BÀI ĐỌC NHIỀU NHẤT
(Xem: 72638)
(Xem: 62055)
(Xem: 39154)
(Xem: 31021)
SỐ LƯỢT XEM TRANG
0

8/3, vinh danh những điều thê thiết!

10 Tháng Ba 201412:00 SA(Xem: 1462)
8/3, vinh danh những điều thê thiết!
55Vote
40Vote
30Vote
20Vote
10Vote
55
 

Ảnh minh họa: Lê Văn Hưng


 

1.
Từ đó, nỗi ám ảnh đeo hoài. Hàng năm vẫn hiện ra, đậm nét hơn, đặc quánh nỗi buồn!

Hình ảnh người đàn bà của tất cả đàn bà, “Mẹ Việt Nam Anh Hùng,” trong bài văn xuôi của Phùng Thành Chủng, lững thững quay về từ cõi u uất, kêu oan!
Bà tôi được truy tặng danh hiệu “Bà mẹ Việt Nam anh hùng”

Cháu tôi hỏi:
- Bà gọi là bà?

- ừ, bà gọi là bà, bà nội.

- Thế bố cháu?

- Bố cháu là chắt gọi là cụ, cụ ngoại.

- Còn cháu?

- Cháu là chút gọi là kỵ…

Ngừng một lát như để ghi nhớ những điều vừa hỏi, nó tiếp:
- Bà ơi, thế kỵ làm gì mà được phong anh hùng?

- Vì kỵ có một người con trai độc nhất là liệt sĩ!

- A, vậy là cháu biết rồi – nó reo lên – vậy cháu là chắt gọi liệt sĩ là cụ ngoại. Bố cháu là cháu gọi liệt sĩ là ông ngoại; còn bà… bà là… con của liệt sĩ.

- ừ bà là con…

- Thế mà chẳng bao giờ cháu thấy bà nói chuyện về cụ, về kỵ…

- Lâu quá rồi! Bà cũng quên mất…

Không nhận ra có điều gì đó không bình thường trong câu trả lời của tôi, cháu tôi hồn nhiên:
- Thế cụ hy sinh năm nào hả bà?

- Năm 1950!

- Năm ấy cụ bao nhiêu tuổi?

- Hai ba tuổi!

- Còn kỵ? Kỵ mất năm nào?

- Sau đó bốn năm!

- Năm đó kỵ bao nhiêu tuổi?

- Bằng tuổi bà bây giờ…

- Bằng tuổi bà là bao nhiêu?

- Năm mốt (51)!

- Năm mốt – nó nhẩm tính- vậy nếu còn sống thì năm nay kỵ cũng chỉ mới ngoài chín mươi…

- Còn sống thì năm nay kỵ chín lăm (95); cũng gần trăm tuổi rồi…

- Giá như kỵ còn sống để biết mình được phong là anh hùng bà nhỉ?

- ừ, giá như kỵ còn sống…! – Tôi lặp lại những lời của đứa cháu mà thấy tim mình như bị ai bóp chặt và nước mắt cứ chực trào ra…

*

Bà tôi bị quy là địa chủ và bị xử bắn trong cải cách ruộng đất! Không hiểu nghe ai xui khôn xui dại, mẹ tôi đã tố bà tôi: “Thủ đoạn bóc lột người làm của mụ rất tinh vi, xảo quyệt! Mụ luôn lấy tấm gương “thờ chồng nuôi con” của mình ra để ngăn cản không cho tôi tái giá, nhằm mục đích biến tôi thành một người làm việc kiêm đứa ở không công trong nhà!”.

… Hơn bốn mươi năm đã trôi qua, bây giờ ngồi hồi tưởng lại, những kỷ niệm đau buồn – vết thương lòng của một thời – nhờ thời gian đã kịp kéo lên một lớp da non, lại tấy lên nhức nhối như mới hôm nào! Nói thế chẳng để oán hận ai, bởi tôi cũng không còn muốn nhớ và nhắc lại những chuyện ấy nữa, mà nhớ và nhắc lại chỉ là sự bất đắc dĩ phải nhớ và nhắc lại, vậy thôi!

Bố tôi hy sinh trong chiến dịch Biên giới khi tôi mới ba tuổi! Thời gian còn chưa đủ để cho bà tôi có thể nguôi ngoai thì năm sau tiếp đến cái chết của ông tôi! Làm nghề thuốc, chuyên bốc thuốc trị bệnh cứu người, nhưng rốt cục ông tôi đã không thể cứu được mình thoát khỏi lưỡi hái của tử thần, bởi sự buồn phiền trước cái chết của bố tôi đã khiến căn bệnh nan y của ông tôi tái phát!

Sau hai cái tang gần như cùng một lúc, bà tôi nằm liệt giường mất mới tháng! Vừa vục dậy được, có người đến rỉ tai là có mấy nhà ở làng đang muốn bán ruộng với một cái giá rất phải chăng, bà tôi liền quyết định bán căn nhà ở phố phủ vốn là cửa hàng thuốc của ông tôi cộng với gánh hàng xén của mình và số vốn liếng dành dụm được trước đó để tậu ruộng! Bà tôi không ngờ rằng những người bán ruộng cho mình đều là những nhà có con em ở vào những cương vị cao trong hàng ngũ cách mạng, nên biết trước được tình thế, họ đã bán tống bán tháo số ruộng đang canh tác để chạy… làng…

Như vậy, tính đến khi bị quy là địa chủ và bị xử bắn, bà tôi mới chỉ là địa chủ được trên dưới ba năm! Lý do mà họ đưa ra là nhà chỉ có một lao động (người ta không tính mẹ tôi, bởi mẹ tôi cũng coi mình là người bị bà tôi bóc lột) mà có hơn chục mẫu ruộng – là người nhiều ruộng nhất làng và do đó cũng là người có nhiều người làm thuê nhất làng!

Trước đó, cũng không nghĩ là mình có thể bị bắn, nhưng lo tôi sẽ theo mẹ tôi “cắt đứt” với bà, nên một lần bà đã gọi tôi lại ướm thử: “Mẹ cháu bảo mấy hôm nữa sẽ về đón cháu đi đấy!”. Tôi đã bảo bà: “Không! Cháu sẽ không đi đâu cả, cháu ở với bà…”. Bà đã âu yếm kéo tôi vào lòng, xoa đầu khen tôi ngoan, hứa sẽ mua cho tôi một bộ quần áo mới để mặc tết, rồi cả hai bà cháu ngồi ôm nhau khóc! Tôi không ngờ (và bà tôi hẳn lại càng không ngờ) đó cũng là lần cuối cùng hai bà cháu còn được ngồi với nhau!

Sau đó, bà tôi đã gửi tôi về bên ngoại, cách nhà tôi chừng hai cây số nhờ các ông cậu, bà mợ trông nom. Về sau tôi mới biết là trong thời gian đó bà tôi đã phải chịu đựng biết bao nhiêu là nhục nhã, ê chề! Không kể ruộng đất, toàn bộ của nả, từ thóc lúa, con trâu, cái cày cho đến cái chổi cùn, cái rế rách trong nhà tôi đều bị tịch thu. Năm gian nhà ngói và ba gian nhà ngang trên mảnh đất mười hai thước được chia cho ba hộ thuộc thành phần bần cố nông. Bà tôi bị giam lỏng một nơi, có dân quân canh gác; đi đái, đi ỉa phải xin phép và phải chào hỏi, vâng dạ, phải xưng con và phải kêu là ông, là bà với tất cả những người mình gặp kể từ đứa trẻ con còn ẵm ngửa trở đi…

Ngày bà tôi bị bắn, như có linh tính mách bảo, tôi từ bên ngoại trốn về. Đến nhà, không thấy bà đâu lại thấy nhà cửa tan hoang như vừa bị mất cướp, tôi bất giác oà khóc bởi nỗi sợ hãi là tai hoạ đã giáng xuống đầu bà tôi; rằng đúng vào lúc bà tôi cần đến tôi thì tôi lại không có mặt và tôi đã vĩnh viễn mất bà! Đúng lúc đó thì một “ông” dân quân vai đeo súng dẫn hai người đàn ông đã đứng tuổi (sau này tôi mới biết một người cũng bị quy là địa chủ, còn một người làm nghề thầy cúng) đi vào. Theo lệnh của “ông” ta, hai cánh cửa sổ buồng nhà tôi được tháo xuống và mỗi người một cánh mang đi. Tôi vội chạy theo:
- Sao các ông lại tháo cửa nhà tôi?

“Ông” dân quân quay lại:
- Nhà nào của nhà mày! Đây là nhà của nông dân! – Rồi ông ta nhìn tôi cười nhăn nhở – mà… tháo hai cánh cửa này… là… tháo cho… bà mày đấy!

- Bà tôi đâu?

- Ơ…! Thì ra mày vẫn chưa biết gì thật à! Có muốn chia tay bà mày thì ra đồng Trước…

Đồng Trước! Bà tôi ra đồng Trước làm gì? Và người ta đang làm gì bà tôi ở đồng Trước? Tôi vội hớt hải chạy theo…

Cánh đồng Trước vừa gặt xong còn trơ gốc rạ, bây giờ là cả một biển người với cờ, loa, khẩu hiệu; với cả rừng những cánh tay giơ lên, hạ xuống và những tiếng hô: “Đả đảo! Đả đảo! Đả đảo” trong niềm phấn khích của đám đông nghĩ là mình đã đổi đời!

Tôi đến nơi đúng lúc người ta vừa thi hành án xong với bà tôi và Toà án nhân dân cách mạng đã tuyên bố kết thúc phiên toà. Đến đây, tôi mới hiểu hai cánh cửa sổ được mang ra đây để làm gì! Một cánh thay cho tấm “địa”, một cánh làm tấm “thiên” rồi với hai vòng thừng hai đầu và một chiếc đòn tròn (một loại đòn được dùng để gánh rạ), ông địa chủ và ông thầy cúng mỗi người một đầu – theo lệnh của “ông” dân quân – hai người khiêng xác bà tôi ra bãi tha ma! Nghĩa tử là nghĩa tận, ngoài việc dành cho bà tôi hai cánh cửa để làm “cỗ áo”, người ta còn chứng tỏ lòng nhân đạo bằng việc đốt cho bà tôi cả một bó nhang!

Với ai đó thì “chết là hết” nhưng số bà tôi còn khổ cả sau khi chết! Vốn người thấp, bé nhưng vì hai cánh cửa sổ quá ngắn, nên suốt dọc đường đi mái tóc và hai chân của bà tôi, đoạn từ đầu gối trở xuống cứ lê thê quết đất! Khi chỉ còn cách bãi tha ma một đoạn, bó nhang phía đầu “áo quan” bỗng nhiên bùng cháy và bén vào tóc bà tôi. “Ông” dân quân liền lệnh cho hai người hạ bà tôi xuống, và thật bất ngờ khi “ông” ta chỉ vào ông thầy cúng rồi chỉ vào đám tóc đang cháy của bà tôi ra lệnh:
- Thằng này! Đái…

Ông thầy cúng lắp bắp mãi mới thốt được nên lời:
- Dạ… thưa ông… con… con không mót!

“Ông” ta liền quay sang ông địa chủ:
- Thằng này…

Cùng lúc, nhận ra đũng quần của ông địa chủ đã ướt sũng, “ông” ta liền xăm xăm tiến đến trước mặt bà tôi và vén quần lên…

Tôi vội nhào đến và chỉ kêu được hai tiếng “Bà ơi” rồi không biết gì nữa…

*

Do có một người tham gia cách mạng và lại là liệt sĩ, nên trong sửa sai, gia đình tôi được xếp thuộc diện “địa chủ kháng chiến”. Năm gian nhà ngói và ba gian nhà ngang trên mảnh đất mười hai thước được trả lại. Trả giá cho lỗi lầm của mình, mẹ tôi đã tìm đến cái chết, nhưng không dám chết ở làng mà ra Hà Nội, tìm đến tận hồ Hale tự tử…

Bà tôi được truy tặng danh hiệu: “Bà mẹ Việt Nam anh hùng”.

Anh hùng? Không! Bà tôi không phải là anh hùng, cũng như trước đây bà tôi không phải là “cường hào ác bá”! Có gì mà “cường hào ác bá”! Bà tôi chỉ là một người phụ nữ Việt Nam như bao người phụ nữ Việt Nam bình thường khác! Vậy xin hãy để cho linh hồn bà tôi được yên nghỉ, bởi tôi muốn mãi mãi bà tôi vẫn chỉ là… bà tôi thôi!

Người sống còn có thể nói được. Nhưng người chết thì không. Và còn những người đang sống dở chết dở bị bỏ quên bên lề vỉa hè bán bưng mọi thứ có thể, họ thay cho tất cả để nói điều gì giữa một đất nước rộn ràng khẩu hiệu vinh danh?

Người ta có thể không được học chữ. Nhưng đừng quên nỗi đau cũng đủ sức làm người ta thức tỉnh. Khi chúng ta vinh danh ngày 8/3 hay 20/10 bằng những lời yêu đương nồng nàn hoặc hoa trái ngọt ngào. Chúng ta đang vinh danh sự nghèo khó tâm hồn.

Hai năm trước, mình đọc một đoản văn ngắn của anh Bổn, một ngọn gai đau khác trong đời sống Việt Nam. Thơ Trương Phước Lai vì vậy từng dòng nghe thật cay!

Cay, nhưng là những điều phải nói. Người ta đến Việt Nam mua vợ như một cách làm nhục đàn bà thời hiện đại. Nhưng không phải, ai đó đã tự làm nhục chính mình!

Mùng 8 tháng Ba vinh danh niềm đau thê thiết, nghe có nghiệt lắm không!? Chịu đựng có thể còn kéo dài, nhưng vinh danh trong ý nghĩa mà Phùng Thành Chủng nói, chẳng thà, không!

Có một sự nghịch lý trong ý niệm vinh danh Phụ nữ 8/3 hay 20/10. Phụ nữ với phụ nữ thôi, đã có những điều rất khác.

Chẳng ai sang cả hơn người khác dựa vào cái chức bộ trưởng Y tế, hay đẹp đẽ hơn bất kỳ người phụ nữ nào vì xuất hiện trên đài truyền hình VTV… Người phụ nữ Việt Nam đẹp và đáng quý trọng vì sự chịu đựng.

Và trong những điều chịu đựng đó, xấu hỗ lây là cái chịu đựng tột độ trong xã hội Việt Nam ngày nay!
Cô gái Việt Nam ơi!
từ thuở sơ sinh lận đận rồi
tôi biết tình cô u uất lắm
- Hồ Dzếnh, Cảm Xúc

Ca ngợi như thế là đủ rồi, nhưng thi sĩ Hồ Dzếnh ngày xưa đi xa hơn, ông muốn chạm khuôn vàng thước ngọc cho người phụ nữ Việt Nam: Hy sinh!

Tại sao, và để làm gì?

Từ căn để, Hồ Dzếnh phản ảnh mặt trái của sự không công bình trong xã hội đối với phụ nữ.

Dầu sao người ta vẫn nói ví von phụ nữ yêu bằng lỗ tai, nên không phải tự nhiên dỗ yên được nỗi đau, các hội phụ nữ ngó lơ những mảnh đời truân chuyên từ ruộng đồng lũ lượt tràn về thành phố, lây lất ngoài công viên, ở bệnh viện, hay trước cửa nhà tù… Họ đòi lại đất, đòi ruộng, và đòi người.

2.
Tôi nhớ năm đó, đàn ông hay đàn bà đều bị trói giật khuỷu tay ra sau, xâu lại thành hàng dài, hai bàn chân không lê bước trên bãi cát bỏng rát để về tới đồn công an xã. Hai anh em tôi được chỉ định ngồi ở góc tường. Người mặc bộ đồ vàng gằng giọng nói với Mẹ: “cô có biết vượt biên là tội phản bội tổ quốc không?” Mẹ tôi đập bàn, trừng mắt và nói thẳng thừng điều Mẹ uất, thay cho Ngoại đã uất đến nỗi bán thân bất toại.

Không phải người phụ nữ nào cũng muốn làm anh hùng, và cần được vinh danh, nhưng Mẹ cũng có thể hy sinh, những lúc nghiệt ngã nhất.

Ngày 8, tháng Ba, 2014
UYÊN NGUYÊN

Theo Blog Uyên Nguyên

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn