Với sự chấp thuận này, Tổng Thống Johnson có ba mục đích: thứ nhất, chính quyền Hà Nội phải chấm dứt các hoạt động trong miền nam. Thứ hai, thực hiện kế hoạch Tâm Lý Chiến, tuyên truyền người dân miền bắc. Thứ ba, gia tăng các hoạt động bán quân sự (tổ chức kháng chiến), gây khó khăn cho quân đội, chính quyền miền bắc. Và ông ta hy vọng chính quyền miền bắc sẽ cảm thấy tình hình không được sáng sủa cho họ và phải rút quân đội từ bên Lào và trong miền nam trở về miền bắc.
Ngày 21 tháng Mười Hai, Tổng Thống Johnson họp với bộ trưởng Quốc Phòng McNamara, giám đốc cơ quan Trung Ương Tình Báo CIA John McCone để bàn về Hành Quân (Chương Trình) 34A. Họ quyết định thực hiện những hoạt động bí mật, để đỡ bị tổn thất, và tránh dư luận Quốc Tế. Ủy ban Krulak được thành lập để xét lại Hành Quân 34A, thứ nhất, tìm hiểu xem Hà Nội sẽ trả đũa như thế nào cho các hoạt động bí mật này. Thứ hai, thăm dò dư luận Quốc Tế. Sau khi nghiên cứu, ủy ban Krulak khuyến cáo, Hành Quân 34A phải thu hẹp lại, và Tổng Thống Johnson ký thuận những lời khuyến cáo của ủy ban Krulak trong tháng Giêng năm 1964.
Bộ tư lệnh Quân Viện MACV trong Saigon ban hành quyết định “General Order 6”, thành lập một đơn vị “tối mật” được biết đến qua danh hiệu MACV-SOG hay SOG (Đoàn Nghiên Cứu Quan Sát) để thi hành những hoạt động bí mật theo lệnh của Tổng Thống Johnson.
Theo tài liệu “The Secret War Against Hanoi”, tác giả Richard Schultz, Jr. tìm lại những hoạt động của đơn vị SOG nơi miền bắc Việt Nam, sau đó phát triển sang Lào và Cambodia. Mục đích chính của đơn vị SOG, gửi những toán biệt kích xâm nhập ra miền bắc, phá rối hậu phương, tâm lý chiến, đưa những toán biệt kích hải quân (biệt hải) đánh phá hải phận miền bắc, và phá hoại đường mòn HCM.
Để yểm trợ cho những hoạt động bí mật này, đơn vị SOG có ba ngành, trong đó có Không Yểm, bao gồm tất cả các loại phi cơ chiến thuật, trực thăng và phi cơ vận tải, đóng trong các căn cứ không quân trong miền nam Việt Nam và Thái Lan.
Tướng William Westmoreland, tư lệnh Quân Đội Hoa Kỳ tại Việt Nam, đã báo cáo cho Bộ Quốc Phòng / bộ TTM Quân Lực Hoa Kỳ (Pentagon), những hoạt động của đơn vị SOG không đem lại nhiều kết qủa trong trận chiến với Hà Nội. Trong vòng sáu tháng kế tiếp, quân đội Hoa Kỳ không thèm để ý đến đơn vị SOG. Đô Đốc Harry Felt, vẫn tiếp tục cho những toán biệt hải, bắn phá bờ biển miền bắc, nhưng những toán biệt kích hoạt động nơi miền bắc Việt Nam, bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ không màng tới.
Chỉ còn lại bốn toán biệt kích cùng với một điệp viên đơn độc (singleton) cẫn còn hoạt động nơi miền bắc, được cơ quan CIA bàn giao cho đơn vị SOG vào đầu năm 1964. Năm đó, SOG đưa ra miền bắc khoảng 250 biệt kích quân, bằng phương tiện thả dù, đường biển và đường bộ.
Cơ quan CIA cung cấp cho đơn vị SOG đủ loại “đồ nghề” trong chiến tranh ngoại lệ. Những toán biệt kích SOG mặc quân phục lính Bắc Việt, võ trang tiểu liên AK-47, đem theo mìn bẫy, dụng cụ nghe lén điện thoại, v.v... Các loại vũ khí trong khối cộng sản kể cả súng cối 82 ly, sản xuất từ Trung Cộng, cơ quan CIA mua lại từ một quốc gia đệ tam, cung cấp cho đơn vị SOG.
Ngoài ra đơn vị SOG có một đài tiếp vận truyền tin, liên lạc, nằm trên đỉnh một ngọn núi cao trên đất Lào, quân đội Bắc Việt không thể lên tới được. Đài tiếp vận này rất quan trọng, cho những biệt kích quân bị thất lạc (trong lúc gia tranh với quân đội Bắc Việt), liên lạc với bộ chỉ huy hoặc các toán biệt kích khác.
Trong khoảng thời gian từ tháng Tư 1964 đến tháng Muời năm 1967, có khoảng 40 toán biệt kích, và điệp viên đơn độc được đưa ra xâm nhập miền bắc. Bốn toán biệt kích có tên Bell, Remus, Tourbillon, và Easy. Toán biệt kích thứ năm, Europa và những điệp viên đơn độc của cơ quan CIA, khi bàn giao cho đơn vị SOG cũng “được” thả xuống miền bắc.
Toán biệt kích Remus nhẩy dù xuống khu vực gần Điện Biên Phủ ngày 16 tháng Tư năm 1962. Nhiệm vụ của họ thiết lập một căn cứ bí mật, từ đó phát xuất đi những chuyến dò thám lấy tin tức. Ngoài ra toán biệt kích còn có thêm nhiệm vụ thâu thập những tin tức, tình hình chính trị miền bắc và những bản báo cáo của quân đội Bắc Việt, tìm những bãi thả dù để nhận đồ tiếp liệu cũng như những toán biệt kích khác. Toán biệt kích Remus thành công, phá xập vài chiếc cầu, nhưng trong năm 1968, mọi sự liên lạc với toán biệt kích Remus chấm dứt. Sau đó một tù binh Bắc Việt khai, có nghe nói toán biệt kích Mỹ Remus bị bắt trong tháng Sáu năm 1962.
Toán biệt kích Eagles được thả dù xuống khu vực gần biên giới Việt-Trung ngày 27 tháng Sáu năm 1964, với nhiệm vụ phá hoại đường xá, đường rầy xe lửa, và một căn cứ không quân. Họ chưa hoàn thành nhiệm vụ, đã được lệnh di chuyển về hướng nam rồi sau đó mất liên lạc.
Toán biệt kích Romero gồm mười người được trực thăng đưa vào xâm nhập khu vực nơi hướng bắc vùng phi quân sự. Toán biệt kích có nhiệm vụ theo dõi các cuộc chuyển quân của quân đội Bắc Việt từ miền bắc vào đất Lào (sau đó vào miền nam Việt Nam), và quấy rối, phá hoại con đường chiến luợc của quân đội Bắc Việt (đường mòn HCM). Trong những bản báo cáo của đơn vị SOG, toán biệt kích Romero không trả lời những tin tức đòi hỏi trong năm 67, 68.
Toán biệt kích Hadley, xâm nhập miền bắc bằng cách băng qua vùng phi quân sự. Toán biệt kích có nhiệm vụ theo dõi mức độ chuyển quân của quân đội Bắc Việt trên các con đường chạy qua Lào, và chỉ điểm cho không quân oanh kích đoàn xe chở quân của địch. Toán biệt kích Hadley có báo cáo về cho đơn vị SOG, nhưng những tin tức của họ không có giá trị.
Toán biệt kích Tourbillon nhẩy dù xuống khu vực gần biên giới Lào Việt. Toán biệt kích cuối cùng nhẩy dù xuống miền bắc là toán Red Dragon. Ngày 21 tháng Chín năm 1967, toán biệt kích Red Dragon bẩy người nhẩy dù xuống khu vực nơi phiá nam biên giới Việt-Trung. Cả hai toán biệt kích có nhiệm vụ dò thám lấy tin tức và phá hoại đường xá, cầu cống. Lần cuối cùng toán Red Dragon liên lạc năm 1969, người Hoa Kỳ nghi ngờ toán biệt kích đã bị bắt, gửi những báo cáo sai lạc về.
Trong chiến tranh tâm lý, người Hoa Kỳ cho phi cơ thả radio, đã được điều chỉnh trước xuống miền bắc, để nghe hai đài phát thanh “đen”, đài “Gươm Thiêng Ái Quốc” và đài “Cờ Đỏ”. Hai đài phát thanh “bí mật” này phát ra những tin tức sai lạc, phóng đại, về những toán biệt kích hoạt động bí mật nơi miền bắc (dĩ nhiên thổi phồng). Những điện văn gửi qua lại, nhắn tin giữa những toán biệt kích đang “nằm vùng” nơi miền bắc, làm sao bắt tay, v.v...
Nhiều toán biệt kích đang hoạt động nơi miền bắc được tăng cường thêm biệt kích quân bằng cách nhẩy dù xuống. Toán Toubillon nhận thêm “người” trong năm 1962, hai lần khác trong năm 1964, một lần trong các năm 1965, 1966 và 1967. Toán biệt kích Remus được tăng cường bốn lần, toán Easy được năm lần. Tất cả những biệt kích quân nhẩy dù xuống tăng cường đều bị giết hoặc bắt sống. Đơn vị SOG tin rằng các toán biệt kích đã bị bắt, rồi bị ép buộc gửi những tin tức, báo cáo sai lạc vào Saigon. Cơ quan Trung Ương Tình Báo CIA đã “làm” chuyện này từ lâu, bắt sống lính Bắc Việt, bắt cóc thường dân sinh sống nơi miền bắc, và xử dụng những “cảm tình viên” làm gián điệp “hai mang”. Đến năm 1967, chỉ còn bốn toán biệt kích, Eagles, Hadley, Red Dragon, Romeo và một điệp viên đơn độc vẫn còn hoạt động nơi miền bắc.
Đến cuối năm 1967, đơn vị SOG cho thêm hai toán biệt kích xâm nhập ngắn hạn, dò thám tìm mục tiêu vào trong các hoạt động bí mật của họ. Hành Quân 34 (Oplan 34) có thêm một “chương trình” (kế hoạch) mới, nhằm đánh lạc hướng cơ quan “phản gián” miền bắc. Chương trình này có mật danh “Forae”, đon vị SOG hy vọng sẽ gây chia rẽ trong nội bộ miền bắc.
Đến năm 1968, Hành Quân 34 chia làm ba chương trình: 34A đặc trách các toán biệt kích hoạt động nơi miền bắc Việt Nam. 34B, bao gồm các toán biệt kích “Strata” xâm nhập, dò thám miền bắc trong thời gian ngắn. 34C, bao gồm các hoạt động nhằm đánh lạc hướng địch quân.
Theo kế hoạch Hành Quân 34A, những toán biệt kích xâm nhập miền bắc, có nhiệm vụ xây dựng những nhóm kháng chiến, chống lại chế độ Hà Nội. Nhưng chưa bao giờ được Washington chấp thuận nên nhiệm vụ thay đổi, lấy tin tức tình báo, phá hoại và tâm lý chiến. Rồi toán biệt kích được lệnh không được tiếp xúc với dân chúng miền bắc... làm cho họ không thể nào hoàn tất nhiệm vụ. Tóm lại, chương trình 34A của đơn vị SOG không thành công.
Chuyện đưa những toán biệt kích xâm nhập miền bắc, có thể nói hoàn toàn thất bại. Ngày 14 tháng Ba năm 1968, tư lệnh Quân Đội Hoa Kỳ tại Việt Nam, tướng William Westmoreland, chấp thuận cho một chương trình mới nhằm đánh lạc hướng địch quân, có mật hiệu là Forae. Mục đích chính của chương trình Forae, làm cho chính quyền Hà Nội tin rằng, có nhiều toán biệt kích đang hoạt động nơi miền bắc Việt Nam... nhiều hơn họ được biết. Điều này làm lạc hướng quân đội Bắc Việt trong miền nam, và cho Hà Nội biết rằng, nền an ninh miền bắc không được yên ổn, không thể đưa thêm quân vào miền nam.
Forae có ba chương trình căn bản, mang mật danh, Borden, Urgency và Oodles. Chương trình Borden tuyển mộ tù binh Bắc Việt làm việc cho đơn vị SOG. Họ đưa những tù binh này đi nơi khác, huấn luyện, rồi trả về miền bắc. Người Hoa Kỳ, cho họ biết những tin tức sai lạc, có rất nhiều toán biệt kích đang hoạt động hữu hiệu nơi miền bắc Việt Nam và con số lực lượng kháng chiến càng ngày càng gia tăng. Khi được đưa trở ra miền bắc, đơn vị SOG tin rằng, các tù binh này sẽ khai lại những điều mình biết cho sĩ quan an ninh Bắc Việt. Trong năm 1968, chương trình Borden tuyển mộ 98 “cựu tù binh” Bắc Việt và đưa ra miền bắc 44 người.
Urgency có hai nhiệm vụ. Thứ nhất, “làm việc” với những tù binh (bị bắt), thường dân miền bắc (bị bắt cóc) cứng đầu, không chịu hợp tác. Những người này được đưa ra “Paradise Island” (Cù lao Chàm) để nhồi sọ, làm cho họ có cảm tưởng đang sống ở một nơi nào đó trên miền bắc Việt Nam, trong lòng một tổ chức kháng chiến, với đài phát thanh “đen”. Sau đó họ được huấn luyện nhẩy dù, và thả dù xuống gần một làng nơi miền bắc để họ có thể đi bộ đến làng, trình diện, đem theo những tin tức sai lạc.
Nhiệm vụ thứ hai cũng nhằm đánh lạc hướng chính quyền miền bắc. Lần này họ xử dụng những người chịu hợp tác, cũng đưa ra “Paradise Island” tuyên truyền, trao cho những tin tức sai lạc rồi trả về miền bắc.
Chương trình đánh lạc hướng địch quân qua phương tiện truyền thông, máy phát thanh (radio) là Oodles. Chương trình làm như có một hệ thống gián điệp, biệt kích nằm vùng trong một khu vực chọn lọc nơi miền bắc Việt Nam. Gửi đi những điện văn cho những toán biệt kích (không có thực) nằm vùng, bao gồm: thả dù tiếp tế, thả dù toán biệt kích mới, thả dù thêm biệt kích xuống tăng cường, chúc mừng ngày sinh nhật của toán viên nào đó... Thả những kiện hàng tiếp tế trống rỗng xuống gần chỗ đóng quân của một đơn vị lính Bắc Việt, làm cho địch có cảm tưởng, toán biệt kích... đã đem đi hết đồ tiếp tế.
Ngoài ba chương trình chính yếu, Forae tạo ra thêm ba chương trình khác, Uranolite, Pollack, và Sanitaries. Uranilite thả xuống miền bắc những thùng đồ “quấy rối” gây khó khăn, mệt mỏi cho lực lượng an ninh miền bắc. Chẳng hạn như thùng đựng giấy nhưng bên ngoài có vẻ như thùng chứa máy móc điện tử để lấy tin tức, dụng cụ ám sát, chất nổ, v.v... và đã được toán biệt kích (ma) đến lấy đi. Chương trình Pollack gửi những tài liệu giả, để viên chức trong chính quyền miền bắc nghi kỵ lẫn nhau. Pollack chấm dứt hoạt động trong tháng Mười Một năm 1968. Sanitaries trợ lực cho đài phát thanh đen “Gươm Thiêng Ái Quốc”, làm như các hoạt động của các toán biệt kích nơi miền bắc rất thành công.
Những chương trình “đánh lạc hướng” miền bắc, tỏ ra có hiệu qủa. Đài phát thanh, báo chí miền bắc lên tiếng lo ngại những chuyện điệp viên, biệt kích xâm nhập. Đến tháng Mười Một năm 1968, Washington ra lệnh cho đơn vị SOG chấm dứt tất cả các hoạt động này.
Trong tháng Mười Hai năm 1964, đơn vị SOG được lệnh gia tăng những hoạt động đánh phá các mục tiêu dọc theo bờ biển miền bắc. Trong năm 1965, đơn vị SOG (Biệt Hải) đã tổ chức 170 chuyến hành quân vượt tuyến phát xuất từ Đà Nẵng. Những tầu chiến Swift, Nasty chạy tốc độ rất nhanh, tấn công các mục tiêu nơi bờ biển, bắt cóc ngư dân miền bắc đem đến “Paradise Island” để tuyên truyền. Sau đó họ được trao qùa tặng, truyền đơn, radio để nghe đài “Gươm Thiêng Ái Quốc” và đưa trở về làng cũ nơi bờ biển miền bắc. Trong năm 1965, SOG bắt cóc 126 thường dân miền bắc, thả xuống miền bắc 1000 radio, và 28.742 hộp qùa và cả triệu tờ truyền đơn. Năm sau, 1966 họ bắt cóc 353 thường dân ngoài bắc.
HÀNH QUÂN 34A (OPLAN 34 ALPHA)
Hành quân 34A hay Kế Hoạch Hành Quân 34 Alpha (Operation Plan 34 Alpha), là một chương trình tối mật, cho những hoạt động bí mật chống lại chính quyền miền bắc Việt Nam. Những hoạt động bí mật bao gồm: cho điệp viên, thả những toán biệt kích xâm nhập vào miền bắc phá hoại, và xử dụng đơn vị Biệt Hải (Biệt Kích Hải Quân) đánh phá những mục tiêu dọc theo bờ biển miền bắc.
Chương tình này do cơ quan Trung Ương Tình Báo CIA dựng lên từ năm 1961, đến năm 1964 chuyển giao cho bộ Tư Lệnh Quân Viện MACV trong kế hoạch “Trở Lại” (Switch Back). Quân đội Hoa Kỳ xây đựng một đơn vị lấy tên là Đoàn Nghiên Cứu Quan Sát (Study and Observation Group) SOG để nhận lãnh trách nhiệm này. SOG cũng là một “danh hiệu” để che dấu những hoạt động trong “Chiến Tranh Ngoại Lệ”, nhận lệnh trực tiếp từ bộ Quốc Phòng / Tổng Tham Mưu Quân đội Hoa Kỳ. Đại tướng William Westmoreland, tư lệnh Quân Lực Hoa Kỳ tại Việt Nam không có quyền ra lệnh cho những cuộc hành quân ngoài phạm vi miền nam Việt Nam. Ông ta được nghe thuyết trình, báo cáo, v.v... nhưng tất cả mọi hoạt động ngoại biên đều theo lệnh của bộ Quốc Phòng và của Tổng Thống Hoa Kỳ.
Theo đúng kế hoạch nguyên thủy, hành quân 34A thả những toán biệt kích ra miền bắc, xây dựng hệ thống kháng chiến chống lại chính quyền cộng sản và thiết lập đài phát thanh “đen” Gươm Thiêng Ái Quốc phát tuyến ra miền bắc, trong chương trình tâm lý chiến, tuyên truyền chống lại giới lãnh đạo miền bắc.
Đó là những nhiệm vụ chính trong hành quân 34A cho đến cuối năm 1966. Sau đó, nhiệm vụ phá hoại, tâm lý chiến trở thành phụ, nhiệm vụ chính là dò thám, phá hoại, ngăn chặn hệ thống đường mòn HCM.
Vấn đề thả biệt kích ra miền bắc, nằm vùng dài hạn quá khó khăn, có thể xem như thất bại hoàn toàn. Hành quân 34A lại thay đổi kế hoạch, những toán biệt kích “STRATA” chỉ xâm nhập ngắn hạn một, hai tuần trong những khu vực giới hạn (gần vĩ tuyến 17). Ngoài ra đơn vị SOG tổ chức chương trình FORAE, gửi những điện văn giả cho những toán “biệt kích ma” đang nằm vùng nơi miền bắc để đánh lừa, làm rối loạn chính quyền miền bắc. Đến cuối năm 1968, hành quân xâm nhập được chia làm ba bộ phận rõ ràng:
- 34A: Xâm nhập nằm vùng dài hạn.
- 34B: Xâm nhập ngắn hạn (Strata).
- 34C: Đánh lừa (Diversionary).
Chương trình Forae bao gồm các hoạt động:
- Borden: Xử dụng tù binh chính quy Bắc Việt bị quân đội Hoa Kỳ bắt (họ không xử dụng tù binh quân đội VNCH bắt), huấn luyện sơ sơ, cung cấp những tin tức sai lạc, rồi cho nhẩy dù trở ra miền bắc, với hy vọng họ sẽ bị lực lương an ninh, biên phòng miền bắc bắt. Những lời khai của các tù binh này làm miền bắc tin rằng có rất nhiều toán biệt kích đang hoạt động nơi miền bắc.
- Urgency: Ngược lại với hoạt động Borden, chọn những tù binh Bắc Việt “cứng đầu”, rồi trả tự do cho họ qua vùng phi quân sự. Khi trở về miến bắc, họ nói sự thật cũng chẳng ai tin tưởng.
- Oodles: Với những hoạt động thả biệt kích, gửi điệp viên ra miền bắc hoạt động... cứ làm như thật, nhưng tất cả đều giả tạo. Thí dụ như thả dù những tảng đá (đá lạnh) lớn xuống miền bắc. Khi xuống tới đất, nước đá tan hết, nhưng những cánh dù vẫn còn đó, như có toán biệt kích vừa mới xâm nhập.
Sau nhiều chuyến thả biệt kích xâm nhập miền bắc Việt Nam không thành công, tất cả các biệt kích quân Việt Nam trong các toán biệt kích đều bị giết hoặc bị bắt, giam cầm ngoài miền bắc. Đơn vị SOG chuyển hướng hoạt động, cho những toán biệt kích hải quân (Biệt Hải) đánh phá một số mục tiêu dọc theo bờ biển miền bắc Việt Nam.
TOÁN BIỆT KÍCH, ĐƠN VỊ HATCHET FORCE, ĐƠN VỊ SLAM
Nói về Lực Lượng Đặc Biệt Hoa Kỳ trên chiến trường Việt Nam, chúng ta hình dung ra những toán A LLĐB, trấn đóng một tiền đồn hẻo lánh, huấn luyện, chiến đấu với sắc dân thiểu số người Mèo, người Thượng. Nói chung, LLĐB/HK có nhiệm vụ yểm trợ cho những hoạt động du kích chiến đằng sau hậu phương địch.
Khi trận chiến lan rộng, Đoàn Nghiên Cứu Quan Sát (SOG) là đơn vị đặc trách những hoạt động trong lòng địch. Hành Quân 35 (Oplan 35) được trao cho trách nhiệm tổ chức những chuyến hành quân xâm nhập “vượt biên” qua Lào và Cambodia. Các toán biệt kích trong hành quân 35 được đưa lên các căn cứ hành quân tiền phương (FOB), FOB-1 Phú Bài, FOB-2 Kontum, FOB-3 Khe Sanh, FOB-4 Đà Nẵng, FOB-5 Ban Mê Thuột và FOB-6 trại Hồ Ngọc Tảo, trước khi được trực thăng đưa đi xâm nhập.
Thường những toán biệt kích trong hành quân 35 có hai hoặc ba quân nhân LLĐB/HK, và chín biệt kích quân người Thượng. Ngoài ra còn có những tiểu đoàn “xung kích” SLAM (Search, Locate, Annihilate, Monitor) gồm bốn đại đội. Đơn vị cấp lớn này cũng hành quân ngoại biên, và phát xuất từ các căn cứ hành quân tiền phương như các toán biệt kích.
Những toán biệt kích có nhiệm vụ: dò thám đường mòn, khu vực, đặt mìn phá hoại, phục kích, bắt cóc tù binh, thẩm định kết qủa trận đánh bom, điều chỉnh phi cơ pháo binh bắn phá căn cứ, nơi đóng quân của địch, cứu tù binh bị địch giam cầm. Nhiệm vụ cho đơn vị SLAM thường là tấn công, phá hủy binh trạm, căn cứ, kho hàng của địch.
Trong tháng Mười Một năm 1967, hành quân 35 được tổ chức lại với ba bộ chỉ huy: Bắc (Command and Control North, CCN) ở Đà Nẵng, Trung (Central, CCC) ở Kontum, và Nam (South, CCS) ở Ban Mê Thuột. Khu vực hành quân (ngoại biên) được chia ra: Daniel Boone chạy từ ngả ba biên giới (Việt, Miên, Lào, gần trại LLĐB Ben Het) xuống đến hết miền nam. Prairie Fire từ vùng tam biên trên đất lào, lên đến biên giới với miền bắc Việt Nam. Nickel Steel là khu vực phiá tây vùng phi quân sự. Bộ chỉ huy Nam (CCS) cho những toán biệt kích xâm nhập vùng hành quân Prairie Fire (Lào) và khu vực Alpha (bắc) vùng hành quân Daniel Boone Miên). Bộ chỉ huy Bắc (CCN) lo vùng hành quân Prairie Fire (Lào), và Nickel Steel. Bộ chỉ huy Trung (CCC) chịu trách nhiệm vùng hành quân Prairie Fire (Lào).
Hành quân Prairie Fire là hậu thân của hành quân Shining Brass, và sau năm 1971 đổi tên Việt Nam là Phù Dung. Hành quân Daniel Boone đổi tên thành Salem House và sau đó thành Thốt Nốt. Nickel Steel trước đó có tên là Double Cross.
Từ tháng Chín năm 1966, cho đến tháng Tư năm 1971, đơn vị SOG tổ chức hơn 1500 chuyến hành quân xâm nhập qua Lào và Miên. Thâu thập những tin tức chiến lược về quân đội Bắc Việt. (G.B. Crouse)
Dallas, TX. May 5, 2010
Vũ Đình Hiếu chuyển ngữ
Theo tài liệu: http://www.specialoperations.com/MACVSOG/Tales_from_SOG/Never_On_Sunday.htm
Gửi ý kiến của bạn