng.


- Lan! Lan!


Tôi giật mình.


- Em hết chịu nổi chưa?


Câu hỏi của chị Nga như xô nước lã ai vừa tưới khắp mình mẩy tôi. Tôi hớp miếng nước tưởng tượng và tỉnh táo lạ thường.


- Em, em chịu đựng mãi mãi…


Và tôi la hoảng:


- Chị đừng đầu hàng!


- Lan!


- Dạ.


- Em nhớ nhé. Không bao giờ được phép quên nhé, điều chị sắp nhắc lại với em.


- Vâng, em nhớ.


- Làm lại quê hương chúng ta, làm lại trái đất bằng những trái tim không vấn vương quá khứ thù hận, không dính líu hiện tại ủ ê.


- Em nhớ, em nhớ…


Chị Nga không nói thêm. Nắng xoáy xuống thân thể tôi bỏng rực. Giá tôi được ngắm khuôn mặt chị Nga để chiêm ngưỡng chị và để hình tưởng khuôn mặt tôi thảm não, ghê rợn. Tôi cạn hết cả nước miếng, há hốc miệng cho gió lùa vào. Kẻng tù báo thức. Tôi mơ hồ nghe hồi chuông cáo phó. Nắng đốt da mặt tôi. Tôi nhắm mắt. Và tôi hết cảm giác. Tiếng nói tù nhân ồn ào trong sân trại cơ hồ những tiếng âm y từ địa ngục vọng lên. Một chút tôi tỉnh, nhiều chút tôi mê sảng. Tôi muốn mở mắt mà chẳng tài nào mở nổi. Cho đến lúc tôi thấy tôi bị kéo mạnh, ngón chân không còn chạm đất, mình mẩy cọ sát giây kẽm gai thì cảm giác của tôi hoàn toàn bị tê liệt.


Khi tôi mở mắt, cảm giác đầu tiên của tôi là tôi biết tôi chưa chết. Dần dần, tôi biết tôi đang nằm trên chiếc giường sắt của bệnh xá. Tôi đưa tay phải rờ rẫm cổ tay trái. Đau buốt. Có miếng băng keo vải dán lên chỗ đau. Người ta đã tiếp nước biển cho tôi. Tôi không thể mở mắt lâu hơn vì mắt tôi còn yếu lắm.


- Chị uống một miếng sữa nhé!


Cô ý tá của trại – bạn tù của chúng tôi được gọi lên làm việc tại bệnh xá – nhỏ nhẹ nói bên tai tôi.


- Chị nên uống một miếng sữa. Em đã pha sẵn. Để em đỡ chị dậy.


Cô nâng tôi ngồi dậy và cầm ly sữa cho tôi uống. Sau só, cô mời tôi uống nửa ly nước lạnh rồi dìu tôi nằm xuống.


- Tôi đã nằm đây lâu chưa, em?


- Thưa chị, hai ngày.


- Những chuyện gì đã xảy ra?


- Chị nằm nghỉ đi. Những vết trầy ở mình mẩy, tay chân của chị, em đã rửa sạch và thoa thuốc sát trùng.


- Còn chị Nga?


- Chị nằm nghỉ đi. Thương em một chút chứ…


Tôi cũng chẳng nhớ bao nhiêu ngày thì tôi mở mắt hết mỏi và có thể ngồi dậy một mình, ăn cháo không cần sự giúp đỡ của cô y tá. Hình như phải mất tuần lễ. Tôi đã nhìn rõ những vết giây kẽm gai xước sát, bôi đầy thuốc đỏ trên tay tôi, chân tôi, thân thể tôi. Cái dấu còng ở cổ tay phải vẫn tím bầm. Tôi muốn đừng bao giờ nó tan. Bây giờ, tôi hồi tưởng những việc đã xảy ra… Chị Nga chết rồi. Chị đã chết trong những khoảnh khắc mê sảng của tôi. Lúc tôi thấy ngón chân mình hết chạm mặt đất là lúc chị Nga rũ đầu, và chị nặng hơn bình thường. Sức nặng của xác chết đã kéo tôi lên cao thêm. Chị Nga đã kéo tôi lên cao thêm. Chị mong ước tôi còn cao thêm nữa. Nước mắt tôi ứa ra… Qua màng nước mắt, tôi thấy cái cachot ở khu A cửa đề lao Gia Định, nơi ấy, hai chiếc còng Mỹ đã siết chùm ba đứa chúng tôi 52 ngày đêm, nơi ấy, chị Ngađã ứng khẩu đọc «Bài diễn văn sẽ đọc trước quốc hội Mỹ», nơi ấy, chị Nhi đã chết trong đoạn nào của bài diễn văn mà tay vẫn đeo còng. Tôi thấy cái phòng trừng phạt củanhà thương điên Chợ Quán, nơi ấy, chị Nga đã giả vờ điên nhiều tháng vất vưởng. Chúng tôi thật nhiều kỷ niệm về nhau, cho nhau. Kỷ niệm cuối cùng với chị Nga tôi có ở hàng rào giây kẽm gai trại tập trung đàn bà Long Thành, nơi ấy, chúng tôi bị còng chung một chiếc còng Mỹ, bị treo lên và chị Nga đã chết trong cơn hôn mê nắng quái của tôi.


Và tôi còn nằm lại, còn nằm trên cái hoang liêu của nửa đường hệ lụy. Để thương sót hơn là giận hờn. Để thương yêu chứ không thù hận. Chị Nga chết đẹp lắm dù người ta đã chỉ định một cách chết quá tồi tệ cho chị. Sử Gia quả quyết «Người chân thật sẽ chết thảm». Điều này đúng, hoàn toàn đúng. Nhưng «trước khí dẫy chết, người chân thật sẽ phô bày sự giả dối» thì hoàn toàn sai. Sử Gia đã sai, chủ nghĩa cộng sản của ông ta đã sai. Cái thiện luôn luôn song hành cái ác. Nó đã đi bằng tiểu thuyết TâyDu. Nó chính phục cái ác. Cuối cùng, nó leo lên đỉnh mơ ước. Nó đến Tây Trúc thỉnh bằng được cái chìa khóa giải thoát sự u mê của con người. Nó cũng đi bằng hiện thực. Nó đang đi và nó phải tới đích. Một mai, tôi nghĩ không còn là chuyện trăm năm, cái thiện toàn vẹn sẽ bước qua khải hoàn môn của nhân loại và, đằng sau nó, cái ác hoàn lương, sám hối đã biết mỉm cười trong hạnh phúc.


Chị Nga chết đau đớn nhưng không bất hạnh. Tôi biết rõ nấm mồ cửa chị nơi nào. Còn mồ của chị Nhi, tôi sẽ phải tìm kiếm. Hai người bạn tù của tôi, một người chết trong bóng tối, một người chết ngoài ánh sáng. Bóng tôi và ánh sáng của những cái ác toa rập. Trong cái ác toa rập như cái lưới kẽm gai nhọn hoắt chụp bủa thế giới, chụp bủa quê hương yêu dấu của tôi, một đóa hoa Nhân Ái Việt Nam đã nở. Ý nghĩa của đời sống cao thượng đã tỏa ra từ nơi thống khổ không còn gì để so sánh. Mấy năm qua, tôi đã nghĩ sẽ tìm đến mộ của chị Nhi, cắm lên bia mộ của chị một chiếc còng Mỹ. Bây giờ tôi quên còng Mỹ, quên ngục tù Cộng Sản. Tôi sẽ đặt lên mộ chị Nhi một vòng hoa hồng thắm. Tôi sẽ đặt lên mộ người thiện và kẻ ác những vòng hoa hồng thắm.


Tự nhiên, tâm hồn tôi bay bổng…


***


Chương 15


MỘT THÁNG SAU NGƯỜI TA GỌI TÔI LÊN văn phòng giám thị. Từ hôm chị Nga bị xử tử không một phát súng ân huệ, tôi được nằm dưỡng sức ở bệnh xá. Cô y tá tù Đan Chi đã sẵn sóc tôi tận tình. Cô thường hát cho tôi nghe những bản Tù Ca mà cô học thuộc khi luân lạc ở các quần đảo Phước Long, Xuyên Mộc, Hàm Tân. Có bao nhạc sĩ tù nhân đã sáng tác. Họ hát trong cachot, trong connex… Họ bị phát vãng miền Bắc trở về Nam. Những bài Tù Ca lãng mạn, đẹp như trăng sao, không hận thù máu lửa, không lưỡi lê đòi trả nợ. Người Việt Nam nghìn năm mơ mộng, cao thượng. Chân đeo cùm vẫn yêu thích ca dao.


Đan Chi nhìn tôi, mỉm cười âu yếm:


- Lần này, chị sẽ may mắn đấy.


Tôi nắm chặt tay Đan Chi:


- May mắn hay không may mắn cũng thế thôi, em ạ! Chị quen rồi… Cám ơn em nhiều. Chị nhớ em mãi mãi.


Sử Gia đang ngồi chờ tôi. Ông ta có vẻ buồn bã. Giọng trầm hẳn xuống, ông ta nói:


- Tôi rất tiếc.


Tôi im lặng.


- Cô hiểu chứ, tôi rất tiếc.


Tôi vẫn im lặng.


- Hôm nay, tôi chứng minh lời hứa của tôi. Cô được trả tự do.


Như pho tượng, tôi ngồi bất động. Sử Gia muốn nói nhiều, tưởng sẽ nói nhiều và ngỡ rằng tôi sẽ thích thú tranh luận với ông như những lần trước. Nhưng ông ta thiếu may mắn. Tôi đã rửng rưng tất cả. Ông ta đưa cho tôi hai tờ Giấy Ra Trại, bảo tôi ký tên góc bên trái, cuối trang. Tôi cầm bút, uể oải ký. Sử Gia giữ một tờ, tôi một tờ.


- Cô cất kỹ, mất thì phiền phức lắm. Cô phải trình diện chính quyền địa phương. Sau vài thủ tục tạm trú, cô sẽ trở về đời sống bình thường. Bây giờ cô về thu xếp hành lý rời trại. Người ta sẽ phát tiền xe cộ cho cô.


Tôi nhìn Sử Gia không chớp mắt:


- Có thật tên ông là Nguyễn Bình Nam không?


Sử Gia gật đầu:


- Phải, tên cúng cơm của tôi đấy.


- Khi ông chết, ông di chúc cho vợ con chôn ông ở đâu?


- Xã Tường An, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình.


- Cám ơn ông, tôi sẽ ra Bắc đặt lên mộ ông một vòng hoa hồng thắm.


Và tôi đứng dậy, rời văn phòng giám thị. Người ta bắt tôi phải rời trại khẩn trương. Lúc này, các đội đang lao động ngoài bãi. Tôi đi chào các chị em bệnh hoạn làm việc trong trại. Đan Chi cho tôi bộ quần áo mới. Tôi từ chối. Tôi muốn mặt bộ quần áo cũ của tôi. Ngày vào tù quần áo nào, ngày ra tù quần áo ấy. Tôi yêu sự tơi tả của bộ quần áo kỷ niệm của tôi. Nó theo tôi từ buổi sáng ngày 6 tháng 2 năm 1976 và nó về với tôi cũng buổi sáng ngày 24 tháng 12 năm 1982. Suýt soát 7 năm tù đày! Kiểm soát lại xem còn thiếu sót gì không? Tôi nhờ Đan Chi nói với chị Thanh rằng tôi tha thiết chờ đợi xem phim O’cangaceiro của chị. Đan Chi ôm chặt lấy tôi. Bùi ngùi…


Bước qua cổng trại, tay xách cái bị cói, đi một quãng, tôi nhìn lại Long Thành, nhìn lại hàng rào giây kẽm gai, nơi chị Nga đã chết treo tay trên đó. Giã từ ngục tù nhỏ, tôi về ngục tù lớn. Gió sớm mát rượi. Tôi lúng túng bước đi. Văng vẳng đâu đây, những lời ca mượt mà theo nhạc đêm của muôn loài chim êm ái.


«Tôi ca ngợi tôi


Ngụp giữa biển đời


Sóng gầm bão nổi


Tôi vẫn là người…»


Tôi mỉm cười. Dưới những tầng địa ngục, tôi đã lên đời chói lọi. Tôi vẫn là tôi. Tôi vẫn là người.


DUYÊN ANH
Sungai Besi, Malaysia
13-9-1983

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn