Sự a dua hay là ẩn ức xã hội?
Bỗng dưng dư luận nổi đình đám về sự tranh cãi gay gắt xung quanh việc tìm mộ của những nhà “ngoại cảm”. Song song với sự kiện lớn đang diễn ra là cuộc bàn cãi gay cấn về sửa đổi Hiến pháp, rồi vội vã một cách đáng ngờ khép lại vào cuối tháng này, bởi sức ép của một quyền lực bất khả tri nào đó. Trước đó, đám tang Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã gây nên một dư chấn bất thường rộng lớn, rồi sau đó xảy ra sự cố “cờ rủ” vội vàng bị thay bởi “cờ bay” để đón tiếp tướng Tàu. Các diễn biến dồn dập nói trên đã nhấn chìm Hội Nghị Trung ương 8, hay nó tự chìm, trong bế mạc ảm đạm chưa từng có tiền lệ. Trên nền bản nhạc nghe như loạn nhịp này, lại điểm xuyết những dấu lặng gây ngưng thở, như sự cố thẩm mỹ viện Cát Tường (các cấp đổ vấy lẫn nhau về trách nhiệm), dân chúng Quảng Ngãi tập họp đông đảo làm tắc quốc lộ phản đối khai thác cát gây sạt lở (Bí thư tỉnh đích thân đầu trần áo bỏ ngoài đứng xin lỗi nhân dân), bệnh viện làm chết trẻ em khiến người dân khiêng quan tài xuống đường, 6 xác trôi sông xuất hiện không nguồn gốc, bản án chưa từng có trên thế giới về tội viết facebook của Đinh Nhật Uy, các cuộc “tụ tập đông người” vẫn tiếp tục “ngoan cố” diễn ra từ Dương Nội, Văn Giang kéo tới Thủ đô, kinh tế thì lảo đảo như tay côn đồ đã quá chén, các chức sắc cao cấp thì bày tỏ “đau đớn” vì tham nhũng như nhắn nhủ với trời mây… Nhiều nữa, có thể nói là mọi mặt…
Toàn cảnh là một bức tranh loạn màu đầy trắc ẩn.
Và nó sẽ được treo lên trân trọng, khi “hoàn thiện” bộ khung bao “Hiến pháp mới”– một văn bản hạng hai “xinh đẹp” đứng sau Cương lĩnh Đảng!
Đám đông bất bình có mặt khắp nơi, mọi lãnh vực. Do thế lực thù địch nào xúi giục, hay do nội sinh? Là sự a dua, hay sự bung vỡ những ẩn ức có nguyên nhân?
Mỗi sự việc sẽ trôi qua và lắng xuống như trầm tích, như quy luật: mọi năng lượng không bao giờ mất đi, rồi sẽ chuyển hóa và bùng phát theo cách của nó.
Tâm linh và thể chế hóa
“Ngoại cảm”, hay muốn gọi là gì cũng được, thuộc về cái mà người ta gọi là “tâm linh”, là lãnh vực đang nằm ngoài tầm với của khoa học. Khoa học chỉ khẳng định những gì chứng minh được. Khoa học không hề phủ định những gì nó không chứng minh được. Việc khoa học là của khoa học, tâm linh là đời sống tín ngưỡng, là tinh thần hướng về cái thiện, siêu hình, vô tận, tỉ như hướng về Đấng Tạo Hóa, về Chúa Trời hay về Tiềm Năng chưa khám phá của con người trong mối quan hệ với năng lượng Cội nguồn của Vũ trụ… Nó có thể là tôn giáo, cũng không nhất thiết là tôn giáo. Nó đang hiện diện như là niềm tin của mỗi con người hay mỗi cộng đồng cư dân ở mỗi nơi trên trái đất. Nó đồng hành với cuộc sống và hòa nhập vào cuộc sống. Ít nhất nó làm cho cuộc sống thăng hoa, đẹp hơn, từ một cuộc sống đang quằn quại trong cái thảm cảnh “duy vật thô thiển và trần trụi” này.
Chỉ có những kẻ tự tin tới mức khùng điên mới phủ định tín ngưỡng nơi người khác. Nó đòi hỏi phải được tôn trọng. Vì thế mà có Tuyên Ngôn Nhân Quyền.
Mặt trái của “tâm linh” có thể ẩn chứa trong tình trạng mê tín, mê muội, phản khoa học, có thể bị lợi dụng để làm ăn phi pháp, có hại cho cá nhân, cộng đồng. Nó cần được nhà nước quan tâm theo dõi với sự hiểu biết và thận trọng để làm sáng tỏ, ngăn chận những tác hại do sự lạm dụng gây ra. Những hoạt động tâm linh đem lại ảnh hưởng tốt cho cộng đồng, như đạo đức, sự lương thiện, vô hại, hoặc nó nâng đỡ cho tinh thần con người lúc yếu đuối tuyệt vọng.. cần được tôn trọng. Như thế, nhà nước phải đủ khách quan, sáng suốt và nhất là phải có những con người đủ lương thiện, không đam mê duy vật nhận lãnh công việc này.
Nếu hoạt động tâm linh được thể chế hóa bằng sự có mặt trực tiếp của nhà nước để nắm quyền điều khiển, như tổ chức Ngân hàng Chính sách Xã hội lập đội ngũ áo xanh áo đỏ…, thì lập tức các hoạt động trên bị biến dạng. Đơn giản như công việc từ thiện để quyên góp giúp đỡ thiên tai hoạn nạn, nhà nước đứng ra “ôm hết về mình”, tiêu cực liền xuất hiện, tham nhũng phát triển, và kết quả là người đóng góp của cải thiếu tin tưởng, giảm nhiệt tình, quan chức lại có lợi thêm, ngoài phần vật chất, là danh giá “của người ân ta”, lòng tự trọng biến mất, rước lấy sự khinh bỉ trong nhân dân. Đó là tai họa của sự “thể chế hóa” những lãnh vực không thuộc quyền lực của nhà nước. Chúng ta thấy các quan chức cao cấp đều có mặt, nói cười, giao du với các nhà ngoại cảm, tham gia các lễ lạc, cúng kiến đình đám, cầu an, cầu hồn, bằng khen giấy khen, gián tiếp tạo ảnh hưởng và khuynh loát các hoạt động này. Trong khi ở lãnh vực pháp quyền, thì họ lẩn tránh sự đối thoại công khai, bình đẳng, dân chủ về những chính sách quốc gia đang gây tranh cãi và bất đồng trong nhân dân. Họ bất chợt “tiếp xúc cử tri”, hỏi đáp qua rào, nhằm có hình ảnh để lên báo và nói điều mình muốn nói, theo cách một chiều và không lắng nghe, là một hình thái tuyên truyền kiểu loa phường thời chiến (để thông báo máy bay địch…), chứ không phải là lý giải và phản biện, trao đổi nghiêm túc theo cách của một xã hội văn minh.
Ở các quốc gia có “nhà nước pháp quyền”, các lãnh đạo của họ hành động ngược lại. Họ không tìm cách đánh bóng, PR mình, để tỏ ra “gần gũi” quần chúng, bằng cách mượn đường qua các tuyến “ngoại cảm, tiên tri” nào cả, trừ các lễ nghi chính thức của quốc gia. Họ đứng vững trên pháp quyền mà hành xử, có muốn quảng cáo bản thân thì cũng thông qua đối thoại với cộng đồng cư dân một cách nghiêm túc và có trách nhiệm. Nhờ thế, chính sách được bàn cãi thông suốt, trình độ dân trí - quan trí được nâng cao. Họ không ôm vào mình tất cả, không “xía” vào mọi chuyện, nhất là tín ngưỡng trong dân gian. Họ phân biệt rõ, cái nào là trách nhiệm và thẩm quyền nhà nước, cái nào thuộc về người dân, cái nào cần được bàn bạc thỏa thuận giũa dân và nhà nước, không đảo lộn Hiến pháp thành “bản văn triển khai” một cách ngang nhiên cương lĩnh của Đảng….
Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh vừa lên tiếng: Quân đội “không can dự” vào việc tìm mộ theo ngoại cảm - tâm linh, quan điểm này xem như tạm ổn. Quân đội đã làm hết sức mình về trách nhiệm với liệt sĩ, phần bất lực còn lại thì phải thừa nhận là bất lực (đừng hứa tìm cho đến hết, không ai tin) để thân nhân có thể tìm kiếm theo cách của mình, theo tín ngưỡng của mình với sự giúp đỡ của quân đội. Sự giúp đỡ đó diễn ra trong đời sống cụ thể, không liên quan đến quyết định về tín ngưỡng của họ. Đó là cách thu xếp ổn thỏa nhất trong tình hình hiện nay.
Kênh truyền hình VTV là truyền thông nhà nước, đã nêu lên vấn đề tìm mộ của những nhà ngoại cảm theo cách phê phán thiếu thận trọng, thiếu khiêm tốn. Là tiếng nói của nhà nước – không phải của tư nhân – càng không nên có lời lẽ hồ đồ, khi dùng những từ ngữ rất “trâu bò”, như “vạch mặt”, “chỉ tên”, v.v. “Vạch mặt” rồi sẽ tới “rạch mặt”, “xẻo tai”, “chặt đầu”, “quăng sông”… gợi nên các hình ảnh của bọn xã hội đen - đỏ hôm nay, làm sống dậy những ký ức một thời rất đáng quên là đấu tố, giảm tô, cải cách ruộng đất, Nhân văn Giai phẩm… Cái ngôn ngữ này nên biến mất, ít nhất phải bắt đầu trên hệ thống truyền thông mang danh nhà nước (dù có cho tư nhân thuê giờ làm ăn).
Việc thảo luận, bàn cãi những vấn đề về khoa học, tư tưởng, triết học, tôn giáo, tín ngưỡng, tâm linh hay ngoại cảm, nội cảm là chuyện của người dân, của xã hội, của những nhà nghiên cứu. Nhà nước chỉ đóng vai trò trọng tài – một trọng tài đứng đắn – nếu không, “sân bóng” trở thành nơi của “đồng bóng” hoành hành, nói rộng hơn biến đất nước thành một quốc gia đồng bóng.
Thể chế toàn trị có tham vọng cai trị toàn diện, ôm hết mọi thứ vào mình, triệt tiêu mọi khác biệt, chính nó sản sinh ra “thế lực thù địch” đang lớn nhanh qua tích lũy từng ngày từng việc, mà chẳng ai mong muốn, càng không phải ai xúi giục.
Đến lúc phải nhận ra sự cần thiết phải có xã hội dân sự để thực hiện thay cho nhà nước các nhu cầu xuất phát từ phía dân chúng. Nhà nước phải đủ sáng suốt làm người quan sát, giám sát để ngăn ngừa, xử lý những tiêu cực xảy ra. Đó là xu thế mà nhân dân đang đòi hỏi ở Hiến pháp, nhằm thực hiện một nhà nước pháp quyền để có một xã hội dân sự, và ngược lại.
Nhờ đó, nhà nước sẽ được là một nhà nước pháp quyền, thay cho một nhà nước nhân danh chủ nghĩa duy vật mà không tránh khỏi các hoạt cảnh đồng bóng.
Chủ nghĩa xã hội và thể chế hóa
Đây là chuyện rất dài nên cần nói thật ngắn.
Cựu Phó Thủ tướng Trần Phương hỏi: “Chủ nghĩa xã hội là cái gì? Là cái gì? Ai trả lời? Không ai trả lời được!”. Không trả lời được là cái gì, thì làm sao đòi hỏi nó hoàn thiện, dù 101 năm nữa, nên Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nói: “Cuối thế kỷ này không biết nó có hoàn thiện không!”. Câu chẩn đoán thật buồn cười, sự bi hài đứng về phía ông.
Trước đây một luận điểm được nêu lên như một slogan thời thượng: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, phải có con người xã hội chủ nghĩa”. Hãy bình tĩnh mà tự hỏi: Thế con người xã hội chủ nghĩa nó ra sao, và từ đâu ra?! Người ta nhớ ngay đến chuyện “ngụ ngôn” con gà và cái trứng.
Thể chế hóa, quy hoạch hóa về cái điều mà chưa ai biết rõ – bao gồm một nhóm người làm quy hoạch, lẫn chín mươi triệu người bị quy hoạch – không phải đã bắt nguồn từ một niềm tin rất “ngoại cảm - tâm linh” đó sao? Chắc là có nhiều người đang suy nghĩ, và có nhiều người đông hơn không còn muốn suy nghĩ về nó nữa.
Về ngoại cảm - tìm mộ thì nói theo ý Bộ trưởng Phùng Quang Thanh: không can dự vào! “Cậu Thủy”, hay “Cậu Hỏa” nào đó, có ăn tiền bất chính thì kiên định lập trường mà đòi lại cho đủ, dùng pháp mà trị những kẻ có liên quan.
Còn cái ngoại cảm vĩ mô kia mới thật đáng lo hơn. Điều 4 Hiến pháp lẽ nào là một cái cột mốc được quy hoạch từ “ngoại cảm”, mang tính định mệnh của dân tộc, sẽ do một số ông bà nghị cà vạt, áo dài bấm nút quyết định sao? Bản văn dự thảo sửa đổi Hiến pháp được khẳng định là sẽ cương quyết “thông qua”, chỉ bởi vì người có ảo quyền nhất, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã tuyên bố: “Tôi tán thành”, thì nhất định sẽ có sự tán thành!
Đơn giản thật vậy sao, hỡi áo dài, cà vạt?
Thời điểm này là thế kỷ 21 năm thứ 13 tháng áp chót.
5-11-2013
H. Đ. N.