BÀI ĐỌC NHIỀU NHẤT
(Xem: 73313)
(Xem: 62231)
(Xem: 39417)
(Xem: 31164)
SỐ LƯỢT XEM TRANG
0

Tháng Tư năm ấy!

16 Tháng Bảy 201512:00 SA(Xem: 1234)
Tháng Tư năm ấy!
52Vote
40Vote
30Vote
20Vote
10Vote
52
Tháng Tư lại về. Phải can đảm lắm để không phải khóc, tôi mới viết được những dòng này để mong được sẻ chia nỗi đau, những mất mát tột cùng của những người dân, người lính, và nhất là những người vợ lính miền Nam.

Tôi cũng như những người vợ lính ấy. Chồng tôi, một hạ sĩ nhất lính Nhảy dù. Tôi gặp anh ấy rất tình cờ, anh bị thương ở trận Thường Đức, đầu còn đang băng bó. Tôi thương người lính ấy, và rất nhanh chóng, tôi trở thành người vợ lính.

Thường Đức - 1970


Mê say, bốc đồng, ai cũng bảo tôi vậy. Những bà vợ lính lớn tuổi thường trách tôi: “Mày ngu lắm! Lấy ai không lấy, lấy chồng lính Dù. Mồ côi sớm em ạ!” Khi nghe những lời như thế tôi thường rơm rớm nước mắt tủi thân. Tôi sống ở trại gia binh tiểu đoàn. Chứng kiến những ngày buồn đau luôn nhiều hơn những ngày vui. Những lần những người lính cùng đơn vị với chồng tôi chết trận, được đưa về trại cho gia đình là cả trại lại cùng khóc với nhau, rồi vỗ về, an ủi nhau...

Đã có lần bên nhau, vui, tôi hỏi anh: “Sao người ta lại gọi là lính Tổng trừ bị hả anh?”

Và có lẽ anh trả lời để cho vợ anh an tâm “Tổng trừ bị là lính trừ bị thôi em ạ”. Lạy chúa! Trừ bị là lính trừ bị, vậy mà cũng giải thích cho vợ yên tâm. Rồi sau này tôi nghe một anh cũng bạn lính của chồng, nói: “Em đừng nghe thằng Bình nói. Anh giải thích em nghe, lính của bọn anh là cái loại lính ‘Đến những nơi người ta không thể đến, và ở lại những nơi người ta không thể ở lại!’ Ừ phải thế chứ. Phải vậy mấy chị vợ lính hơn tuổi mới bảo tôi ngu chứ.

Năm 1975, chồng tôi nhắn tin anh đã được hải vận từ Trung vào Nha Trang để đi Khánh Dương. Tôi không biết Khánh Dương ở đâu. Nhưng tôi biết ở đó sẽ ít cơ hội gặp anh hơn là nếu anh ấy được về Sài Gòn.

Sài Gòn Tháng Tư năm 75, một thành phố bị bao vây. Bao vây bởi những Sư đoàn chủ lực miền Bắc, bị bao phủ bởi các tin đồn được tung ra từ các lực lượng phản bội, phá hoại. Sài Gòn khi ấy giống như một trại tiếp nhận khổng lồ, để những dòng người bị truy đuổi tìm đến nương náu, nên hỗn loạn và đầy những rủi ro.


Tôi cũng theo một số gia đình trong trại gia binh ở Biên Hòa chạy về Sài Gòn thuê nhà ở, vì Biên Hòa lúc ấy hàng ngày luôn phải chịu những trận pháo của cộng quân.

Các chị em vợ lính chúng tôi chỉ còn biết cầu nguyện. Ai nấy đều lóng ngóng về mặt trận Khánh Dương. Tôi bắt đầu mua báo về đọc. “Mặt trận Khánh Dương... Trung tá Bùi Quyền... Thủ khoa khóa 16 Đà Lạt...” Lạy Chúa tôi! Có Trung tá Bùi Quyền thì ổn rồi. Tôi thầm cảm ơn Trời Phật như vậy. Chồng tôi luôn kể tôi về sự thao lược của vị sĩ quan này. Thế nhưng khi ấy, tôi nào có hiểu được rằng Nhảy Dù chẳng qua cũng chỉ là nút chận cho những toan tính rút chạy của những ưu tiên khác. Và Trung tá Bùi Quyền, cứu cánh cho niềm tin của tôi, chỉ là một trong những sĩ quan ưu tú được chọn làm vật hy sinh cùng với đơn vị chồng tôi, đơn vị mà ông chỉ huy. Tôi khờ khạo vẫn giữ chặt niềm tin và chờ đợi.

Sài Gòn gần cuối Tháng Tư ngày càng hoang mang, hỗn loạn. Dân chạy xuôi ngược tìm đường thoát. Các người có chức vụ, điều kiện ngày đêm tìm cách thoát thân ra nước ngoài. Các bà vợ lính như chúng tôi không ai nghĩ đến điều này, dường như mọi người đều mong gặp lại chồng mình từ Khánh Dương về được nhà. Và cũng chẳng nghĩ là mình sẽ được đăt chân lên một chiếc tàu, hay chiếc máy bay nào để di tản.

Vỡ trận Khánh Dương, chồng tôi cùng một số đồng đội thoát về được Phan Rang nhưng tôi vẫn không hề hay biết. Tôi vẫn khóc ngày đêm cầu nguyện.

Ngoài phố, không khí bàng hoàng lan khắp. Những chuyện kể kinh hoàng trên quốc lộ 7, đường 13.

Gần cuối Tháng Tư thì chồng tôi trở về. Tôi khóc nhiều vì mừng vui. Nhưng anh chưa kịp kể hết vì phải cắm trại, ứng chiến.

Chồng tôi chỉ là một người lính. Anh không để ý, không biết gì nhiều về chính trị. Anh cũng chưa bao giờ được học về chiến lược, chiến thuật như các cấp chỉ huy của anh. Anh đã bỏ ngoài tai lời khuyên của tôi, vợ anh là đừng vào trại nữa...

Rồi Đại tướng Minh đầu hàng 11 giờ trưa. Tôi được tin chồng chết lúc 13 giờ 30 phút hôm đó tại trận cuối cùng ở đường Lê Văn Duyệt, sau khi lui khỏi Ngã Tư Bảy Hiền, Bệnh viện Vì Dân.



Hôm nay, gần đến 30 Tháng Tư cũng là ngày giỗ của chồng, tôi viết những dòng này như một lời tạ lỗi với anh, với các đồng đội chiến hữu của anh vì lúc đó tôi chỉ nghĩ được rằng, đã có lệnh buông súng, tại sao không chịu tuân theo.

Các anh còn cầm súng vì các anh còn hy vọng... còn làm được chút gì cho đất nước miền Nam của các anh, gia đình của các anh, người dân của các anh... Mà khi ấy tôi và những bà vợ lính lại trách các anh sao mà dại quá!

Nguyễn Nguyên Hạnh

Việt Nam, tháng Tư, 2013

Nguồn Trẻ
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn