Địa danh Đà Nẵng gốc từ tiếng Chiêm (Chàm, Chăm), có thể có trước khi người Việt đến Đà Nẵng. Năm 1306, vua Chiêm Thành là Chế Mân tặng vua Đại Việt hai châu Ô và Ri (hay Lý) trong phần sính lễ đám cưới với công chúa Huyền Trân. Hai châu nầy ngày nay tương đương với vùng đất từ Quảng Trị vào đến quận Điện Bàn, trong đó có Đà Nẵng.
Trong sách Ô châu cận lục, Dương Văn An viết năm 1555 rằng tại Đà Nẵng, có đền thờ Nguyễn Phục, một công thần bị chết oan khi vua Lê Thánh Tông nam chinh đánh Chiêm Thành năm 1471. (Dương Văn An, Ô Châu cận lục, Bùi Lương dịch, Sài Gòn: Nxb. Văn Hóa Á Châu, 1961, tr. 73.) Đà Nẵng có đền thờ Nguyễn Phục năm 1471 thì địa danh Đà Nẵng phải có trước đó.
Trong tiếng Chiêm, có ba chữ liên hệ đến địa danh Đà Nẵng. Đó là đarăk (bờ biển, bãi biển), đanăk (sông lớn), đanăng (bến sông, bến tàu). (Nguyễn Hy Vọng, Từ điển ngồn gốc tiếng Việt, California: Nxb. Đất Việt, 2014, tr. 362.)
ĐÀ NẴNG, CHIẾN CÔNG ĐẦU TIÊN
Đà Nẵng đi vào lịch sử lần đầu tiên trong trận chống đánh liên quân Pháp – Tây Ban Nha tấn công Đà Nẵng đầu tiên ngày 1-9-1858 do phó đô đốc Rigault de Genouilly chỉ huy. “Tai nghe súng nổ cái đùng,/ Tàu Tây đã lại Vũng Thùng anh ơi.” (ca dao) Quân Pháp chiếm các đồn ven biển, nhưng bị quân Việt do Nguyễn Tri Phương chỉ huy, chận đứng. Genouilly để lại lực lượng giữ các đồn đã chiếm ở Đà Nẵng, rồi kéo quân vào đánh Gia Định. (Vũng Thùng là Đà Nẵng.)
Tuy chiếm được thành Gia Định, nhưng Genouilly lại phải trở ra Đà Nẵng vì quân Pháp ở Đà Nẵng bị quân Việt uy hiếp và đẩy lui. Ngày 7 và 8-5-1859, Genouilly tấn công lần nữa nhưng Đà Nẵng vẫn đứng vững. Lúc đó, Genouilly bị bệnh phải về Pháp, phó để đốc Joseph Page lên thay từ 1-11-1859.
Ngày 18-11-1859, Page tấn công đồn Chơn Sảng, phía nam chân đèo Hải Vân. Tuy Pháp chiếm được Chơn Sảng, nhưng một trung tá Pháp bị tử thương, và quân Pháp bị chận đường ra Huế. Sau trận nầy, Page được lệnh rút hết quân Pháp vào Sài Gòn. Về phía Việt Nam, dầu bị thiệt hại khá nặng, Đà Nẵng vẫn đứng vững, chận đứng được đợt tấn công đầu tiên của quân Pháp.
ĐÀ NẴNG, NHIỀU LẦN ĐỔI CHỦ
* Pháp bảo hộ Việt Nam năm 1884. Bốn năm sau, Pháp áp lực vua Đồng Khánh ký sắc dụ ngày 26 tháng 8 năm mậu tý (1-10-1888), nhượng ba thành phố Hà Nội, Hải Phòng và Đà Nẵng cho Pháp làm nhượng địa. Pháp trực tiếp cai trị Đà Nẵng theo luật lệ Pháp. Khi mới đến nước ta, các giáo sĩ Âu Châu gọi Đà Nẵng là Touron, Turon, Touraon. Từ nay người Pháp gọi Đà Nẵng là Tourane.
* Năm 1945, Nhật đảo chánh Pháp. Vua Bảo Đại tuyên bố độc lập ngày 11-3. Đà Nẵng trở về với chính quyền Việt và vị thị trưởng đầu tiên được chính phủ Trần Trọng Kim bổ nhiệm là Nguyễn Khoa Phong.
* Cũng trong năm 1945, Việt Minh cộng sản cướp chính quyền, vua Bảo Đại thoái vị. Việt Minh đổi Đà Nẵng thành Thành phố Thái Phiên. Tuy nhiên văn hóa Việt Nam không có thói quen dùng tên danh nhân đặt tên thành phố, nên dân chúng vẫn dùng tên Đà Nẵng.
* Tháng 11-1946, Pháp đổ bộ vào Đà Nẵng, rồi từ đó mở đường ra Huế. Đà Nẵng trở lại chế độ do Pháp trực trị cho đến năm 1949.
* Quốc trưởng Bảo Đại thành lập chính thể Quốc Gia Việt Nam sau hiệp định Élysée ngày 8-3-1949. Đà Nẵng do chính quyền Việt Nam điều khiển. Sau hiệp định Genève ngày 20-7-1954, Đà Nẵng nằm dưới vĩ tuyến 17, vẫn thuộc về chính thể Quốc Gia Việt Nam. Đà Nẵng không thay đổi, ngoại trừ dân số Đà Nẵng tăng vọt bất thường sau năm 1954 vì đồng bào di cư từ Bắc vào nam, đến lập cư tại Đà Nẵng.
QUÂN MỸ VÀO ĐÀ NẴNG
Từ năm 1954, Hoa Kỳ viện trợ và gởi chuyên viên đến giúp QGVN rồi VNCH, nhưng không gởi lực lượng chiến đấu trên bộ. Ngày 2-8-1964 xảy ra biến cố Vịnh Bắc Việt: khu trục hạm Maddox (Hoa Kỳ) tuần thám bờ biển BVN, trong hải phận quốc tế, đến phía đông bắc đảo Hòn Mê (Thanh Hóa), thì bị ba ngư lôi đĩnh BVN tấn công. Không quân Hoa Kỳ liền trả đũa, oanh tạc sâu vào lãnh thổ BVN. Ngày 7-8-1964, quốc hội Hoa Kỳ thông qua “Nghị quyết vịnh Bắc Việt”, giao cho tổng thống Hoa Kỳ dùng tất cả các biện pháp cần thiết để đánh trả, nghĩa là cho phép ông có thể đưa quân sang Việt Nam chiến đấu.
Do hoạt động của Không quân Hoa Kỳ càng ngày càng gia tăng, phi trường Đà Nẵng được dùng làm nơi xuất phát các phi cơ bay đi oanh tạc Bắc Việt Nam (BVN). Theo lệnh của chính phủ Hoa Kỳ, đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam là Maxwell Taylor vận động với thủ tướng Phan Huy Quát và hai bên Việt Mỹ thỏa thuận miệng để cho Hoa Kỳ đưa hai tiểu đoàn Thủy quân Lục chiến (TQLC) Mỹ đến Đà Nẵng.
Ngày 8-3-1965, tiểu đoàn 9 TQLC Mỹ đổ bộ đầu tiên vào bãi biển Nam Ô, phía tây Đà Nẵng. Từ đó quân số Hoa Kỳ tại Việt Nam càng ngày càng gia tăng. Cũng từ đó xã hội Việt Nam thay đổi lớn lao vì sự hiện diện của quân đội Mỹ.
ĐÀ NẴNG, NHỮNG CUỘC BIỂU TÌNH
Tại Đà Nẵng, trong cuộc biểu tình ngày 25-8-1964 chống Hiến chương Vũng Tàu của trung tướng Nguyễn Khánh, xảy ra xô xát giữa đoàn biểu tình gồm hàng ngàn Phật tử một bên, với tự vệ làng Thanh Bồ một bên. Làng Thanh Bồ gồm đa số tín đồ Ky Tô giáo di cư, gần bờ biển Thanh Bình. Kết quả làm 11 người chết, 42 người bị thương. (Chính Đạo, Tôn giáo và chính trị: Phật giáo 1963-1967, Houston: Nxb. Văn Hóa, 1997, tr. 119.)
Một cuộc biểu tình sôi động khác tại Đà Nẵng kéo dài nhiều ngày khi trung tướng Nguyễn Chánh Thi, tư lệnh Quân đoàn I và Vùng I chiến thuật bị Hội đồng Quân lực cất chức ngày 11-3-1966. Hôm sau, 12-3, cuộc biểu tình bộc phát tại Đà Nẵng, rồi lan ra Huế ngày 13-3. Lúc đó, thị trưởng Đà Nẵng (bác sĩ Nguyễn Văn Mẫn) và tư lệnh Đặc khu Quảng Đà (đại tá Đàm Quang Yêu) tuyên bố ly khai với chính phủ trung ương, làm cho tình hình thêm rối loạn.
Thủ tướng Nguyễn Cao Kỳ gởi ra Đà Nẵng 3 tiểu đoàn TQLC do đại tá Nguyễn Thành Yên chỉ huy, 1 tiểu đoàn Nhảy Dù và 1 biệt đoàn Cảnh sát Dã chiến. (Biệt đoàn CSDC khoảng 1,000 người.) Quân chính phủ bị lực lượng ly khai chận ở phi trường. Lực lượng ly khai gồm tiểu đoàn 11 Biệt Động Quân, 1 trung đoàn của Sư đoàn 1 và 1 trung đoàn của Sư đoàn 2. Khu trục cơ của chính phủ xuất hiện trên không phận Đà Nẵng, đe dọa quân ly khai, thì tướng Lewis Walt, tư lệnh TQLC Hoa Kỳ tại Vùng I phản đối. (Nguồn tin từ cựu đại tá Trần Minh Công.)
Sau những cuộc thương thuyết tại Sài Gòn, cũng như tại Đà Nẵng, phía quân ly khai rút lui, thì ngày 15-5-1966, quân chính phủ chiếm Bộ tư lệnh Quân đoàn I. Khi lực lượng Nhảy dù, TQLC và CSDC xuất hiện ở Đà Nẵng, lực lượng ly khai yếu thế dần. Ngày 23-5-1966, nhóm ly khai tại chùa Tỉnh hội Phật giáo Đà Nẵng (trên đường Ông Ích Khiêm) hạ khí giới. Thị trưởng Mẫn bị bắt. Đại tá Yêu cũng bị bắt ngày 25-5-1966. Đà Nẵng trở lại ổn định dần dần. Sau khi một số tướng lãnh thay đổi nhau, thiếu tướng Hoàng Xuân Lãm, tư lệnh Sư đoàn II BB, lên nhận chức tư lệnh QĐ I ngày 31-5-1966.
ĐÀ NẴNG TRONG TẾT MẬU THÂN
Tối giao thừa giữa hai năm đinh mùi và mậu thân, tức tối 29 rạng 30-1-1968, quân cộng sản (CS) pháo kích vào phi trường Non Nước và phi trường Đà Nẵng. Sau 3 giờ sáng mồng 1 Tết (30-1-1968), CS đột nhập bộ Tư lệnh QĐI ở Đà Nẵng (gần phi trường). Các đợt tấn công nầy bị đẩy lui tức khắc. Quân CS còn tìm cách tấn công bộ chỉ huy Đặc khu Quảng Đà ở góc hai đường Độc Lập và Thống Nhất. Cộng sản cũng không thành công. Cộng sản còn sách động dân chúng tập họp trước chùa Tỉnh hội Phật giáo Đà Nẵng trên đường Ông Ích Khiêm, liền bị giải tán ngay.
Tuy ít bị thiệt hại, nhưng Đà Nẵng vẫn bị xáo trộn vì đồng bào từ Quảng Trị, Huế và Tam Kỳ, Hội An đến tỵ nạn đông đảo. Sau khi CS bị đẩy lui, có nhiều đồng bào muốn ở lại Đà Nẵng sinh sống. Vì vậy sau cuộc tấn công Mậu Thân của CS, dân số Đà Nẵng tăng vọt vì chiến tranh.
Trong cuộc chiến “Mùa hè đỏ lửa” năm 1972, Đà Nẵng không bị tấn công. Chỉ có đồng bào các tỉnh lân cận chạy đến tỵ nạn.
ĐÀ NẴNG VÀ TRẬN HOÀNG SA (19-1-1974)
Trận Hoàng Sa diễn ra ngày 19-1-1974. Ở đây chỉ xin nhắc lại rằng khi tình hình Hoàng Sa căng thẳng, tổng thống Nguyễn Văn Thiệu có mặt ở Đà Nẵng. Tư lệnh Vùng I Duyên hải (V1DH), phó đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại trực tiếp trình bày tình hình với tổng thống Thiệu tại Bộ tư lệnh V1DH ở Sơn Chà ngày 17-1-1974. Tổng thống Thiệu liền viết tay tại chỗ chỉ thị cách đối phó cho tư lệnh V1DH. Trận đánh không thành công, nhưng Hải quân VNCH đã ghi lại một trang sử chống ngoại xâm anh dũng vẻ vang.
Nhân đây, cũng xin thêm một tài liệu về Hoàng Sa: Năm 1949, Trung Cộng (TC) chiếm lục địa Trung Hoa. Trung Hoa Quốc Dân Đảng (THQDĐ) di tản qua Đài Loan. Sau đó, TC đánh đảo Hải Nam. Quân THQDĐ ở Hải Nam chạy xuống đảo Bạch Long Vỹ, gần Hải Phòng. Lúc đó, Bạch Long Vỹ thuộc QGVN. Sau hiệp định Genève (20-7-1954}, Bạch Long Vỹ ở phía bắc vĩ tuyến 17, thuộc CSVN. Năm 1955, TC lấy cớ dẹp quân THQDĐ, tấn công Bạch Long Vỹ. Cuộc thương thuyết giữa BVN và TC đi đến thỏa thuận rằng TC giao Bạch Long Vỹ cho BVN năm 1957, và ngược lại BVN giao Hoàng Sa cho TC.(1) Bạch Long Vỹ là hòn đảo Việt Nam. Thế mà CSVN không đủ sức bảo vệ để TC cướp giựt, rồi phải trao đổi bằng một đảo khác. Sau đó, Phạm Văn Đồng ký công hàm ngày 14-9-1958 chính thức công khai xác nhận lại việc giao Hoàng Sa và Trường Sa cho TC. Từ đó, TC dần dần thôn tính Hoàng Sa và Trường Sa. Gần đây nhất, ngoại trưởng TC Vương Nghị tuyên bố trong cuộc họp báo ở Bắc Kinh ngày 8-3-2015 rằng TC xây thêm đảo ở Trường Sa không xâm phạm lãnh thổ của nước khác mà chỉ “xây dựng trong chính sân nhà của mình”. Cả thế giới phản đối, trừ CSVN. Bộ Ngoại giao CSVN còn hủy bỏ cuộc họp báo thường kỳ sau đó vì sợ bị chất vấn.
ĐÀ NẴNG NGÀY 29-3-1975
Sau hiệp định Paris (27-1-1973), trong khi Hoa Kỳ rút quân, cắt giảm viện trợ cho NVN, thì Liên Xô tăng viện trợ gấp 4 lần cho BVN. Quân CS mở nhiều cuộc tấn công mạnh mẽ, chiếm Phước Long (thuộc Quân khu III) vào đầu tháng 1-1975, rồi đánh Ban Mê Thuột, Pleiku tháng 3-1975 (thuộc Quân khu II). Quân đoàn II VNCH rút lui thất bại.
Tại Quân khu I, ngày 23-3-1975, CS pháo kích vào Huế. Dân chúng hoang mang, kiếm cách di tản. Tối 25-3, trung tướng Ngô Quang Trưởng ra lệnh cho SĐ I BB, các lữ đoàn TQLC và các đơn vị chung quanh Huế rút về Đà Nẵng. Ngày hôm sau (26-3), CS làm chủ Huế. Đường bộ từ Huế vào Đà Nẵng bị cắt đứt.
Quân đội VNCH và dân chúng di tản từ Huế vào Đà Nẵng bằng đường biển. Cộng sản pháo kích các địa điểm tập trung quân, các cửa biển, nhất là Cửa Thuận (Huế) và cửa Tư Hiền (Cầu Hai). Hỗn loạn xảy ra. Cuộc triệt thoái chỉ đem về Đà Nẵng được 1/3 tổng số quân.
Tại phía nam QK I, CS chiếm hai quận Tiên Phước và Hậu Đức tỉnh Quảng Tín cùng một lần vào ngày 10-3-1975. Trung tướng Trưởng ra lệnh di tản các quận Sơn Trà và Trà Bồng, cũng như các tiền đồn ở xa Quảng Ngãi. Ngày 24-3-1975, CS chiếm Tam Kỳ. Hôm sau (25-5), trước áp lực của CS, tướng Trưởng ra lệnh SĐ 2 BB và tiểu khu Quảng Ngãi di tản ra Cù lao Ré (đảo Lý Sơn) ngoài Biển Đông. Từ Chu Lai, ngày 25-4, các đơn vị VNCH cũng được di tản và khoảng 7,000 binh sĩ về tới Đà Nẵng.
Ngày 27-3, các đơn vị quân đội VNCH ở bắc và nam QK I hầu như tập trung hết về Đà Nẵng. Chiều 28-3, tiểu khu Quảng Nam ở Hội An, gần Đà Nẵng thất thủ. Tối hôm đó (28-3), trung tướng Trưởng liên lạc với tổng thống Thiệu và được lệnh di tản. Sau cuộc điện đàm, trung tướng Trưởng liền ra lệnh triệt thoái khỏi Đà Nẵng.
Tối 28-3-1975, chuẩn tướng Nguyễn Văn Điềm, tư lệnh SĐ 1 BB bị tử nạn máy bay. Sáng 29-3-1975, từ căn cứ Non Nước, trung tướng Trưởng lên được chiến hạm HQ 402, rồi chuyển qua HQ 404 để xuôi nam. Ngoài trung tướng Trưởng, các tướng lãnh cuối cùng rời Đà Nẵng sáng 29-3 là thiếu tướng Bùi Thế Lân, tư lệnh SĐTQLC, phó đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại, tư lệnh Hải quân V1DH, chuẩn tướng Nguyễn Đức Khánh, tư lệnh Sư đoàn I Không quân, thiếu tướng Nguyễn Duy Hinh, tư lệnh SĐ 3 BB.
Trong lúc đó, ngày 27-3, nhiều cánh quân CS bao vây Đà Nẵng, các chiến xa CS xuất hiện. Ngày 28-3, CS siết chặt vòng vây, pháo kích vào phi trường, bộ Tư lệnh SĐ 3 (ở Hòa Khánh, Quảng Nam, gần Đà Nẵng), hải cảng Tiên Sa (tức Sơn Trà), bộ Tư lệnh TQLC ở Non Nước, bộ Tư lệnh V1DH. Quân CS tràn vào thành phố Đà Nẵng sáng 29-3-1975. Quân khu I lọt vào tay CS.
ĐÀ NẴNG SAU 30-4-1975
Sau ngày 30-4-1975, CSVN sáp nhập Đà Nẵng và Quảng Nam thành tỉnh QN-ĐN. Đà Nẵng trở thành tỉnh lỵ của tỉnh nầy. Cũng như trên toàn quốc, CS bắt sĩ quan, công chức cao cấp đi tù cải tạo dài hạn không tuyên án, thi hành chính sách kinh tế chỉ huy, đổi tiền, ngăn sông cấm chợ, đánh tư sản, cướp các cơ sở kinh tế tư nhân bằng kế hoạch công tư hợp doanh, xua đuổi dân chúng đi kinh tế mới để cướp nhà…
Từ 1-1-1997, CSVN tách riêng Đà Nẵng và đặt trực thuộc trung ương. Vào đầu những năm 2000, Đà Nẵng phát triển mạnh mẻ. Đặc biệt hai viên tổng bí thư đảng CS kiêm chủ tịch nước TC là Giang Trạch Dân (ngày 28-2-2002) và Hồ Cẩm Đào (ngày 15-11-2006) đều đến thăm Đà Nẵng. Từ đó, hai câu hỏi cần được đặt ra: TC mưu tính gì đàng sau hai cuộc viếng thăm bất thường nầy? Phải chăng hai cuộc viếng thăm nầy liên hệ đến việc nhà nước trung ương CSVN hậu thuẫn cho sự phát triển Đà Nẵng? Nếu trung ương CSVN không đồng ý, thì chắc chắn Đà Nẵng không được phép phát triển.
KẾT LUẬN
Sơ lược những sự kiện trên đây cho thấy Đà Nẵng giữ một vị trí chiến lược quan trọng tại miền Trung nói riêng và trên toàn quốc nói chung. Chẳng những Pháp, mà cả đến Tàu cũng dòm ngó Đà Nẵng.
Khi đất nước bị chia hai năm 1954, Đà Nẵng là tiền đồn canh chừng và ngăn chận CS Bắc Việt Nam. Năm 1968, CS chiếm Huế. Đà Nẵng đứng vững và tiếp ứng giải cứu Huế. Năm 1972, CS chiếm Quảng Trị, đe dọa Huế, Đà Nẵng trở thành hậu phương cho quân đội VNCH tiến ra đẩy lui quân CS. Năm 1975, khi Đà Nẵng bị lọt vào tay CS thì các tỉnh miềm Trung không còn đứng vững.
Tuy giới lãnh đạo VNCH chúng ta phải chịu trách nhiệm về sự thất bại, nhưng số phận đất nước chúng ta đã bị các cường quốc chi phối theo đường lối chính trị giai đoạn của họ trong chiến tranh lạnh toàn cầu. Tệ hại nhất là CSVN cam tâm làm tay sai cho ngoại bang, chỉ vì tham vọng độc tài toàn trị, nên mới gây ra chiến tranh trong 30 năm dài. Ngày nay CSVN còn âm mưu bán nước cho TC để duy trì địa vị.
Kể từ ngày 29-3-1975, những người có điều kiện và phương tiện rời Đà Nẵng, thoát khỏi chế độ CS. Người Đà Nẵng nói riêng và người Việt Nam nói chung, dầu đi ra nước ngoài, vẫn luôn luôn mang theo trái tim Việt Nam và quyết tâm tiếp tục tranh đấu nhằm quang phục quê hương. Lần nầy, không còn súng đạn, không còn cách nào khác hơn, thì người Việt chúng ta tranh đấu bằng chính trị bất bạo động.
Cuộc tranh đấu bất bạo động bảo vệ dân quyền và nhân quyền do Phan Châu Trinh khởi xướng từ đầu thế kỷ 20, nay ứng dụng trở lại trong trào lưu dân chủ hóa toàn cầu, không phải là không có kết quả. Có hai sự kiện chúng ta cần chú ý về kết quả tranh đấu bất bạo động:
Thứ nhứt, một trong những tác nhân mạnh mẽ khiến chính phủ Hoa Kỳ thay đổi chính sách, rút quân khỏi Việt Nam là phong trào phản chiến bất bạo động và truyền thông Hoa Kỳ. Quân đội Hoa Kỳ không thất bại trên chiến trường, nhưng đã thua từ trên đất Mỹ.
Thứ hai, xin mọi người thử nhớ lại xem. Khi ra đi năm 1975, mấy ai nghĩ rằng dưới chế độ CS độc tài sắt máu, Việt Nam lại thay đổi như ngày nay? Sự thay đổi nầy không phải tự nhiên mà có. Nếu người Việt hải ngoại không bám sát tình hình Việt Nam, nếu người Việt hải ngoại không vận động liên tục khắp năm châu, đánh động dư luận thế giới, áp lực về mọi mặt (chính trị, kinh tế, viện trợ…) và yểm trợ anh chị em trong nước đòi hỏi dân chủ, thì CSVN vốn bảo thủ, ngoan cố, tham quyền cố vị, đời nào CSVN chịu mở cửa dần dần từ năm 1985?
Ngày nay, nếu chúng ta tận dụng sức mạnh của các phương tiện truyền thông tân tiến, kiên nhẫn vận động bất bạo động, như Phan Châu Trinh trước đây, đòi hỏi dân quyền, nhân quyền, vận động dân khí tức tinh thần dân chúng, ủng hộ các phong trào dân chủ quốc nội, vạch trần tội phản quốc của CSVN, chắc chắn sẽ đưa đến những thay đổi mới hoặc nhân dân Việt Nam trong nước sẽ vùng lên giải thể chế độ CS.
Trong khi đó, ở trong nước, càng ngày CSVN càng phơi bày bản chất gian manh, tham nhũng, bán nước nên dân chúng không còn sợ hãi như trước đây. Dân khí tức tinh thần dân chúng đang trổi dậy, nhất là với sự hỗ trợ của người Việt hải ngoại và dư luận thế giới. Những vụ dân oan khiếu kiện, những bloggers đòi hỏi dân chủ, những cuộc biểu tình chống TC, tuy hiện nay chỉ là những đóm lửa nhỏ đơn lẻ, nhưng sẽ đến lúc có thể làm bùng lên thành cuộc cách mạng dân chủ, nếu tâm lý quần chúng được chuẩn bị đầy đủ hơn và sẵn sàng cùng nhau đứng lên đáp lời sông núi.
Xin mọi người, hãy ủng hộ cả tinh thần lẫn vật chất những cuộc tranh đấu bất bạo động hiện nay ở trong nước để giải thể chế độ CS, thoát khỏi cảnh lệ thuộc TC. Cuộc vận động chính trị bất bạo động là một tiến trình lâu dài. Xin hãy kiên nhẫn liên tục vận động, vì lịch sử cho thấy rằng chính nghĩa dân tộc, tự do, dân chủ chắc chắn sẽ tất thắng.
TRẦN GIA PHỤNG
(San Jose, 29-3-2015)
(1) M. Taylor Fravel, Strong Borders, Secure Nation: Cooperation and Conflict in China’s Territorial Disputes, Princeton NJ: Princeton University Press, 2008, tt. 62, 268-269; và Clarence J. Bouchat [trung tá Không quân Hoa Kỳ], The Paracel Islands and U.S. Interests and Approaches in the South China Sea, US Army War College: SSI Strategic Studies Institute, 2014, tt. 33-34.
Gửi ý kiến của bạn