BÀI ĐỌC NHIỀU NHẤT
(Xem: 73244)
(Xem: 62215)
(Xem: 39401)
(Xem: 31151)
SỐ LƯỢT XEM TRANG
0

Sếp Việt cộng chỉ uống rượu Cognac thôi (*) - Phần 1

04 Tháng Mười Một 201312:00 SA(Xem: 1486)
Sếp Việt cộng chỉ uống rượu Cognac thôi (*) - Phần 1
58Vote
40Vote
30Vote
20Vote
10Vote
58

Gs.Ts. Y khoa Heimfried–Christoph Nonnemann


Phan Ba dịch


Các sự kiện văn hóa ở Sài Gòn thật là ít. Khu nào của thành phố cũng đều có rạp chiếu bóng. Nhưng nói chung thì người ta chỉ đi xem ở hai rạp, 'Rex' và 'Eden' trong trung tâm.

Trong năm nay, tôi chưa từng thấy người ta loan báo trước một phim hay nào cả. Ở Chợ Lớn có một nhà hát Trung Quốc, biểu diễn hàng đêm những vở bình dân. Ngoài ra, sự kiện có tầm cỡ văn hóa Phương Tây chỉ được Centre Culturelle Français mang đến Sài Gòn, và của Viện Goethe, hoạt động tích cực với thành công đáng chú ý. Viện tổ chức những buổi thuyết trình và đêm chiếu phim, được con số đông các sinh viên học tiếng Đức thích đến dự; người Pháp tổ chức triển lãm tranh, thỉnh thoảng còn có cả đêm hòa nhạc. Có lẽ nhiều người Việt Nam học tiếng Đức không phải vì họ cho rằng văn hóa Đức là đáng để vươn đến, mà nhiều hơn là vì họ hy vọng có được những lợi thế về vật chất và tinh thần, ví dụ như học bổng ở Đức. Vì, như người lãnh đạo Viện Goethe có lần đã nói rõ, lực hấp dẫn của văn hóa Pháp vẫn còn mạnh tới mức những người nhận được học bổng xin phép bay vòng qua Paris để sang Đức.

 

Rạp REX, khánh thành năm 1962 và là rạp chiếu phim hiện đại nhất Đông Nam Á vào thời điểm đó.


 Ngoại trừ các sự kiện không thường xuyên đó và ngoài cái hồ bơi của Cercle Sportif vẫn đông người mặc cho tính sang trọng đắt tiền của nó thì hầu như không có gì để giải khuây trong Sài Gòn. Đi ra ngoài thành phố vào lúc cuối tuần cũng có nhiều vấn đề không kém. Thời gian xưa cũ tốt đẹp mà trong đó người ta có thể tự do thưởng thức nét đẹp của đất nước này đã qua từ lâu lắm rồi. Những người Pháp, những người đã sống cả cuộc đời họ ở Việt Nam, bất chợt có những đôi mắt mơ mộng khi họ thuật lại những chuyến đi xuyên qua Đông Dương: họ đã ở trên đồn điền vào cuối tuần, nghỉ mát trong thời gian nóng bức nhất 'ở trên' Đà Lạt như thế nào, tổ chức săn cọp trên cao nguyên và săn vịt trên những cánh đồng ruộng của đồng bằng như thế nào; họ sang đảo Phú Quốc câu cá hay đi thuyền buồm trước Cap St. Jaques [Vũng Tàu] hay Đà Nẵng, sang Phom Penh trong Campuchia ăn tối và trở về vào lúc đêm khuya ra sao.

Tất cả những thứ đó cách đây đã lâu lắm rồi, không ai còn biết chuyến đi kéo dài bao lâu; họ cãi nhau cần ba hay năm giờ đồng hồ, để đi từ Sài Gòn sang Pnom Penh. Ngày nay, hầu như không còn một đồn điền nào, có hồ bơi và sân đánh quần vợt, vẫn thích hợp là nơi nghỉ dưỡng nữa. Các chủ đồn điền cố gắng giữ cân bằng giữa các bên tham chiến. Viên chỉ huy của một đơn vị Việt Cộng thống trị vùng đất của một đồn điền cao su chỉ uống rượu Cognac thứ thiệt của một nhãn hiệu nào đó, và bất cứ lúc nào mà người chủ đồn điền không thể mang loại rượu đó về thì cuộc sống của ông không còn chắc chắn nữa. Tôi nghe được câu chuyện đáng tin này trực tiếp từ người đó.

Đà Lạt trên cao nguyên, cách Sài Gòn ba trăm kilômét về hướng Đông Bắc, là một nơi nghỉ mát lý tưởng, đặc biệt là trong mùa nóng nực. Khí hậu tương đối mát lạnh; núi có phủ cây thưa và một cái hồ nhỏ khiến cho người ta nhớ đến một phong cảnh đồi núi thấp của châu Âu. Vì đó không phải là một thành phố có trại lính, và sân bay mang tính dân sự nhiều hơn bất cứ một sân bay nào khác của Việt Nam, nên có tin đồn rằng Đà Lạt được cả hai phe tham chiến – trong một gentleman-agreement không được nói ra – xem như là vùng trung lập. Nghỉ ngơi ở Đà Lạt là những người không ngại cực nhọc, chờ một chuyến bay theo lịch trình nhiều giờ liền, cái mà rồi lại không bay. Chỉ còn một ít người có can đảm đi bằng ô tô.

 




Dalat năm 1968. Hình: Bill Robie. Nguồn: huunguyenddk.blogspot.com


Ngày nay, Việt Cộng đòi tiền mãi lộ trên đường từ Sài Gòn đi Đà Lạt, điều đó nói chung ai cũng biết. Thay vì tiền, người ta cũng nhận thuốc lá, dược phẩm và pin. Người quen Pháp trên đường đi còn được yêu cầu hãy mang pin theo trên chuyến về. Sang Phom Penh bằng ô tô, vì những khó khăn về thị thực và giấy nhập cảnh, mà cho người nước ngoài bình thường là chuyện hầu như và cho người Việt Nam là chuyện hoàn toàn không thể được. Vì thế mà để đi chơi cuối tuần thì chỉ còn lại vùng bờ biển ở phía Nam gần đây. Nó cũng được xem là tương đối an toàn cho khách du lịch. Ba mươi kilômét đầu tiên của con đường này, cho tới Biên Hòa, đã được mở mang thành một con đường ô tô rộng lớn trước đây một vài năm; nó trông giống như một đường băng nhiều hơn là một xa lộ.

Phía ngoài ranh giới thành phố Sài Gòn còn có những khu phố dân nghèo kéo dài vài kilômét ở hai bên đường về phía Bắc. Sau một cây cầu lớn qua sông Sài Gòn, người ta chạy qua một ngôi trường dạy nghề mới của Đức, qua 'cité universitaire' với những ngôi biệt thự dành cho các giáo sư đại học mà hầu như không có ai sống ở trong đó vì sợ những hoạt động về đêm của Việt Cộng. Sau nhà máy điện và một ngôi chùa Phật giáo hiện đại, người ta đi ngang qua doanh trại khổng lồ của người Mỹ. Sau dãy đất cấm bằng hàng rào kẽm gai và mìn, nằm trong bụi bặm của mùa khô và trong bùn lầy của mùa mưa là xe tải, xe tăng, trực thăng, xe ủi đất, xe xúc đủ mọi cỡ, nhiều tới mức có lẽ chúng đủ để hào phóng trang bị cho một quân đội quốc gia có quy mô châu Âu chỉ riêng với vật liệu này thôi. 

Người ta càng đến gần Biên hòa thì hình ảnh của một khu vực xung quanh một doanh trại lính càng rõ nét: mỗi một ngôi nhà nghèo nàn của người Việt đều trở thành một doanh nghiệp cung cấp dịch vụ. Quán rượu, tiệm giặt ủi và nơi rửa xe luân phiên thay đổi cho nhau. Lính Mỹ không chỉ để cho rửa xe Jeep và xe tải của họ, trong khi họ nhai kẹo cao su uống bia lon Mỹ trong quán cạnh bên, mà còn cả xe tăng của họ nữa.

Đến Biên Hòa qua con đường cũ thì dễ chịu hơn. Ở đầu bên kia của một cây cầu được canh gác rất cẩn mật, mà những thanh gỗ dầy của nó kêu rầm rầm khi chiếc ô tô chạy ngang qua, là bắt đầu 'vùng không kiểm soát'. Con đường nhiều khúc quanh này dẫn đi xuyên qua giữa những cánh đồng ruộng, đồn điền và những cây dừa nhỏ đến phía bên kia của cái thành phố nhỏ bé này. Ở sau Biên Hòa, con đường rẽ sang hướng Đông Nam về phía Vũng Tàu.

Vũng Tàu, cửa sông phía Đông Nam của Cửu Long và của sông Sài Gòn, trước đây – cả trong số những thành phố thuộc địa trước sau gì thì cũng không hối hả cho lắm – là một nơi tắm biểm êm đềm với một đường đi bộ dọc theo bờ biển en miniature, một Grand Hotel, một ngôi nhà thống đốc tít trên một của hai nhóm đồi và một số biệt thự và nhà nghỉ cuối tuần.

Người ta sống ở đó qua những cuối tuần hay đợt nghỉ. Ngày nay, nó là mục tiêu cuối tuần duy nhất – ngoại trừ Long Hải nằm cách đó bốn mươi cây số về phía Đông – có thể đến được từ Sài Gòn bằng ô tô mà không mạo hiểm nhiều cho lắm. Tuy con đường tỉnh lộ từ Sài Gòn đến Vũng Tàu về mặt chính thức được xem là không an toàn, và Việt Cộng phô diễn sự hiện diện của họ bằng cách hầu như cuối tuần nào cũng cho nổ tung một trong số nhiều cây cầu đó. Quân đội Mỹ, Việt, Philippines và Úc của nhiều doanh trại dọc theo con đường đó không thể ngăn chận họ được. Trên con đường này, rõ nét hơn là ở những nơi khác, có thể thấy rõ người dân sống chung với chiến tranh cho tới đâu. 

Trong những năm vừa qua, ở đây, và trên vài con đường có tương đối nhiều xe cộ qua lại khác, đã có một vài trăm chiếc xe đò đầy nghẹt người chạy trúng mìn và nhiều người đã chết trong lúc đó. Mặc dù vậy, hàng ngày vẫn có hàng ngàn người leo lên những chiếc xe đò đó, cho tới khi họ nhô ra khỏi cửa lên xuống và cửa sổ; lơ xe, thường là một em trai mười hai, mười bốn tuổi, chạy đi chạy lại trên nóc xe ở vận tốc trăm cây số giờ và sắp xếp lại các cái vali, thùng các tông và giỏ đựng gà giữa các trạm dừng. Hầu như lúc nào cũng vậy, khi đi từ Sài Gòn ra Vũng Tàu, người ta có thể nhìn thấy một chiếc xe đò như thế ở ngay sau một cái hố nông do mìn xé ra khỏi nhựa đường, nằm nghiêng sang một bên hay lật úp, với những cái bánh xe nhô lên trên không khí, giống như một con rùa chết nằm lật ngửa.

Mặc dù vậy, ngày nào, đặc biệt là cuối tuần, cũng có một đoàn dài ô tô kéo đi từ Bắc xuống Nam và ngược lại vào buổi chiều. Những chiếc xe to đầy người, phục vụ như taxi và có thể mướn với giá ba ngàn đồng ở đường Nguyễn Huệ; những chiếc xe buýt mini hiệu Vespa chở quá tải, những chiếc mà Tướng Kỳ đã trao hàng ngàn chiếc theo kiểu trả góp cho những người quan tâm đến ngành nghề này trước cái máy quay của chương trình thời sự truyền hình; động cơ của chúng yếu tới mức người ta phải đẩy những chiếc xe yếu ớt này lên trên đoạn dốc nhỏ của các cây cầu tạm, nhưng lái xe lần nào cũng cố thử vượt lên chỉ với động cơ thôi, được nửa đoạn đường dốc lên, dừng lại, tất cả hành khách phải xuống xe và đẩy nó; ở sau họ, những chiếc xe đò chở đầy người và những chiếc ô tô của người Việt khá giả và của người Âu tạo thành một hàng dài.

Ai cũng cố gắng, vì mìn, không phải là người đi đầu tiên vào buổi sáng và không trở về trong bóng tối vào buổi chiều. Xe hỏng vào ban đêm thì thật đúng là không dễ chịu cho lắm. Chỉ người Mỹ là tránh không chạy xe trên con đường đi Vũng Tàu, ngoại trừ đi thành đoàn. "Chúng tôi chỉ được phép chạy xe theo đoàn", một người Mỹ dân sự nói với tôi ở bãi biển Vũng Tàu. "Nhưng tôi sẽ không bao giờ đi cùng với một đoàn xe người Việt nữa. Có một lần, tôi không còn có cách nào khác hơn, và thế là tôi đã đi cùng. Nhưng các anh chàng đó toàn dừng lại ở những nơi phức tạp, có thể bị bắn từ hai bên đường. Họ cứ đơn giản xuống xe và nằm trong bóng mát, hút thuốc lá và tán láo, và không một ai nghĩ đến việc cắt đặt người canh gác cả. Không bao giờ nữa. Tôi thích bay hơn." 

Phan Ba dịch

Theo Người Việt


(*) Trích từ "Chúng tôi không hỏi họ từ đâu đến – Bác sĩ Đức trong Chiến tranh Việt Nam" http://www.amazon.com/dp/B00EPBTGZA


 

Gs.Ts. Y khoa Heimfried–Christoph Nonnemann là bác sĩ trưởng đầu tiên của chiếc tàu bệnh viện Đức "Helgoland" sang VN làm công tác nhân đạo trong những năm 1960. Ông đã thuật lại những trải nghiệm của mình ở Việt Nam trong những năm 1966/1967. 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn