BÀI ĐỌC NHIỀU NHẤT
(Xem: 73244)
(Xem: 62215)
(Xem: 39401)
(Xem: 31151)
SỐ LƯỢT XEM TRANG
0

Về hưu nói hay

11 Tháng Chín 201512:00 SA(Xem: 982)
Về hưu nói hay
50Vote
40Vote
30Vote
20Vote
10Vote
00
Không ít quan chức hàng nguyên thủ, khi đương nhiệm cứ thấy nhàn nhạt, chẳng có gì ấn tượng, nhưng vừa hưu cái đã “lóe sáng” bởi hàng loạt phát ngôn như… thánh!

Ông Nguyễn Văn An, nguyên Chủ tịch Quốc hội là một trong số những nhân vật điển hình dạng này. Hãy nghe ông nói: “Thế nào là nguyên thủ quốc gia, đối với Việt Nam còn… lúng túng. Nguyên thủ quốc gia của mình tương ứng với tổng thống, thủ tướng thực quyền của các nước, hay tương ứng như vị trí của các ông vua một số nước? Đến giờ ta vẫn chưa rõ chuyện này!” (báo Tuổi Trẻ, 27-3-2007).
 Ông nói điều này lúc vừa hưu, khi ngay trước đó, chính ông đi đâu cũng được hưởng “chuẩn”… nguyên thủ!


Gần đây, ông nói nhiều, viết nhiều bài khá hay, trả lời phỏng vấn báo chí khá ấn tượng, với những phát ngôn mà thật tình tôi không dám tin rằng đó là của một nguyên Chủ tịch Quốc hội. Bởi toàn những việc, những sự thể trong tay ông, trong cái quyền chức ông từng ôm giữ.


Nhưng vừa hưu, thoắt cái ông đã… vùng dậy phán, những câu phán thoạt nghe rất sướng lỗ tai, ví như “Chỉ giao trọng trách cho người có tư tưởng đổi mới”, “đảng làm thay hậu quả sẽ khôn lường”, “Không ai độc quyền chân lý”, “Lòng dân là gốc, pháp luật là tối thượng”, “Bầu chọn nhân sự danh sách phải nhiều hơn và phải cho các ứng viên tranh cử thực sự. Trong kinh tế không cạnh tranh cũng hỏng. Trong chính trị không cạnh tranh cũng hỏng”, “Chọn người tài chứ không chọn người hiền”, “Hồng không đồng nhất với Đảng viên. Nhiều người ngoài Đảng vẫn có thể Hồng”.v.v… – Những câu phán đậm chất thương hiệu Nguyễn Văn An.


Nhiều người khen hay. Và quả thật những bài như thế của ông được khá nhiều người đọc. Tôi cũng vậy, hay đọc bài của ông. Nhưng mỗi khi đọc xong cứ tự hỏi: sao hưu rồi ông mới nói hay (mặc dù chỉ là… nói)? Tôi thích câu này của ông Phạm Thế Duyệt “không phải cuối đời ông nói một số điều cho phù hợp với xu thế đổi mới có nghĩa là cái gì ông cũng nhất, không phải đến lúc về hưu rồi mới bắt đầu nổi lên như sóng cồn“.


Nhìn một nghĩa khác, đó là điều đáng … xấu hổ, chứ không phải để mà ngợi ca.


Với ông An, nhiều bài đọc hay, nhưng cũng không ít bài đọc xong thấy thất vọng. Bài viết mới nhất tôi trích đăng lại dưới đây (trên VietNamnet) là một điển hình. Những dẫn chứng vụn vặt, không điển hình, lý luận dài dòng, luộm thuộm, rối rắm.


Trương Duy Nhất




LÒNG DÂN LÀ GỐC, PHÁP LUẬT LÀ TỐI THƯỢNG

 
 (TuanVietNam)- Dân là gốc, thuộc phạm trù vĩnh viễn. Đảng và Nhà nước thuộc phạm trù lịch sử. Lòng Dân là điểm xuất phát và cũng là điểm cuối cùng của ý Đảng và pháp luật.

 Đó cũng chính là một số bài học kinh nghiệm mà nguyên Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An nhấn mạnh trong phạm vi bài báo này.

· Bàn về phân công quyền lực nhà nước
· Kinh nghiệm Đảng giới thiệu, Quốc hội bầu
· “Chỉ giao trọng trách cho người có tư tưởng Đổi Mới”
 Không ai độc quyền chân lý
 Như chúng ta thường nói, ý kiến khác nhau là chuyện bình thường, là tự nhiên. Không có ý kiến khác nhau mới là chuyện không bình thường, không tự nhiên. Ý kiến khác nhau không phải bao giờ cũng mâu thuẫn nhau, mà nhiều khi chỉ phản ảnh những góc nhìn và những nhận thức khác nhau.

 Trong điều kiện nước ta chỉ do một đảng duy nhất lãnh đạo; Nhà nước ta là Nhà nước của Dân, do Dân và vì Dân; quyền lực nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc phân công, phối hợp, không phân lập;… thì về nguyên tắc quyền lực nhà nước được phân công là không mâu thuẫn nhau, càng không có mâu thuẫn đối lập, đối kháng, mà phải thống nhất với nhau và chỉ có ý kiến khác nhau ban đầu của các cơ quan chức năng được phân công mà thôi.

 Chúng ta có thể nêu ra một số trường hợp cụ thể có ý kiến khác nhau lớn giữa Chính phủ (CP) với các cơ quan của QH đã được QH xử lý trong nhiệm kỳ QH khóa XI để phân tích, rút kinh nghiệm. Ví dụ như việc Chính phủ trình QH hoặc Uỷ ban thường vụ Quốc hội (UBTVQH) đề nghị đưa xe máy vào danh mục hàng hoá đánh thuế tiêu thụ đặc biệt; đề nghị kéo dài thời gian quản lý số đối tượng nghiện hút thêm 2 năm sau cai nghiện; đề nghị khen thưởng danh hiệu anh hùng mà pháp luật chưa có quy định danh hiệu đó. Lý lẽ của các cơ quan của QH về những vấn đề nêu trên cũng khác nhau và khác với đề nghị của CP.

 Cùng một vấn đề, ý kiến này cho rằng làm như vậy là đúng pháp luật, đúng nguyên tắc Đảng lãnh đạo, hợp lòng Dân…; ý kiến khác lại cho rằng làm như vậy là trái pháp luật, trái nguyên tắc Đảng lãnh đạo, không hợp lòng Dân,…. Việc nhìn nhận về hiện tượng có ý kiến khác nhau đó cũng khác nhau. Có ý kiến cho rằng hiện tượng đó là bình thường, lành mạnh, dân chủ và đúng pháp luật. Ý kiến khác lại cho rằng hiện tượng đó là không bình thường, là chệch hướng, và làm như vậy thì vai trò lãnh đạo của Đảng sẽ không rõ….

 Khi chúng ta nhận thức cụ thể còn khác nhau như thế thì chúng ta dựa vào đâu, dựa vào nguyên tắc nào, dựa vào hệ quy chiếu nào, hay dựa vào tiêu chí nào để tranh luận, để làm sáng tỏ và có thể đi tới thống nhất xử lý vấn đề đó, dù chỉ là tương đối ? Nhận thức khác nhau là điều dễ thấy quanh ta và ngay ở trong ta; từ cổ chí kim, từ đông sang tây luôn là vậy.

 Ba nguyên tắc cơ bản
 Có thể có nhiều cách tiếp cận khác nhau, từ đó mà đưa ra những nguyên tắc, những hệ quy chiếu, hoặc là những tiêu chí khác nhau để xử lý những tình huống khác nhau. Ở đây tôi chỉ đề cập đến ba nguyên tắc cơ bản mà chúng ta thường vận dụng:

 Một là, phải căn cứ vào nguyên tắc BẢO ĐẢM SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG như tinh thần của Hiến pháp đã khẳng định tại Điều 4. Đảng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đó vừa là chức năng Hiến định, vừa là nguyên tắc Đảng lãnh đạo.

 Các đồng chí đại biểu Quốc hội (ĐBQH) là đảng viên của Đảng phải chấp hành nghiêm chủ trương lãnh đạo của Đảng và vận động, thuyết phục người khác cùng thực hiện để xử lý vấn đề khi có ý kiến khác nhau, … Đồng thời cũng phải thật sự lắng nghe và đề nghị với Đảng tiếp thu những ý kiến hợp lý của ĐBQH, của cử tri, hoàn thiện chủ trương lãnh đạo ban đầu của Đảng, bảo đảm cho chủ trương lãnh đạo của Đảng phù hợp với lòng Dân và đúng với nguyên tắc pháp luật là tối thượng, tránh tư tưởng nóng vội hoặc chủ quan áp đặt.

 Hai là, phải căn cứ vào nguyên tắc PHÁP LUẬT LÀ TỐI THƯỢNG như nhiều văn kiện của Đảng và pháp luật của Nhà nước đã khẳng định. Nhà nước pháp quyền XHCN là Nhà nước mà ở đó pháp luật là tối thượng, Nhà nước quản lý đất nước bằng pháp luật và chỉ bằng pháp luật mà thôi.

 Các vị ĐBQH, dù là đảng viên hay không đảng viên đều phải căn cứ vào pháp luật, phải chấp hành nghiêm pháp luật để xử lý vấn đề khi có ý kiến khác nhau. Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đồng thời cũng phải đúng với nguyên tắc pháp luật là tối thượng. Trong điều kiện Đảng lãnh đạo Nhà nước thì mọi tổ chức đảng và đảng viên của Đảng đều phải gương mẫu tuân thủ Hiến pháp và pháp luật. Hiến pháp và pháp luật cũng chính là chủ trương lãnh đạo của Đảng đã được luật hoá; chấp hành pháp luật cũng chính là chấp hành chủ trương lãnh đạo của đảng, chấp hành nguyên tắc Đảng lãnh đạo.

 Ba là, phải căn cứ vào nguyên tắc LÒNG DÂN LÀ GỐC. Dân là gốc, thuộc phạm trù vĩnh viễn. Đảng và Nhà nước thuộc phạm trù lịch sử. Lòng Dân là điểm xuất phát và cũng là điểm cuối cùng của ý Đảng và pháp luật. Về nguyên tắc: Lòng Dân, ý Đảng và pháp luật phải thống nhất, phải là một, không thể là hai, trong đó lòng Dân là gốc. Phải dựa vào ý chí và nguyện vọng của nhân dân, đặt lợi ích của quốc gia dân tộc lên trên hết để xử lý những vấn đề khi có ý kiến khác nhau.

 Suy cho cùng thì chủ trương lãnh đạo của Đảng và pháp luật nhà nước cũng được xây dựng và không ngừng được hoàn thiện nhằm phục vụ lợi ích của nhân dân, của quốc gia dân tộc ngày càng tốt hơn, ngày càng phù hợp với mong muốn của Dân hơn, vì Đảng và Nhà nước ta không có lợi ích nào khác ngoài lợi ích của nhân dân. Đây chính là bản chất chính trị, bản chất nhân dân của Nhà nước ta: Nhà nước của Dân, do Dân và vì Dân.

 Nếu chúng ta dựa vào những nguyên tắc cơ bản nêu trên, và có thể còn có những nguyên tắc khác nữa, để tranh luận và làm sáng tỏ vấn đề thì những ý kiến khác nhau sẽ được giải quyết có căn cứ hơn, thuận lợi, nhất quán và chuẩn xác hơn.

 Ba ví dụ thực tiễn và giá trị của lòng dân

 Tổng kết là phải nhìn thẳng vào sự thật, phân tích rõ sự thật, từ đấy mà rút ra bài học kinh nghiệm. Theo tinh thần đó, chúng ta trở lại ba ví dụ đã nêu ở trên để xem QH khoá XI đã phân tích và giải quyết từng trường hợp cụ thể đó như thế nào:

 Ví dụ thứ nhất, về đề nghị đánh thuế tiêu thụ đặc biệt đối với xe máy: Về vấn đề này Bộ Chính trị (BCT) không có chủ trương lãnh đạo cụ thể, pháp luật cũng chưa có quy định cụ thể, QH chủ yếu dựa vào lòng Dân để xử lý.

 Ban đầu Chính phủ trình sang các cơ quan của QH đề nghị đánh thuế tiêu thụ đặc biệt đối với xe máy, Uỷ ban Kinh tế Ngân sách (UBKTNS) của QH có chức năng thẩm tra tờ trình thì không nhất trí với đề nghị đó của CP, UBTVQH cũng tán thành với ý kiến của UBKTNS, song CP vẫn giữ ý kiến của mình và trình đề nghị đó ra QH. Sinh hoạt của QH như vậy là bình thường, đúng luật, đúng quyền của CP, đúng quyền của các cơ quan của QH, không phải các cơ quan của QH làm như thế là gây khó dễ cho CP, không phải CP làm như vậy là phớt lờ ý kiến các cơ quan của QH.

 Cũng không nên coi đó là mâu thuẫn giữa CP với các cơ quan của QH. Đây đơn giản chỉ là những ý kiến khác nhau do nhận thức khác nhau của những cơ quan có chức năng khác nhau mà thôi. Làm như vậy là đúng luật, dân chủ, cần thiết, lành mạnh, là làm theo chức năng của mỗi cơ quan.

 Trên cơ sở những thông tin, những lý lẽ khác nhau về đề nghị trên đây của CP, QH đã thảo luận, tranh luận sôi nổi và cuối cùng đã dựa vào lòng Dân như đề nghị của UBKTNS để xử lý ý kiến khác nhau đó. Lý lẽ của Dân giản dị và dễ hiểu là, xe máy là xe đạp được nâng cấp, là phương tiện đi lại, làm ăn; cán bộ, công chức, người lao động…dùng xe máy đi từ nhà đến nơi làm việc; người nông dân ngoại thành dùng xe máy chở rau dưa, hoa quả, lợn gà … vào nội thành để bán;… Xe máy không phải là hàng xa xỉ, độc hại, không phải là loại hàng hoá không nên khuyến khích tiêu dùng.

 Còn việc hạn chế sử dụng xe máy để bảo đảm an toàn giao thông và giảm ô nhiễm môi trường lại là việc khác, không phải vì thế mà đưa xe máy vào danh mục hàng hoá phải đánh thuế tiêu thụ đặc biệt. Với những lý lẽ nêu trên, QH đã biểu quyết không đưa xe máy vào danh mục hàng hoá phải đánh thuế tiêu thụ đặc biệt.

 Quyết định đó của QH là dựa vào lòng Dân, phù hợp với ý chí và nguyện vọng của nhân dân nên được nhân dân đồng tình và hoan nghênh. Qua tranh luận mới làm sáng tỏ được lòng Dân trong vấn đề cụ thể này là như thế nào. Dựa vào lòng Dân để xử lý vấn đề có ý kiến khác nhau, dó là một bài học kinh nghiệm cụ thể.

 Ví dụ thứ hai, về đề nghị kéo dài thời gian quản lý số đối tượng nghiện hút thêm hai năm sau cai nghiện: Về vấn đề này BCT không có chủ trương lãnh đạo cụ thể; pháp luật đã quy định thời gian cai nghiện không được quá hai năm; lòng Dân thì mong đợi Nhà nước có biện pháp quản lý sau cai nghiện. UB các vấn đề xã hội của QH có chức năng thẩm tra tờ trình thì thống nhất với đề nghị của CP. Uỷ ban Pháp luật (UBPL) của QH, tuy không có chức năng thẩm tra tờ trình, song lại có chức năng bảo đảm sự thống nhất của hệ thống pháp luật, thì lại không đồng tình, vì cho rằng nếu kéo dài thêm hai năm sau cai nghiện là trái luật.

 Luật hiện hành chỉ quy định thời gian cai nghiện là không quá hai năm, nếu muốn kéo dài thêm hai năm nữa thì QH phải sửa luật, QH cũng phải chấp hành luật do chính mình ban hành, QH cũng không có quyền làm khác luật. Các ý kiến khác nhau đó đã được trình ra QH theo đúng quy định hiện hành.

 Đó là chuyện bình thường, đúng luật, dân chủ, đúng với chức năng của mỗi cơ quan hữu quan. Sau khi thảo luận, phân tích nhiều mặt, QH đã đi đến thống nhất với ý kiến của UBPL là không được kéo dài thời gian quản lý số đối tượng nghiện hút thêm hai năm sau cai nghiện, vì làm như vậy là sai luật, do đó QH đã ra một nghị quyết riêng về thời gian quản lý số đối tượng này sau cai nghiện, không kéo dài thời gian cai nghiện, như vậy vừa không vi phạm luật, vừa đáp ứng được lòng mong đợi của nhân dân.

 Qua tranh luận mới làm sáng tỏ được thế nào là vi phạm luật, thế nào là không vi phạm luật. Dựa vào pháp luật, dựa vào lòng Dân để xử lý vấn đề có ý kiến khác nhau, đó cũng là một bài học kinh nghiệm cụ thể.

 Ví dụ thứ ba, về đề nghị thưởng danh hiệu anh hùng cho một thành phố: Về vấn đề này BCT đã có chủ trương lãnh đạo khen thưởng danh hiệu anh hùng cho thành phố đó, pháp luật lại chưa có quy định danh hiệu này.

 Theo đúng nguyên tắc đảng, đồng chí Thủ tướng Chính phủ (TTCP) đã chấp hành nghiêm chủ trương lãnh đạo đó của BCT và đã làm tờ trình gửi UBTVQH đề nghị xét đặc cách, vì luật hiện hành không có quy định danh hiệu này. UBTVQH đã họp bàn tập thể với ý thức chấp hành nghiêm chủ trương lãnh đạo của Đảng, song về mặt pháp luật thì 100% các vị trong UBTVQH thống nhất đề nghị TTCP cần có bước đi cụ thể để bảo đảm nguyên tắc pháp luật là tối thượng, UBTVQH và ngay cả QH cũng không có quyền xét đặc cách khác với luật hiện hành, UBTVQH và ngay cả QH cũng phải chấp hành nghiêm luật do QH ban hành, và nếu UBTVQH được quyền xét đặc cách thì cũng có nghĩa là UBTVQH có quyền cao hơn cả QH nhiều lần.

 Luật hiện hành cũng là chủ trương lãnh đạo của Đảng đã được luật hoá. Chấp hành nghiêm luật hiện hành cũng là chấp hành nghiêm chủ trương lãnh đạo của Đảng và nguyên tắc Đảng lãnh đạo. Cuối cùng TTCP đã tiếp thu ý kiến của UBTVQH, đã làm tờ trình QH đề nghị cho sửa luật hiện hành. Sau khi được QH sửa luật, TTCP mới tiến hành các thủ tục khen thưởng danh hiệu anh hùng như luật đã sửa đổi bổ sung cho phép. Hiểu và làm như vậy là đúng.

 Qua tranh luận mới làm sáng tỏ được vấn đề vừa bảo đảm nguyên tắc Đảng lãnh đạo, đồng thời cũng vừa bảo đảm nguyên tắc pháp luật là tối thượng, Đảng lãnh đạo Nhà nước nhưng Đảng cũng phải chấp hành nghiêm pháp luật, Quốc hội cũng phải chấp hành nghiêm luật do chính QH đã ban hành, UBTVQH và ngay cả QH cũng không có quyền xét đặc cách làm khác luật của QH. Dựa vào nguyên tắc bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng và pháp luật là tối thượng để xử lý vấn đề có ý kiến khác nhau, đó cũng lại là một bài học kinh nghiệm cụ thể.

 Quốc hội thực quyền

 Phải chăng tâm lý nể nang, né tránh còn thể hiện khá rõ nét của không ít những thành viên trong nhiều cơ quan chức năng, thậm chí còn có tư tưởng sợ sệt, sợ bị đánh giá này nọ khi mình có ý kiến khác với đề nghị của CP, nhất là khi đề nghị đó lại xuất phát từ một chủ trương lãnh đạo ban đầu của Đảng? Ý thức tuân thủ sự lãnh đạo của Đảng, ủng hộ và phối hợp chặt chẽ với CP trong mọi hoạt động của QH là rất đúng với nguyên tắc của Đảng và Nhà nước ta; song sự tuân thủ và ủng hộ đó cũng phải bảo đảm nguyên tắc pháp luật là tối thượng và phải phù hợp với lòng Dân.

 Vì vậy QH cũng phải làm đúng chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của mình để góp phần làm cho các quyết định của QH được chuẩn xác hơn; qua đó mà xây dựng CP mạnh lên, QH mạnh lên và Đảng ta cũng mạnh lên, cả hệ thống chính trị mạnh lên, và đấy cũng là nguyên tắc, là bản chất của Đảng và Nhà nước ta. Làm như vậy là hoàn toàn thống nhất, không mâu thuẫn, không triệt tiêu nhau. Mỗi tổ chức phải thực hành đúng chức năng của mình như pháp luật đã quy định, phải làm việc thực chất, không một tổ chức nào chỉ là hình thức. Như vậy cả hệ thống chính trị sẽ mạnh lên. Phải chăng đó cũng chính là lòng mong đợi và đòi hỏi của nhân dân?

 Nhân dân đòi hỏi cơ quan đại diện cho mình phải làm việc thật sự, phải ngày càng thực chất hơn, đặc biệt là khi xử lý những vấn đề có ý kiến khác nhau phải dựa trên những nguyên tắc nhất quán, không được nể nang, né tránh, sợ sệt; phải có bản lĩnh thực hành đầy đủ và thực chất chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn được giao, như vậy mới có thể góp phần tìm tòi chân lý, quyết định vấn đề được chuẩn xác hơn, hạn chế được những sai lầm có thể xẩy ra.

 Ngay cả đối với những chủ trương lãnh đạo ban đầu của Đảng, những chính sách ban đầu do CP, UBTVQH và các cơ quan của QH trình QH quyết định, vẫn có thể được sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện, vì các cơ quan đó cũng đều là những cơ thể sống, hoàn toàn có thể có sai lầm, hoàn toàn có thể có những nhận thức ban đầu khác nhau, chưa thật chuẩn xác. Đó là điều tự nhiên như đã diễn ra trong cuộc sống thường nhật; trước đây, hiện nay và sau này vẫn vậy.

 Trong ba nguyên tắc cơ bản nêu trên, có lẽ việc dựa vào lòng Dân là khó nhất và yếu nhất? Khó nhất phải chăng là vì nó quá chung, quá mềm, phụ thuộc quá nhiều vào nhận thức, chưa cụ thể được như hai nguyên tắc kia? Yếu nhất phải chăng là vì không ít ĐBQH trong chúng ta chưa thật trọng Dân, chưa thật sát Dân, chưa thật thấu hiểu lòng Dân, chưa thật tâm huyết và đề cao trách nhiệm trong việc thực hành vai trò đại diện cho Dân? Tâm lý nể nang, né tránh, sợ sệt còn ảnh hưởng không nhỏ tới suy nghĩ, lời nói và việc làm cụ thể của nhiều cơ quan chức năng và ĐBQH, nhất là cán bộ lãnh đạo?

 Nhìn chung nhiều ĐBQH hoạt động còn mang tính hình thức, tính thực chất còn thấp? Phải chăng chúng ta cần lưu ý, cần có sự nỗ lực vượt bậc về mọi mặt, đặc biệt là tâm huyết và trách nhiệm của người đại biểu cho Dân, để khắc phục có hiệu quả và rõ nét sự yếu kém lâu nay?

 NGUYỄN VĂN AN (VietNamnet)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn