BÀI ĐỌC NHIỀU NHẤT
(Xem: 73182)
(Xem: 62205)
(Xem: 39378)
(Xem: 31132)
SỐ LƯỢT XEM TRANG
0

Chân dung hay chân tướng nhà văn : Nguyễn Khải

18 Tháng Chín 201312:00 SA(Xem: 1602)
Chân dung hay chân tướng nhà văn : Nguyễn Khải
51Vote
40Vote
30Vote
20Vote
10Vote
51
























Tôi có cơ may gặp nhà văn Nguyễn Khải từ thời lý tưởng cộng sản còn mê hoặc lòng người đến mức tôi đang là học sinh tốt nghiệp lớp 10 , học sinh cá biệt, hạnh kiểm 3 vì nói năng nhăng nhít, cấm cửa đại học phải lên rừng núi Tây Bắc lao động dài hạn, ấy vậy mà chỉ hai năm sau, tôi đã trở thành “chiến sĩ thi đua toàn quốc”, được bác Hồ tặng bằng khen, được cử đi dự Đại hội lên hoan chiến sĩ thi đua toàn quốc lần 3 ở Hànội, và ở đây tôi vinh dự được gặp nhà văn Nguyễn Khải.

 

Hồi đó tôi ngồi hàng ghế gần Chủ tịch đoàn, ngồi hàng ghế sát tôi là hai ông trạc 30, trắng trẻo, đẹp trai, đang ghé tai nhau thì thào chuyện gì đó. Sau mới biết đó là nhà thơ Việt Phương, thư ký Thủ tướng Phạm Văn Đồng đang nhờ nhà văn Nguyễn Khải góp ý bản nháp “Thư gửi đồng bào miền Nam” của đại hội.

 

Họp xong, tôi lại lên Tây Bắc làm thằng thợ rừng còn Nguyễn Khải vẫn ở Hànội trong hào quang nhà văn quân đội danh nổi như cồn.

 

Trong đoàn “lực sĩ” chạy marathon trên “đường cách mệnh” nhằm tới cái đích xa vời là chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa : Vũ Tú Nam, Hồ Phương, Nguyễn văn Bổng, Nguyễn Trọng Oánh, Nguyên Ngọc, Nguyễn Minh Châu, Anh Đức … có một “đại kiện tướng” vừa bền bỉ không mệt mỏi vừa khôn ngoan luồn lách qua mọi chướng ngại vật, vừa “nhát sợ” phòng thân để về đích lĩnh ân sủng của Đảng : Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật – đó là nhà văn Nguyễn Khải .

 

Ông sinh năm1930, ở Hà Nội , cha là tri huyện, mẹ là vợ bé, thủa nhỏ sống nhiều với mẹ ở quê ngoại Hưng Yên . 17 tuổi làm y tá cho một đơn vị bộ đội địa phương. 19 tuổi làm phóng viên báo tỉnh Hưng Yên. 21 tuổi làm báo “chiến sĩ” Quân khu 3. Sau hoà bình, 26 tuổi về công tác ở tạp chí Văn Nghệ Quân đội. Nhiều năm là Uỷ viên chấp hành Hội nhà văn.

 

Cứ xem quá trình ‘công tác” đủ thấy suốt đời ông là một thư lại, lính văn phòng, đeo chữ thọ sau lưng , chưa một ngày đặt chân vào chiến trường khiến ông trở nên nổi tiếng trong hai câu thơ dân gian khi ông viết “Bút ký Hoà Vanglấy tài liệu từ các bản thành tích thi đua từ trong Nam gửi ra :

 

“ Hoà Vang nào ở đâu xa

Hoà Vang là ở ngay nhà đó em..”

 

Truyện ngắn đầu tay của Nguyễn Khải là “ Ra ngoài”, “Xây dựng” chẳng có giá trị gì. Năm 1956 viết tiểu thuyết “ Người con gái quang vinh” nữ anh hùng Mạc thị Bưởi chìm nghỉm ngay khi mới xuất bản. Chỉ đến tiểu thuyết “Xung đột “ – phần 1 năm 1956 và phần 2 năm 1960, danh tiếng Nguyễn Khải mới nổi lên rầm rĩ trên bầu trời văn học cách mạng vốn còn rất thưa thớt sao.

 

Sau “Xung đột” , Nguyễn Khải viết chừng hơn 20 đầu sách khác nữa, nhưng nhắc tới ông người ta vẫn chỉ nhắc tới “Xung đột” như là một trong những đỉnh cao trong sự nghiệp được nhà phê bình chính thống “gạo cội”, Giáo sư Phan Cự Đệ tâng bốc :

 

Từ nhiều năm nay , với tư cách là một nhà văn quân đội, Nguyễn Khải luôn luôn có mặt ở những vị trí hàng đầu của cuộc sống. Tác phẩm của anh phản ánh những mảng hiện thực mang tính thời sự nóng bỏng, đồng thời vẫn nêu lên được những vấn đề triết học, đạo đức có tầm khái quát cao. Tài năng và phong  cách Nguyễn Khải bắt đầu hình thành và khẳng định từ khi Xung đột – tập I được giới thiệu lần đầu tiên trên tạp chí Văn Nghệ Quân đội năm 1957…”

 

“ Xung đột” – tập 1 viết về cải cách ruộng đất và sửa sai tại một làng công giáo toàn tòng – thôn Hỗ thuộc Giáo phận Bùi Chu. Xưa nay viết về đề tài cải cách ruộng đất, thông thường các nhà văn miền Bắc có hai chọn lựa :

 

- Hoặc diễn tả nó như là cuộc đấu tranh giai cấp với mâu thuẫn đối kháng, địch ta : một bên là nông dân, một bên là địa chủ, cường hào đại gian đại ác. Cuộc đấu tranh này là “một mất một còn” , ranh giới địch – ta rõ ràng và tuyệt đối. Viết theo lối này các nhà văn được đeo chữ thọ sau lưng, rất an toàn và được “bảo hiểm” bởi lẽ họ thả sức bôi xấu phe địch – tức địa chủ và thoải mái ca ngợi phe ta – tức nông dân được Đảng phóng tay phát động. Tuyệt đại đa số các nhà văn cây đa cây đề đều theo lối viết này : “ Nông dân với địa chủ” của Nguyễn Công Hoan, “Con trâu” của Nguyễn Văn Bổng, “ Mẹ con đồng chí Chanh” của Nguyễn Đình Thi. Mặc dù được báo chí của Đảng khen “kịp thời, kịp thời” nhưng tất cả đều đi vào bến lú sông quên chỉ vài tháng sau khi xuất bản.

 

- Hoặc diễn tả nó như là một cuộc đấu tranh “nội bộ nhân dân” – tức đi sâu vào chuyện “nhất đội nhì trời”, chuyện “con tố cha, vợ tố chồng”, chuyện “án oan biết oán ai” ….Viết theo lối này nhất định dễ “ăn đòn” bởi tội “nói xấu cách mạng”, chê Đảng lúc nào cũng tự nhận sáng suốt mà sai be sai bét. Đi theo con đường dễ vỡ nồi cơm này có rất ít người và thường là “thân tàn ma dại” như Vũ Bão với “Sắp cưới” ,Hoàng Tích Linh với “Cơm mới”, Nguyễn Khắc Dực với “Chuyến tàu xuôi”. Gần đây có cởi mở hơn, viết về cải cách ruộng đất theo kiểu “mâu thuẫn nội bộ” như “ Dòng sông mía” của Đào Thắng còn được tặng thưởng của Hội nhà văn Việt Nam năm 2005.

 

Tất nhiên khôn lõi đời như Nguyễn Khải chẳng dại gì chọn kiểu viết thứ hai – tức diễn tả cải cách ruộng đất như là cuộc đấu tranh “nội bộ” nhân dân – tức mâu thuẫn để đi tới thống nhất – dễ bị quy chụp, dễ bị ăn đòn là thứ Nguyễn Khải tránh cho thật xa.

 

Vậy thì tốt nhất chọn lối viết thứ nhất tức diễn tả mâu thuẫn đối kháng, có tao không có mày, ta nhất định thắng, địch nhất định thua, và để an toàn hơn thế nữa, Nguyễn Khải không chọn chiến tuyến đối lập địa chủ với nông dân như các nhà văn cây đa cây đề mà chọn tuyến đối lập có tính đối kháng : một bên là bọn phản động đội lốt tôn giáo với bên kia là những nông dân nòng cốt cách mạng, trung kiên, một lòng theo Đảng.

 

 Bởi thế tiểu thuyết Xung đột – Tập 1 của Nguyễn Khải thực ra là chuyện đấu tranh “địch ta” kiểu “câu chuyện cảnh giác “được vẽ vời công phu bằng văn chương câu khách.

Xung đột – Tập I xảy ra vào năm 1956, cuộc cải cách ruộng đất vừa hoàn thành với bao sai lầm và làng thôn bắt đầu sửa sai theo hướng dẫn của cấp trên. Tuy nhiên cái sai lầm cải cách ruộng đất ở đây không phải do Đảng nhắm mắt học theo kinh nghiệm Trung Quốc, quy định tỷ lệ địa chủ để cố ép tìm ra cho đủ số – viết như vậy dễ “vỡ nồi cơm”, Nguyễn Khải lái thủ phạm gây nên bao sai lầm trong cải cách sang các …cha cố.

 

Ông lu loa rằng khi Đội cải cách về làng , cha xứ đã ngầm gài người cho đội “bắt rễ” và trở thành chỗ dựa cho Đội, từ đó tố oan cho những cán bộ cốt cán của Đảng để đến nỗi họ bị xử trí như Môn, xã đội trưởng, Thuỵ, cán bộ xã…có người còn bị xử tử như Rỹ , Bí thư Chi bộ…Bao nhiêu tội lỗi đều do…nhà thờ gây ra cả, cách mạng chỉ có…mất cảnh giác chút thôi.

 

Thực chất trong Xung đột – tập I Nguyễn Khải đã bẻ queo sự thực lịch sử, chạy tội cho Đảng trong việc bắn giết cả những đồng chí của mình, trút tội giết người đó sang… âm mưu thâm độc của Nhà thờ chứ không phải do sự ngu dốt sai lầm trong đường lối cải cách ruộng đất . 

 

Trên cái “bệ đỡ an toàn” đó, Nguyễn Khải tha hồ phóng bút trách gì nhà phê bình Phan Cự Đệ chẳng tấm tắc khen :

 

Người đọc như bị hút vào những sự kiện nóng bỏng trong những năm khôi phục và cải tạo kinh tế : cuộc đấu tranh giai cấp và đấu tranh trong nội bộ nhân dân diễn ra căng thẳng , ác liệt và vô cùng phức tạp vào khoảng cuối năm 1956 ở một số vùng đạo gốc tỉnh Nam Định, khi Đảng ta tiến hành sửa chữa những sai lầm trong cải cách ruộng đất và bắt đầu cuộc vận động hợp tác hoá nông nghiệp”.

 

Chơi trò lập lờ đánh lận con đen, xuý xoá sai lầm của Đảng trong cải cách ruộng đất, trách gì Xung đột – tập I chẳng được cả một hệ thống tuyên truyền của Đảng kéo lên mây xanh ngay trong thời gian Đảng đàn áp văn nghệ sĩ, khét lẹt nhất qua vụ Nhân Văn Giai Phẩm. Trong khi những tác phẩm phản ánh được chút ít hiện thực khách quan như những truyện ngắn và thơ trong nhóm Nhân văn Giai phẩm , tiểu thuyết “Vào đời” của Hà Minh Tuân, “ Phá Vây” của Phù Thăng, kịch của Hoàng Tích Linh, Nguyễn Khắc Dực… bị đòn vọt thì hàng loạt tác phẩm của Nguyễn Khải cứ nối đuôi nhau ra đời trong sự reo mừng, tâng bốc của cả một bộ máy các nhà phê bình văn học của Đảng.

 

Mở đầu “Xung đột” – Tập 1, Nguyễn Khải chơi trò “giật gân” miêu tả một “sự kiện động trời” ngay khi làng xã mới bước vào đợt “sửa sai” sau cải cách ruộng đất. Đó là “ Đại hội công giáo tám xứ toàn miền” với đủ các gương mặt của “phe đối nghịch” tức toàn bộ các gương mặt “phản động” của nhà thờ cũng các con chiên bị dụ dỗ và mê hoặc họp thành một mặt trận, một chiến tuyến chống lại chính quyền cách mạng. Đánh vào trí tò mò của độc giả vậy, trách gì cuốn sách không hấp dẫn ?

 

Bộ chỉ huy của lực lượng chống đối này gồm toàn những người khoác áo choàng thâm. Trước hết là tu sĩ Thịnh , “hoạt động phần đời nhiều hơn là phần đạo…Thầy không phải là người tu tầm thường mà là một người hoạt động chính trị xuất sắc. Năm nay thầy mới hai mươi tám mà năm hai mươi bốn đã làm tới trưởng khu Cao Mại, một tay xây dựng hai mươi bảy ban xã uỷ, lãnh tụ liên tôn diệt cộng toàn khu…”.

 

Rồi đến cha Vinh là người đã “mang quân từ Phát Diệm về đốt trụi xóm, lấy thóc của nhà xứ, thóc của dân đổ đầy hàng trăm chiếc thuyền đậu kín như lá tre ở cống Cả, đã quay điện con ông Thiềm bây giờ nửa sống nửa chế,đã ngủ với cô Mến có thai ba tháng, thuốc độc chết ông trùm Thuý…Rồi thì cha Thịnh dẫu được “ đi Hà Nội họp, ăn một ngày bảy tám cân *, được gặp cả Hồ Chủ tịch” ấy vậy mà khi trở về giáo xứ lại dấu mặt tổ chức đại hội công giáo, xui con chiên :

 

Bây giờ các nơi công giáo đều nổi dậy cả rồi, chúng ta phải đòi công giáo tự trị…chiến tranh tàn khốc, chế độ đổi thay , chỉ có đạo Chúa là không gì diệt nổi…”.

 

Tóm lại các tu sĩ đều là loại núp áo choàng thâm làm việc xấu xa, bỉ ổi, gây hoạ cho dân cả. Chẳng hiểu khi bôi bác nhà thờ như vậy, Nguyễn Khải có khi nào nghĩ một thời mình cũng từ đó mà ra ?


 

Trong đám tay chân đắc lực của các cha phải kể đến cô Lý, đẹp nhất nhì trong làng, nhưng lại “ làm ruộng không biết, đi buôn không vốn, hoạt động đoàn thể cũng không nốt, nào ai biết cô ả làm gì, chỉ thấy đi suốt ngày đi cả đêm. Thời tạm chiếm Lý là tay đưa tin đắc lực của đại đội cha Báu, từ ngày cha Vinh về thì lại là tay chân thân cận của ông Vinh…đặc biết có cảm tình với tu sĩ Thịnh…”.

 

Tay chân đắc lực cho các cha còn có anh Quảng, con trai phó trương xứ “mười bảy tuổi đã sung vào đội quân của cha Báu, mười tám tuổi chuyển qua đội quân com-măng-đô, ít lâu sau được cử làm người hộ thân cho viên quan năm chỉ huy quân sự miền hạ Nghĩa Hưng…”Khi bàn đến việc đánh cán bộ, Quảng hăng hái :

 

” Nó có dao sắc mình cũng có dùi bén. Một trăm người không đánh nổi vài đứa à ? Có cần tử vì đạo tôi cũng xin dâng mình…”.

 

Tóm lại, phe “phản cách mạng” nhân danh Chúa đều gồm những con người ghê gớm, dạn dầy kinh nghiệm chống nhà nước cộng sản.

 

Bên phía cách mạng có Thuỵ là đội trưởng du kích, mặc dù bị truy ép tàn khốc trong cải cách ruộng đất vẫn khăng khăng :

 

Làm việc vì Đảng, đừng làm cho người ta khen. Những kẻ có ác ý không biết nhưng Đảng tối cao, thiêng liêng sẽ biết , sẽ dành phần thưởng sau này…”.

 

Có Môn, xã đội phó, là một trong bốn người bị giáo Thịnh bố trí “kích” lên thành đầu sỏ Quốc dân đảng ở xã. Sau khi hai trong bốn người đó, một bị xử bắn, một tự tử, Thuỵ và Môn mới được tha bổng và phục chức cũ. Chính quyền xã lúc này đang “non yếu”, dân quân du kích phần lớn là giáo dân tin theo nhà thờ, xã đội trưởng thì mải đi buôn, Chủ tịch xã là chị Nhàn thì lại hay bận đi…họp huyện. Thế là sau vài ngày họp trù bị, bầu không khí thù ghét cải cách ruộng đất, thù ghét Đảng và Nhà nước trong đại hội công giáo đã dâng tới mức các giáo dân hô khẩu hiệu chống cộng :

 

“ Đả đảo đội cải cách ruộng đất “

 

“ Đả đảo”

 

“ Đả đảo chính sách của Đảng Lao Động…”

 

“ Đả đảo”…

 

Tới lúc đó cha Thuyết mới chính thức ra mặt chủ trì “đại hội công giáo toàn miền” đòi lôi cổ những người đã tố cha Vinh ra đại hội để hỏi tội. Nực cười thay, đứng giữa đại hội, anh nông dân tên Hạ đã không thanh minh cho cha Vinh thì chớ , ngược lại còn tố cáo cha :

 

ngưỡng cửa buồng cha lẽ ra phải rất trong sạch , đàn bà bước qua phải thay ngay ngưỡng cửa ấy, tại sao có người ngày nào cũng bước qua mà ông Vinh vẫn không thay…tại sao ông Vinh lại đeo lon quan ba dẫn quân bốt Thạch đi càn quét…”

 

Người thứ hai được bố trí lên “minh oan” cho cha Vinh cũng “phản cung” như Hạ, thế là “màn kịch” của “phe nhà thờ” dầy công dựng lên bị đổ bể ngay từ đầu.

 

Người ta phải đặt câu hỏi với nhà văn Nguyễn Khải tại sao “nhà thờ” vốn được ông mô tả vô cùng gian ngoan, xảo quyệt, mưu sâu, đòn độc vậy sao lại dựng lên một màn kịch vụng về vậy ? Phải chăng họ ngờ nghệch đến thế ? Chắc vì nhà văn đã nhiễm sâu trong máu nguyên tắc “ta là thiện, là tốt đẹp, giỏi giang” – “địch là ác, là xấu xa, ngu dốt” nên mấy ông cha cố mới bị bôi bác ngờ nghệch đến thế.

 

Sau thất bại “minh oan “ cho cha Vinh , đại hội cử ngay ra một đoàn đi bắt “hai con quỷ dữ” là Môn và Thuỵ – cốt cán của cách mạng- tới đại hội để giáo dân hỏi tội. Hai ông này thân cô thế cô nên đành phải mài sắc hai con dao chờ sẵn ở nhà. Mặc dầu nhà Thuỵ có một tiểu đội bộ đội đóng quân nhưng không dám can thiệp cứ đứng nhìn “người của đại hội” tới bắt Thuỵ và Môn. Đến khi Lý và Quảng hai người tích cực nhất xông vào đánh Thuỵ, tiểu đội trưởng bộ đội mới xông vào can ngăn. Chỉ chờ có thế, Quảng va chạm vào người anh bộ đội rồi “tự thọc ngón tay cào rách màng lỗ mũi,máu rỉ ra một dòng nhỏ , hai tay hắn đưa lên quẹt khắp mặt , mặt lem nhem máu ” rồi lăn ra giả vờ chết. Thế là “tin dữ” bộ đội giết dân loang ra khắp làng khắp xóm :

 

Chuông bắt đầu đánh chính thức loan báo “tin nổi dậy” cho toàn xứ, cho các xứ khác. Trống thôi thúc từng nhịp.Người từ các dong xóm vì tò mò lặng lẽ kéo đến mỗi lúc mỗi đông…”

 

Anh bộ đội tên Nẫm bị giáo dân lôi ra đánh đập, hành hạ với những lời chửi bới :” thằng bộ đội khốn nạn đánh cả dân , ai đóng thuế nông nghiệp nuôi cho nó ăn béo, ai dệt vải cho nó mặc để nó vô ơn bạc nghĩa đi bênh mấy thằng quỷ ở xứ này. Có người đòi phải lấy đanh đóng vào tay chân nó phơi mưa…”

 

Cha xứ bấy lâu nay vẫn dấu mặt đến lúc này thấy cần phải chường ra để “chăn dắt con chiên”, bởi vậy cha Thuyết thân chinh đi tới chỗ quàn “cái xác” Quảng “lật chiếu nhìn mặt Quảng. Ôi có lẽ nó đã qua đời rồi, nó không còn thở nữa. Cha mở hộp dầu thơm nức dúng tay làm dấu vào trán Quảng , vào hai lòng bàn tay, hai gan bàn chân , vừa nguyện bằng tiếng la tinh. Tiếng đọc kinh nổi lên rền rĩ :

 

“ Lạy Chúa Ki-ri-xi-tô thương xót chúng tôi, xin Chúa thương xót chúng tôi…”

 

Tiếng chuông đánh nhịp hai tiếng một điểm hồi dài, báo tin một linh hồn kẻ lành được lên nước thiên đàng hưởng phúc thanh nhàn đời đời. Xác Quảng được liệm bằng chăn khiêng vào trong nhà để chính gian giữa…”

 

Vậy là nhà thờ đã tạo ra cái cớ “bộ đội giết dân” để kêu gọi giáo dân toàn miền vùng dậy lật đổ nhà cầm quyền cộng sản. Tiếc thay, cái quả bom nổ chậm ấy, cái căn nguyên để khởi nghịch đó lại vỏn vẹn chỉ là cái chết giả vờ của một anh chàng ngờ nghệch chỉ có mỗi cái máu “chống cộng” hăng tiết vịt . Liệu các cha Thiên chúa giáo của cả một giáo xứ có ngây thơ , ngớ ngẩn như vậy chăng, hay nhà văn Nguyễn Khải vẽ vời vậy ? 

 

Quả nhiên cái vụ Quảng giả chết để vu vạ cho bộ đội lập tức bị lật tẩy một cách dễ dàng khi chị Nhàn – Phó Chủ tịch xã đi họp huyện về yêu cầu “ phải khám nghiệm tử thi làm biên bản rồi cho chôn luôn”. Vợ “người chết” sợ quá ôm chặt lấy ‘xác chồng” không cho động tới và ngay tối đó “hai mẹ con Quảng đem võng đến cáng hắn về. Khiêng qua cầu sang xóm bên kia, đường vắng lặng, Quảng thò cổ ra nhìn quanh không có ai, y nhỏm dậy nhảy ngay xuống đất rồi chạy vụt vào một cái ngõ sâu thẳm…”.

 

Vậy là “âm mưu” của nhà thờ vu cáo bộ đội giết dân để làm ngòi nổ cho cả phong trào “giáo dân nổi dậy” chống chính quyền bị phá vỡ một cách quá dễ dàng và…lãng xẹt. Cuộc XUNG ĐỘT giữa nhà thờ và chính quyền cộng sản tưởng là ghê gớm lắm, rút cuộc chỉ một chị Phó Chủ tịch xã ra một cái lệnh là “âm mưu của nhà thờ” bị tiêu tan.

Tất nhiên vụ “Đại hội giáo dân” kích động dân làm loạn tuy có qua đi nhưng xung đột giữa “nhà thờ” và “cách mạng” vẫn còn đó. Nó len lỏi vào các gia đình gây nên những ‘bi kịch” mà gia đình anh bộ đội Tường là một thí dụ tiêu biểu. Sau mấy năm xa nhà, nhân dịp tết được nghỉ phép, Tường tưởng sẽ được hưởng không khí gia đình đầm ấm sau những năm tháng xa nhà, ngờ đâu vừa đặt chân về nhà anh đã va ngay phải cuộc xung đột giữa “nhà thờ” và “cách mạng”.

 

Trước hết là cái Khoai, đứa con gái của Tường “ nó không vồ vập, không cười, đứng né sang một bên cho bố nó dắt xe đạp vào, mắt ngước lên lấm lét như nhìn người lạ luồn ngay ra đằng sau lủi chạy mất”..

 

Con đã xa cách thế, đến bố cũng vậy :

 

Bố thấy con trai lần đầu về ăn tết với gia đình từ ngày đi bộ đội cũng không vui, cũng có vẻ hậm hực …”.

 

Tại sao vậy nhỉ ? Hoá ra vẫn là “xung đột” giữa “nhà thờ” và “cách mạng”. Bố anh trách :

 

Dạo đầu năm vợ mày lên thăm, mày định giật ảnh tượng của vợ mày, bảo những cái ấy là vô tích sự phải không ?...Dù mày có là bộ đội nhưng trước hết vẫn là bầy tôi của Chúa, vẫn là con tao. Mày không được ăn nói bậy, nghe không ?”

 

Rồi mặc cho anh con trai thanh minh,ông vẫn kể tội :

 

Hôm ấy vợ mày nói với mày xin đánh tượng vàng đeo , mày bảo :” Chẳng đạo gì bằng đạo ăn, để tiền mà đong thóc với lại “ có người lạc hậu mới tin đạo..Tao nghe chuyện ấy đã định viết thư lên bảo thẳng với các cấp chỉ huy của mày là không biết dậy con tao để con tao thành kẻ vô loài, rồi tao sẽ từ mày, hiểu chưa ?”.

 

Cứ như thế những ngày Tường về phép ở nhà là những ngày “chiến tranh ý thức hệ” – tình cảm thiên nhiên của vợ chồng, của cha con dường như đã bị vót nhọn trơ lại có mỗi “xung đột” giữa “chúa và bộ đội”. Ngày Tết họ hàng tới thăm nhau , trò chuyện cũng toàn mùi “chính trị”.

 

Quảng , cháu của Tường vừa gặp lại chú đã lên giọng khiêu kích :

 

Độ này chú tiến bộ làm đến cấp gì rồi ? Gớm , các ông bộ đội chính trị bỏ mẹ…À…à…bốn túi đây mà , đại đội hay tiểu đoàn ? Áo vải chắc là đại đội …chú đi bộ đội lâu thế vẫn là đại đội thôi à ?”

 

Rồi Quảng xoay sang chuyện chính trị thật :

 

Chú đi xa không rõ. Ở nhà vừa rắc rối lắm. Bộ đội đánh dân nhưng uỷ ban lật lọng thế nào lại hoá ra nhân dân đánh bộ đội…Mấy thằng phản Chúa hại dân lại ra làm việc rồi. …Chú xem , chúng nó ra nhận việc hôm trước hôm sau hạ lệnh bắt người ngay, không hiểu đem đi buộc đá bỏ biển hay tù đày mãi đâu chẳng thấy tin về. Cứ như tình hình này có lẽ chính phủ muốn tiêu diệt công giáo chắc…”

 

Thế rồi khi hết phép, vào lúc chia tay, Tường thưa chuyện cùng bố mẹ lại cũng là chuyện…chính trị :

 

Cách mạng nổi lên hai anh em con mới ra khỏi nhà mụ Bao, từ bấy đến nay con ăn cơm bộ đội, mặc áo bộ đội, được bộ đội dậy dỗ thì sống chết với bộ đội. Còn bố mẹ sợ luỵ vì con , không muốn nhận con nữa thì cứ việc làm giấy lên uỷ ban mà từ. Con xin chịu…”

 

Cứ như vậy, ông con trai bộ đội về phép chẳng bàn bạc gì được chuyện làm ăn kinh tế sao cho bố mẹ, vợ con ăn sung mặc sướng lại sa đà vào toàn chuyện “chúa” với “cách mạng”. Sự thực quan hệ gia đình, họ hàng khi đứa con phương xa trở về trong những ngày tết thiêng liêng có đến nỗi rặt một mầu chính trị như thế không. Hay là từ cái tựa “xung đột” của tiểu thuyết và bài học nằm lòng của chủ nghĩa Mác đã ăn sâu vào tác giả :” tiến hoá là sự đấu tranh giữa hai mặt đối lập” khiến ông nhà văn nhìn vào đâu chỉ cũng chỉ thấy có xung đột chính trị.


 

Ngay cả trong gia đình Nhàn, Phó Chủ tịch xã, chỉ có hai mẹ con mà xem ra trò chuyện hàng ngày giống như “hai phe” đối lập nhau. Hồi cải cách, cha Vinh bị mang ra đấu. Bà mẹ bênh cha :

 

Đấu cha là đấu Chúa đấy…Mày phải biết đỗ được đến chức cụ là trải qua trăm nghìn khó khăn thử thách đấy . Nếu người không có nhân đức thì ngay khi chịu phép cắt tóc không hộc máu cũng phát ung nhọt , bệnh tật rồi..”

 

Cô con gái cãi lại :

 

“ Mẹ còn nhớ nhân dân bên Thạch Bi xứ cũ của ông ấy, cơm nắm cơm gói đến chầu chực ở đây hàng tuần chỉ xin được lột da ông ấy căng mặt trống không ? Chính phủ không xử bắn là may chứ còn tiếng tốt gì ?”

 

Bà mẹ lại kể lể :

 

Nếu mày không nghe lời tao, tao không dậy được mày thì cả nhà này sẽ mắc vạ tuyệt thông , bị khai trừ ra khỏi hội thánh . Nếu thế thì mẹ chết mất…Con ơi, mẹ run sợ lắm. Mẹ già rồi, ngày linh hồn lìa khỏi phần xác cũng chẳng bao xa…lúc đó hai con khiêng được mẹ ra đồng hay sao, hay là buộc rợ vào chân mẹ cho trâu kéo hở con…con nghĩ lại cho mẹ nhờ …”

 

Ngày này qua ngày khác, bất kể ngày hay đêm, cứ hai mẹ con ngồi với nhau là y như rằng nổ ra “xung đột” như thế. Ông nhà văn liệu có nói quá đi không ?

 

Trong gia đình, họ hàng nhà Thuỵ – đội trưởng du kích, “xung đột” và chia thành hai phe ‘cách mạng” và “phản cách mạng” còn dữ dội hơn. Chú ruột của Thuỵ là cha Thuyết, bố đẻ của Thuỵ là ông trùm Nhạc. Ngày nọ cha cho gọi các cháu trong nhà gồm có Thuỵ, Toán và Quyên tới để cha cho tiền làm nhà. Trước khi đưa tiền, cha lại nói chuyện “chính trị” :

 

Nói đến cải cách tao lại nhớ hồi ấy du kích chúng nó làm bùi nhùi cụ Ngô rồi đâm chém hò hét. Thật trò hề. Cụ Ngô là người rất sùng đạo. Cụ là em đức Cha Ngô Đình Thuc đấy. Nghe nói sáng nào cụ cũng đánh ô tô đến nhà thờ xem lễ rồi mới về làm việc. Trong Nam người ta yêu quý cụ lắm…”

 

Nghe ông chú tuyên truyền “phản động”, dẫu ông là cha đạo đi chăng nữa, Thuỵ cũng chặn họng ngay :

 

“ Thưa cha…cha cho gọi chúng con lên để nói chuyện trong nhà hay chuyện chính trị ?”

 

Cứ như thế, chú cháu bốp chát nhau, sau cùng cha Thuyết chỉ cho tiền Toán và Quyên , còn Thuỵ nhất định không nhận. Bởi thế ông Nhạc, bố của Thuỵ chì chiết con :

 

Khí khái rởm. Tiền đưa tận tay mà không thèm cầm. Bốn năm chục vạn chứ có ít đâu, mày thử xem đến bao giờ mới dành dụm được chục vạn mà dựng nhà ? Mày cứ bảo cha không tốt, không tốt thì cũng là cha linh hồn, cũng là em tao, chú mày. Mày đừng đâm bị thóc chọc bị gạo để anh em tao lủng củng với nhau. Không tin người ruột thịt thì tin ai ? Mày không thèm lấy tiền của cha thì tao sẽ xin cha, ăn mày cha chẳng ai cười …”

 

Thế là quan hệ cha con của Thuỵ – đội trưởng du kích cũng căng thẳng chẳng thua gì quan hệ mẹ con của cô Nhàn – Phó Chủ tịch xã.

 

 Liệu trong những người ruột thịt với nhau chỉ toàn là “xung đột” chính trị không ?

 

Trong một số không nhiều các nhà văn miền Bắc viết về Thiên Chúa giáo như Nguyễn Thế Phương với tiểu thuyết Nắng , Chu Văn với tiểu thuyết Bão biển…có thể nói Nguyễn Khải là nhà văn bám sát nhất quan điểm Mác Lênin “tôn giáo là thuốc phiện ru ngủ quần chúng”. Chẳng hiểu ông có xác tín điều đó không hay chỉ vờ làm vui lòng đồng chí Tố Hữu ; song trên các trang viết của ông nhan nhản những tình tiết, những nhân vật được ông mô tả chỉ nhằm bỡn cợt Chúa.

 

Đám rước kiệu “tượng Đức Giê-su vác câu rút “ trong ngày lễ Phục sinh được mô tả với giọng dè bỉu :

 

Thỉnh thoảng xé lên lanh lảnh một vài tiếng kèn đồng te té te té…chói tai , lạc lõng, chìm nghỉm ngay trong cái hỗn độn của tiếng trống, tiếng trắc gỗ , tiếng đọc kinh ngắm đàng thánh giá , tiếng gọi nhau í ơi…”.

 

Đám người tổ chức rước toàn là quân phản động. Đánh nhịp cho đội trống là Quảng và Liêu. Quảng là “ con trai phó trương xứ , mười bảy tuổi đã sung vào đội quân của cha Báu, mười tám tuổi chuyển qua đội quân com-măng-đô, ít lâu sau được cử làm người hộ thân cho viên quan năm chỉ huy quân sự miền hạ Nghĩa Hưng ”, mới đây lại gỉa chết để vu vạ cho bộ đội giết dân. Còn Liêu bị “tình nghi ở trong đảng phái phản động, truy bức vợ chồng hắn về võ khí trong nhà xứ. Từ ngày ấy hắn quan niệm về phần đời , phần đạo hoàn toàn khác. Thày Thịnh mời hắn ra đứng trong ban thành lập hội trống nhà xứ”. Khi hội trống đã được thành lập với ba mươi cái trống và bốn mươi bạn hữu, Liêu lộ mặt phản động “Lý tưởng của người ta không phải là xã hội chủ nghĩa mà chính là hạnh phúc vĩnh cửu trên thiên đàng…: “.

 

Sau đội trống thì đến nghĩa binh nam và nữ. Nhà văn mượn một con bé con để diễn tả sự thờ ở của con chiên với “nỗi đau của Chúa”.

 

Nó “còn bé lắm chừng như mới chịu lễ lần đầu , hai đầu mào trắng chấm xuống gần khoeo chân…”. Nó mếu máo đọc kinh :” Kính mừng Ma-ri-a đầy ơn phúc…bà có phúc lạ hơn người nữ…và Giê-su con bà…”, nhưng mắt nó lại nhìn “một con chuồn chuồn mình đỏ đậu rún rẩy trên bụi rơi gai ở vệ sông. Ôi con chuồn chuồn đẹp quá, đậu ngờ nghệch quá…”.

 

Trong khi đầu óc con bé chẳng nghĩ gì tới Chúa thì ngay bà quản giáo trong đám rước cũng vậy . “bà không đọc kinh, bà còn mải trông hơn sáu mươi em nữ nghĩa binh, học trò của bà, nếu rời mắt là chúng nó lại xô đẩy nhau, cấu véo nhau…” và bà quản giáo được mô tả đầy ác cảm “trên khuôn mặt bà không có lấy một nét nào hiền dịu, tha thứ, cởi mở của người mẹ; nó ảm đạm như người có nỗi buồn sâu kín; nó khắc khổ vì bà là người tu hành ; khi bà đánh trẻ con thì rõ là người khó tính khắc nghiệt …”

 

Sau đó các con chiên lần lượt vào nhà thờ nghe đọc đoạn đóng đanh tưởng nhớ đến những sự thương khó Chúa Guê-su đã chịu trên cây thánh giá. Chẳng hiểu sao cha xứ lại …khó kiếm ra được một người đọc đoạn kinh đó.

 

“” Ông Đông phó trương xứ chữ quốc ngữ không biết, chữ nho cũng không nốt nên sự hiểu biết đạo lý kinh sách chẳng hơn gì người bổn đạo. Còn ông trùm Hoà , trùm đạo thôn Hỗ lại càng…dốt hơn.” .

 

 Có thực trong các ông trùm đạo nhiều người mù chữ đến như thế chăng ?

 

Và nỗi đau của một bà già thương xót chúa Giê-su được mô tả “hài hước”:

 

Bà Nhàn ngồi vào một góc, cái mào đen rủ xuống hai bên má che gần hết khuôn mặt ảm đạm của bà. Bà cố bày ra trong trí khôn như xem thấy chúa Giê-su bị quân dữ đóng đanh trên cây thánh giá thật. Những cái đanh sắt mà đóng xiên qua bàn tay Chúa mình như thế thì đau đớn biết chừng nào, chỉ vì tội mình và tội tổ tông truyền. Ôi, cái mạo gai, có những bảy mươi hai cái gai lọt vào óc Chúa tôi, buốt nhức biết bao nhiêu , máu chảy đầy mặt ròng ròng. Bà cứ tự vật vã với mình , trách móc mình sao đã vội vã quên đi sự thương khó mà Chúa đã phải chịu…”

 

Thật đúng “tôn giáo là thuốc phiện “ . Nó làm một bà già trở thành mê mụ, mù quáng đến dở hơi :

 

“ Chúa lấy hai cây gỗ cứng thay giường nằm, lấy mạo gai nhọn thay gối còn bà thì giường cao, chiếu sạch, chăn đắp , màn che , bà còn phàn nàn gì nữa, kêu xin gì nữa. Bà không bao giờ ao ước được sướng hơn mà chỉ muốn mình sẽ khổ đi, chịu đựng thêm vì con đường lên thiên đàng là con đường hẹp…”

 

Lực lượng “nhà thờ” đông đảo vậy nhưng chẳng là gì với chính quyền cách mạng tiêu biểu nhất là Môn – Chủ tịch xã. 

 

Một trong những địch thủ nguy hiểm nhất của nhà xứ là Môn, xã đội trưởng ngày trước và nay là chủ tịch xã …”

 

Trong cải cách, do “âm mưu của nhà thờ” , Môn đang là xã đội trưởng bị kích lên “thành phần phản động” suýt nữa bị bắn như Rỹ. Lúc sửa sai, Môn được phục chức và trở thành một đảng viên trung kiên , lập trường còn vững hơn cả cấp trên. Môn thường xuyên theo dõi các hoạt động trong nhà thơ và bắt ne bắt nẹt .

 

Một hôm trên toà giảng, cha Vinh cao hứng nên có giảng chệch ra ngoài kinh sách E-van đôi chút :” Vinh đây dẫu đầu rơi máu chảy cũng không chịu lui đâu. Nó có vả ta má bên hữu ta còn giơ má bên tả cho nó vả nữa kia. Ai chịu bắt bớ vì sự công chính thì có phúc thật vì nước trên lời là của kẻ ấy…”

 

Lập tức có kẻ mật báo, ngay sau buổi giảng, “Môn nhân danh chính quyền mời cha Vinh đến trụ sở nói chuyện”. Khi cha tới, “cha đưa tay ra nhưng không ai bắt nên lại rụt tay về”, Môn trấn áp ngay :

 

Linh mục làm phản động , chính phủ bắt giữ để tự hối cải lại còn nói không lùi bước. Ý chừng linh mục muốn chống đối với chúng tôi mãi chăng ? Muốn làm phản động lần nữa hay sao ? Nếu vậy chúng tôi sẽ có cách…”

 

Tất nhiên cha sợ vãi mồ hôi, lần sau cạch đến già có giảng kinh thì cũng phải “uốn lưỡi bảy lần “ . Khi “duyệt” cho nhà xứ thành lập đội kèn, ông Chủ tịch Môn còn đặt điều kiện :

 

Người trong hội kèn chỉ biết có thổi kèn thôi, ngoài ra không được làm những việc gì khác, nói rõ ra là không được làm chính trị. Nếu có thế nào thì ban chánh trương phải chịu trách nhiệm. Còn nếu bằng lòng đặt dưới sự lãnh đạo của Uỷ ban thì cụ thể phải nằm trong khối văn xã…”

 

Ban chánh trương cùng các trùm họ mở tiệc mổ trâu để bầu Quý là địa chủ vào Ban chánh trương xứ. Tất nhiên Môn được mật báo và tuy không được mời cũng lừng lững đi vào bữa tiệc như chỗ không người rồi lên giọng chủ tịch xã :

 

Muốn đạo gì thì đạo , đã là công dân thì phải theo đúng pháp luật của Nhà nước . Nếu ai làm trái thì dù bố mẹ đẻ ra cũng không bênh được …”

 

Rồi ông Chủ tịch xã can thiệp vào việc bầu bán của nhà thờ :

 

Tôi lấy một ví dụ : đã là địa chủ thì nhất thiết phải tước hết quyền công dân, không được tham gia bất cứ một tổ chức nào cả.Thấy ban chánh trương cũ bất lực cần bầu lại thì cứ bầu, giáo dân chúng tôi hoan nghênh mà uỷ ban cũng hoan nghênh, nhưng bầu địa chủ là sai, địa chủ lãnh đạo nông dân là chuyện ngược đời, là trái chính sách , trái cả lẽ đạo…”

 

Và chỉ vài ngày sau khi chánh trương xứ Quý đi Hà Nội về, “ Môn cho hai du kích đến áp giải Quý lại trụ sở bắt ngồi xuống đất . Môn hỏi :

 

“ Quý ! Mày hãy nhắc lại tám điều quy định cho địa chủ sau cải cách ruộng đất để uỷ ban nghe !”

 

Lâu lắm ông chánh trương xứ mới lại bị nghe một người khác nói đến tên mình một cách láo xược vậy. Nhưng người đó lại là …đại diện chính quyền . Bởi vậy “Môn bảo sao hắn cũng vâng dạ ngoan ngoãn lắm như người bị mê muội từ lâu nay mới có dịp thức tỉnh. Môn kết luận :

 

“ Mày đi Hà Nội không xin phép ai , đáng lý phải trị thẳng tay làm gương cho đứa khác nhưng Uỷ ban tha thứ lần đầu. Còn mày làm những gì thì trong này đã có hồ sơ cả . Đời mày do mày định đoạt lấy. Muốn ăn cơm nóng , ở nhà với mẹ với vợ cũng được mà muốn ăn cơm mắm, ngồi xà lim cũng được …”

 

Ngày nay đọc lại đoạn văn này vẫn thấy “sởn gai ốc” .


 

Chủ tịch xã Môn là người “đạo gốc”, một “con chiên” của Chúa, nhưng nay đã trở thành “ con sói ” giữa bày cừu , “ một trong những địch thủ nguy hiểm nhất của nhà xứ “, “không thích làm những việc vụn vặt , tầm thường , bao giờ cũng đảm đương những nhiệm vụ khó nhất, phức tạp nhất người khác không làm nổi “, là một người “ốm cũng không dám nằm thật, bị cảm đã mấy hôm vẫn ra trụ sở , hay “ngồi nhà nhưng vẫn giải quyết công việc …vui lòng hy sinh đời mình cho công tác” .

 

Người thay mặt chính quyền “ mácxít hơn cả những người cộng sản” vậy tất nhiên cán cân phải lệch về phía cách mạng trong cuộc đấu tranh “quyết liệt” “ai thắng ai” .

 

Thực ra “ai thắng” quá rõ rồi, và đó không phải ”đấu tranh một mất một còn” giữa hai bên, mà chính là cuộc trấn áp tất cả những gì gây nguy hại tới quyền lực của Đảng. Bởi thế người ta thấy mối quan tâm của ông Chủ tịch xã Môn chẳng nhằm phát triển sản xuất nâng cao mức sống cho dân mà chỉ nhăm nhăm để ý coi nhà thờ có biểu hiện gì xâm phạm tới “đường lối của Đảng và Chính phủ”.

 

Từ việc nhỏ như xứ đạo mổ trâu ăn mừng Ban chánh trương mới ra mắt phải xin phép tới thành lập hội kèn phục vụ lễ rước cũng thành chuyện “trong đại” phải xem xét bên trong có âm mưu chống phá gì không ? Khi “duyệt” cho nhà xứ thành lập đội kèn, ông Chủ tịch Môn còn đặt điều kiện :

 

“ Người trong hội kèn chỉ biết có thổi kèn thôi, ngoài ra không được làm những việc gì khác, nói rõ ra là không được làm chính trị. Nếu có thế nào thì ban chánh trương phải chịu trách nhiệm. Còn nếu bằng lòng đặt dưới sự lãnh đạo của Uỷ ban thì cụ thể phải nằm trong khối văn xã…”

 

Ôi thôi, thế thì Đảng cho người thay cha “quản lý” việc đạo cho rồi.

 

Cán bộ Đảng được Nguyễn Khải ca ngợi một tấc lên trời, ngược lại, các cha đạo không “hám gái” cũng “hám tiền”.

 

Ở xứ đạo có một bà goá mới ngoài 40, “nhưng còn tươi tắn khoẻ mạnh lắm, khi ông bõ ở nhà xứ chết thì ban chánh trương cắt cử bà vào thay.”

 

 Bà goá này “ngày hai bữa cơm dâng cha và các chú ăn, giặt giũ quần áo , chăn lợn, làm vườn , dần dần cai quản cả thóc lúa và việc chi tiêu trong nhà xứ. Đêm bà cũng không về nhà cứ ngủ trong cái buồng kho.”

 

Có người đàn bà phây phây bên cạnh, làm sao cha không động lòng trần tục. “Khi thì bà lên buồng cha Vinh bưng cơm rót nước, khi cha Vinh xuống buồng bà hỏi han công việc. Có một buổi trưa cha đang ngủ bà sai cháu lên buồng cha gọi :” Cha ơi cha, bà con bảo cha cởi áo cho bà con vá…”

 

Ngoài chuyện “gái gúng” ra, các cha còn tìm mọi cách moi tiền của giáo dân .. Ông Bính, một con chiên ngoan đạo nhận xét :

 

“ Các cha xứ từ trước đã ăn mười phần thì nay nên thương con chiên mà ăn năm thôi. Các cha tải của về quê có nhiều chứ ăn là mấy . Làm thầy nuôi vợ, làm thợ nuôi miệng, các cha không có vợ thì cho bố mẹ, anh em, bà con…”

 

Còn cha Thuyết thì thu tiền của giáo dân theo giá “cắt” cổ :

 

Ông kể lại một hôm ngồi hầu cơm cha Thuyết, được nửa bữa có người đến hỏi :

 

“Lễ sáng nay làm cho linh hồn vừa mới qua đời hết bao nhiêu ?”

 

Cha vừa ăn vừa trả lời :

 

“ Hai vạn”

 

Người kia móc tiền để vào đĩa, bốn tờ giấy năm nghìn còn mới . Bữa cơm chưa xong đã có tốp đến mười bà dòng vào cũng để tiền vào đĩa dâng lên. Cha ngưng đũa hỏi :

 

“ Tiền gì?”

 

“ Trình cha tiền tứ kỳ” *

 

“ Mấy vạn”

 

“ Trình cha ba vạn mốt…”

 

Cha lại cuộn tiền cho vào túi. Cha ăn chưa hết bát cơm mà được món bổng những hơn năm vạn, mình vai vác cầy, tay dong trâu, làm hang đá, dựng đèn đại khó nhọc hàng tháng chẳng được xu nào…”

 

Các cha đạo có “ăn tiền” như cán bộ ngày nay ăn phong bì không ? Hay ông nhà văn “bôi bác”, “vơ đũa cả nắm” ?

 

Hình như đã “ấn định” viết tiểu thuyết với chủ đề ‘xung đột” nên chẳng riêng gì các cán bộ cốt cán như Môn, Nhàn, Thuy…mà ngay chính nhà văn Nguyễn Khải nhìn đâu cũng thấy “xung đột”, nhìn cái gì cũng thấy “địch phá hoại”.

 

Năm ấy thôn Hỗ được mùa, “no ăn cho nên thanh niên đua nhau chơi diều sáo….Thanh niên chơi, cán bộ chơi, cả cụ già cũng thả diều…Ong trùm Hoà nói chuyện với Môn, với Nhàn, với các cán bộ của xã :” Đấy, nhờ sự lãnh đạo của Uỷ ban, năm nay thôn nhà vui vẻ quá, đàn sáo suốt đêm…”

 

Chơi diều ở nông thôn là chuyện bình thường, nhưng tác giả cũng cố gài cho nó một ẩn ý “chính trị” :

 

“ Thôn xóm đương sầm uất vì việc đạo , vui vẻ phần đời thì vợ Liêu ngồi bán hàng ở chợ Hỗ rỗi mồm kháo chuyện :” bây giờ ở dưới đất các ông cán bộ tranh hết phần nói nên dân lại phải làm mồm ở trên giời…”

 

Thế là lập tức nhiều người phụ hoạ :

 

”Đấy, nghe kỹ mà xem, cái sáo nó cứ kêu : cha ơi…cha ơi…cha ơi….”.

 

Thế rồi một số người xì xào to nhỏ với nhau :

 

“ Bây giờ hoạ cộng sản dâng lên như nước thuỷ triều, không thể đối địch với chúng được , càng cựa càng bị giây pháp luật thít chặt đành phải nhờ tiếng sáo nó kêu khắp bốn phương may ra có thấu đến Chúa , đến đức Mẹ , đến các cha ở miền Nam không ?”

 

Vậy là giống đội cải cách “phóng tay phát động quần chúng” nhìn đâu cũng ra địa chủ, qua tiếng sáo diều ông nhà văn cũng nghe thấy tiếng nói cuả bọn “phản động”.

 Sau vụ “sáo diều” đến vụ làm “nhà nguyện”.

 

Cũng nhân dịp năm nay làm ăn xởi lởi nên một vài xóm rục rịch dựng nhà nguyện để sớm tối giáo hữu đến đọc kinh , đỡ phải lên mãi nhà thờ xứ…”.

 

 Thông thường, chuyện dựng nhà nguyện có gì ghê gớm, nhưng ông nhà văn cũng lồng vào đó “âm mưu phá hoại của nhà thờ”. 

 

Thế là nhân dịp Chú tịch xã Môn đi vắng nửa tháng, ông trùm Hoà xin phép bà Phó Chủ tịch Nhàn dựng nhà nguyện. Bà này lý luận :

 

“ Đứng về phía chính quyền mà xét thì việc dựng thêm nhà thờ họ lẻ rất phù hợp với chính sách bảo vệ tín ngưỡng của chính phủ, đứng về mặt đạo thì lại càng nên khuyến khích hơn , nước Chúa có được mở rộng thì mới có thêm nhiều linh hồn được cứu chuộc…”

 

Thế là bà Phó Chủ tịch Uỷ ban cho phép luôn.

 

“Uỷ ban đồng ý buổi sáng thì buổi chiều họ xóm trại khởi công xây dựng nhà thờ ngay….Văn phòng của ông chánh đốc công xây nhà thờ họ chật ních người đến làm việc phúc đức. Giá thóc chợ Hồ xuống hẳn vì xóm trại đem thóc đi bán nhiều quá…:”.

 

Như vậy nhà thờ phải làm vội làm vàng để qua mặt ông Chủ tịch xã. Nhưng rủi cho mấy ông, khi nhà nguyện cất xong, sửa soạn làm lễ khánh thành thì ông Chủ tịch xã đi công tác về.

 

Ngôi nhà nguyện đã xây xong, ông Chủ tịch xã không ngăn cản được nữa, trong cuộc họp Uỷ ban, ông thẳng thừng phê bình bà Phó Chủ tịch Nhàn “hữu khuynh” cho phép dân xây nhà nguyện :

 

“Tôi thử hỏi các đồng chí chỉ riêng có một xóm trại xin làm nhà thờ hay là cả miền này , cả tỉnh này đang rục rịch yêu cầu thế ? Có phải chỉ sau khi ông Lân nhân danh đức Cha đi kinh lý các xứ mới sinh ra cái chuyện này không ? Tại sao các xóm phàn nàn là hồi này gọi đi họp rất khó. Bây giờ chưa khó lắm đâu, nay mai mà để mỗi xóm lẻ mọc lên một cái nhà thờ hoặc một cái nhà nguyện thì tối đến chỉ đánh chuông đến boong một tiếng là cán bộ ngồi trơ một mình khai hội với bức vách. Đồng chí Nhàn bảo tôi tả, nhưng tôi lại nhận xét đồng chí giải quyết các việc thuộc về tôn giáo rát khờ dại. Cứ giải quyết theo hướng đó thì có ngày uỷ ban đem vợ con lên núi ở…”

 

Và ông gây sự bằng cách không cho tổ chức ăn mừng khánh thành và bắt mấy ông trùm đạo mang hết sổ sách lên để ông…kiểm tra và chỉ đạo :

 

“ ..vôi nhà xứ đã có sẵn mười tạ , nay mua thêm hai mươi tạ nữa là vừa đủ, xây hai cổng , xây tường hoa , quét vôi trong nhà thờ. Nhà thương phía sau nhà cô mụ quá dột nát thì sẽ vận động các xóm góp rạ , góp tre lợp độ dăm buổi . Ghế gãy đóng lại, nếu còn thiếu thì đóng thêm. Không nên mua chiếu ngoài rất tốn, chỉ cần mua ít đay, ít cói rồi triệu tập thanh nữ, bà già lại đánh đay, đem bàn dệt vào dệt…”

 

Vậy là ông Chủ tịch xã muốn làm cha thiên hạ, cai quản luôn cả việc đời lẫn “sự đạo”. Ông “thò tay chỉ việc” cho nhà thờ sát sạt vậy chứng tỏ Đảng “quan tâm” “ưu ái” tôn giáo lắm, thể hiện “chính sách tự do tín ngưỡng” sáng ngời còn kêu ca nỗi gì ?

 

Cũng may, hồi đó nếu tiểu thuyết “Xung đột” của nhà văn Nguyễn Khải mà lọt vào tay một chuyên viên phân tích của Toà Thánh thì còn gì là những “lời hay ý đẹp” về tự do tín ngưỡng của Đảng và Nhà nước ta ?

 


Chị Phó Chủ tịch Nhàn cho dân ‘xây nhà nguyện”, “ăn mừng khai trương ”, cứ ngỡ đứng về phía giáo dân, ngờ đâu khi nghe ông trùm phát biểu “ý kiến” theo kiểu “ tư cách công dân “ trong một đất nước có luật pháp :

 

Nói thẳng ra, cứ thế này mãi thì khó ai tin được lời chị nói, khó ai tin được cái uỷ ban này nữa. Dân bầu lên thì dân cũng có quyền truất đi. Không dễ mỗi lúc bỏ tù nhau…”

 

Chị ta cũng nhảy nhổm lên vì quyền lực bị động chạm :

 

“ Bây giờ ông định bàn với tôi về làm nhà thờ họ hay muốn phê bình uỷ ban ?”

 

Ông trùm họ tưởng mình còn có cái gọi là “quyền công dân” vẫn gan lì :

 

“ Chúng tôi là dân, chúng tôi không biết đâu đến sự làm việc của uỷ ban mà phê bình, uỷ ban làm đúng hay sai thì tự xét lấy…”

 

Lập tức chị Phó Chủ tịch trở mặt, nổi xung :

 

“ Từ nay nếu ông bàn với tôi về việc làm nhà thờ họ thì tôi vẫn hết sức nghe ông, nhưng ông lại nói lếu láo, bậy bạ về uỷ ban, gây dư luận không tốt trong nhân dân thì uỷ ban sẽ chiếu theo pháp luật mà giữ ông lại. Ngày xưa cũng thế, bây giờ cũng vẫn thế , đã làm bậy thì dù là cha cụ, là chánh trương, trùm trưởng hay con chiên thường cũng đều phải chịu xét xử như nhau , chẳng nể mặt một ai. Toà Giám mục cũng không can thiệp được vào công việc của chúng tôi, toà thánh La mã cũng không dúng vào được công việc của Uỷ ban. Ông đừng có doạ, tôi phụ trách về tư pháp tôi biết hơn rõ ông ….”

 

Ghê gớm chưa, “thằng dân” vừa mới mở miệng “phê bình chính quyền” bà Phó Chủ tịch xã đã tới tấp ra đòn đánh dập đầu , đánh “tiêu diệt”, mang cả Toà Thánh La mã ra đe nẹt khiến cho ”mặt ông trùm đờ ra , môi nhợt trắng như người phạm lỗi bị bắt quả tang…”.

 

Rồi tỏ vẻ “do dân, vì dân” bà Phó Chủ tịch thổn thức :

 

“ Tôi theo Chúa, tôi theo Chính phủ, tôi theo cả hai mà không được sao ? Ôi, lạy chúa. Con cho họ miếng bánh nhưng họ đã ném đá trả lại, con đến với họ với tấm lòng nhân từ của mẹ, nhưng họ lại đối đãi với con như kẻ thù…”

 

Kìm kẹp, thắt buộc người dân thế mà dám bảo “ cho họ miếng bánh” với cả “ đến với họ với tấm lòng nhân từ của mẹ” , còn thằng dân mới chỉ “ em xin phê bình cán bộ” vậy mà đã la làng lên “ họ ném đá trả lại” , Giê-su-ma lạy Chuá tôi, trên đời còn có ai xảo ngôn đến thế chăng ?

 

Nếu như “Xung đột” phần 1 ( viết năm 1956) khép lại những “xung đột” giữa chính quyền và giáo hội thì “ Xung đột” phần 2 ( viết năm 1961) mở ra những “xung đột” giữa con người với “lợi ích vật chất”.

 

Trước hết là cha Thuyết, cha linh hồn của cả giáo phận, được Nhà nước “quan tâm” cho đi mổ lấy sỏi mật, bỗng dưng biến thành một người ca ngợi “miếng ăn, miếng uống” sặc mùi “ơn Đảng, ơn cụ Hồ”.

 

Ta hãy nghe đấng chăn chiên “hồ hởi phấn khởi” bốc thơm bệnh viện Nhà nước :

 

“ Ôi chao, quý hoá quá sức mình , cao trọng quá đỗi. Cái nhà thương rộng dễ đến một xóm của ta , cao ngân ngất như đền thánh đức Mẹ ở Phú Nhai vậy …”

 

Rồi cha khoe được “ưu tiên” hơn cả cán bộ xã :

 

Này, thằng Thuỵ, con Nhàn có ốm cũng chưa dễ đã được vào chỗ tôi nằm đâu. Lúc đầu tao cũng chẳng tin gì vào cái khoa mổ xẻ , còn chần chừ lắm. Nhưng chính phủ đã bỏ công, bỏ tiền xây dựng một toà nhà to như vậy, nuôi hàng trăm ông bác sĩ thì tao chắc họ làm phải giỏi…”

 

Mổ bụng vậy mà cha …không được đánh thuốc mê hay sao mà cha một tấc đến trời :

 

Lưỡi dao họ lách vào đến đâu tai tao nghe rõ đến đó , nhưng chẳng đau đớn gì sốt. Để tôi lấy bà lão xem cái vật quý này – Cha chạy vào mở tráp cầm ra một cái gạc bông . Bà đã thấy chưa , lúc họ mới đưa tôi để làm kỷ niệm nó to bằng ngón tay cái sờ rắn như đá sỏi. Nó nằm trong bầu mật dễ đã hàng chục năm nay, cái cơn đau vừa rồi mà ở nhà quê chắc là chết….”

 

Rồi cha bầy tỏ tình cảm của mình với cái nhà thương mà Nhà nước đã cho cha nằm :

 

“ Một tháng ở đấy thanh nhàn vui sướng chẳng nói được, toại lòng phỉ chí đến không muốn ra về nữa…”

 

Đến cái cách cha ca ngợi “miếng ăn hàng ngày” mới thật thảm hại :

 

Cha cười ầm ầm :

 

“ Mình ăn suốt ngày, thật như con trẻ, bốn bữa, năm bữa, mỗi bữa ăn một vực cơm đầy. Bây giờ thì mình có thể sống thêm được vài chục năm nữa…”

 

Được chút “bổng lộc” Nhà nước, cha trở giọng chửi bới cha Lân Toà Giám mục vốn là người đang bị chính quyền nghi ngờ kích động giáo dân :

 

Tao cứ trông thấy thằng Lân ở đâu là chỉ muốn lánh mặt. Nó chỉ đem phiền muộn đến cho mình. Muốn an nhàn một chút cũng chẳng được. Cái thứ ấy chẳng liên quan gì tới tao, tao là đấng chăn chiên thì chỉ biết vâng theo lệnh bề trên thôi…”

 

Ngay với đức bề trên trực tiếp là cha Tuệ, giám quản địa phận Bái, cha cũng giở giọng bóng gió với ông Thường trực Uỷ ban xã :

 

Tao thấy ở đời này lắm người có đạo mà lại hay bỏ vạ cáo gian , đức hạnh nết na chả có, lòng đầy rẫy những sự ghen tuông, hờn giận , oán thù. Mặc áo thầy tu mà trong lòng thì dữ tợn quá con quỷ…”

 

Sau khi đặt vào miệng cha những lời bôi xấu cha bề trên , ông nhà văn lại biến cha thành kẻ “chỉ điểm”:

 

 “ Ông Tuệ có ý mời các cha trong địa phận về Bái họp, áng chừng muốn dùng số đông khiếu nại lên chính phủ…”

 

Và cha bầy tỏ lòng quy thuận :

 

Nhưng bây giờ thì tao mặc, tao cũng có nói với lão Lân rằng : ở Toà Giám đã có đức giám quản sáng suốt khôn cùng, đã có cha chánh xứ, cha cố vấn, hội đồng tư vấn gồm toàn những con người khôn ngoan rất mực thì còn cần gì đến những thằng già lẩm cẩm chỉ biết giảng kinh , giải tội cho con chiên, chỉ biết chú mục làm việc Chúa cho danh Cha cả sáng…”

 

Rồi cha nộp cho nhà cầm quyền thư của cha Giám quản gửi cho cha :

 

Trong cuộc giao tranh thiêng liêng để chiếm nước thiên đàng, đạo binh hùng dũng nhất là đạo binh cầm tràng hạt Mân Côi chứ không phải là khí giới cầm tay…”

 

Than ôi, chẳng lẽ mới chỉ được bố thí chút lộc chữa bệnh mà cha đã bán linh hồn ca ngợi kẻ cầm quyền và tố cáo người trong giáo hội sao ?

 

Quả thực, vạch trần “chân tướng” linh mục, giải “cây bút vàng” phải giành cho Nguyễn Khải trong Xung đột 2. 

 

Thế rồi cha mồi chài, làm sa đọa đến cả “đồng chí” Thuỵ, thường trực Uỷ ban :

 

“ Rồi cha móc túi lấy ra một cuộn bạc chẳng cần đếm là bao nhiêu đưa cho Thuỵ. Từ đấy Thuỵ là người cai quản hết thảy mọi việc…qua mỗi việc Thuỵ lại lên trình bẩm với cha và lần nào về cũng đưa cho vợ hàng gói bạc…”

 

Đáng lý chỉ cần một trăm thì cha lại vứt ra một trăm rưởi . Cái con số lẻ ấy mới đầu như chênh vênh nhưng dần dần nó đã tìm được chỗ đứng vững chắc…”.

 

Thế là từ đó mâm cơm nhà Thụy không chỉ là “rau muống luộc chấm nước cáy” nữa, “vợ Thuỵ đã phải lăn xuống bếp : hôm giết con gà, hôm đánh bát tiết canh vịt, rồi nào lòng xào, lòng nấu miến, khúc cá rán, khúc nẩu riêu, rau muống cũng phải xào đẫm mỡ…”

 

Đồng chí thường trực uỷ ban thay đổi hẳn, “ toàn một giọng hỉ hả, đài các, toàn những chuyện may sắm , lựa chọn cái này cái nọ, tính toán giá gỗ đóng giường, giá vải hoa làm màn che, cái phích đựng nước nóng, bộ ấm pha trà…”

 

Ôi lậy Chúa, cán bộ hư hỏng ? Đó là lỗi tự nhà thờ.


 

Hoá ra từ thời đó đã hiển hiện loại người mới xuất hiện sau cách mạng :“ cán bộ” . Tham lam vật chất, khăng khăng giữ ghế, sẵn sàng hạ độc thủ bất kỳ ai động chạm tới ghế của mình . Hình ảnh ông Thường trực uỷ ban xã đúng là chân dung tiền bối của quan chức các cấp thời bây giờ. Có điều , ông nhà văn chỉ dám dựng nhân vật đó như trường hợp cá biệt, “con sâu làm rầu nồi canh”, còn tuyệt đại đa số cán bộ ta vẫn chí công vô tư, hết lòng vì nước vì dân.Và tin tưởng sắt đá loại “cán bộ tiêu cực” như Thuỵ nhất định sẽ bị đào thải :

 

Hơn nửa năm nay …Thuỵ không còn được đảng viên trong chi bộ tín nhiệm nữa. Kỳ bầu ban chi uỷ vừa qua, Thuỵ chỉ được vỏn vẹn có hai phiếu, một lá của Môn và một nữa chắc do Thuỵ viết…”

 

Nhà văn tuyệt nhiên không dám thừa nhận loại cán bộ như Thuỵ mới chính là “nhân vật thời đại” . Nó như ký sinh trùng ngày càng sinh sôi nảy nở, hằng hà sa số, sống bám trên cơ thể dân tộc, đục khoét, ăn cắp từ tiền bạc, địa vị xã hội tới tài nguyên, môi trường, phá hoại những di sản quá khứ và làm băng hoại những giá trị tinh thần và đạo đức xã hội.

 

Sau khi cải cách ruộng đất phá tan đạo lý cổ truyền làng quê Việt Nam, vài năm sau Đảng lại rầm rộ phát động hợp tác hoá nông nghiệp chỉ hơn 20 năm sau đã phá huỷ gần hết năng lực canh tác trên ruộng đồng .

 

Tuy nhiên mãi tới năm 1986, tính chất phá hoại đã rõ rành rành, cái chết nó gây ra đã tới sau lưng, Đảng mới ngấm ngầm xoá bỏ nó bằng việc trả lại ruộng đất cho dân và giải tán các hợp tác xã nông nghiệp.

 

Sự sụp đổ của công cuộc hợp tác hoá nông nghiệp kéo theo cái chết hàng loạt tác phẩm lừng lẫy một thời : Cái sân gạch, Vụ lúa chiêm của Đào Vũ, Đất làng của Nguyễn thị Ngọc Tú và cả Xung đột ( tập 2) của Nguyễn Khải…. Bao nhiêu thành tích, bao nhiêu tính ưu việt , bao nhiêu đổi thay tích cực của bộ mặt nông thôn, bao nhiêu đổi đời sung sướng của người nông dân được các nhà văn tô vẽ, tâng bốc lên mây xanh bỗng chốc tan tành sương khói bới cái nghị quyết “ khoán sản phẩm” của Đảng - thực chất là sự cáo chung cho “ lề lối làm ăn tập thể”, cho “hợp tác xã nông nghiệp” mà suốt mấy chục năm các nhà văn của Đảng ra sức tô vẽ. 

 

Trong Xung đột – phần II, “vào ngày lễ mở đầu tháng đức Mẹ cũng là ngày thứ ba của cuộc “vận động hợp tác hoá” sôi nổi, rầm rộ suốt tám xóm trong xã. Mỗi xóm thành lập một ban vận động gồm những người trong ban quản trị hợp tác xã cũ, đội trưởng đội sản xuất và một vài người mới nữa. Tiếng trống , tiếng loa nổi lên từ lúc chuông nhất và chỉ tắt đi vào khoảng gần nửa đêm…”

 

Chống đối lại cuộc vận động đó, theo ông nhà văn, tất nhiên chỉ có…nhà thờ :

 

Tiếng loa của đức chúa Trời và lời giảng hùng hồn của cha Lân “ đối lập với “tiếng trống của người thế gian và lời lẽ vận động đầy sức thuyết phục của cán bộ xã “ làm cho “cuộc sống ở thôn Hỗ cứ náo động suốt đêm ngày. Không có tiếng súng nổ nhưng tâm trạng con người thì giống hệt như trong một trận chiến đấu. Cũng có những người kiên quyết và những kẻ dao động, tin tưởng và bi quan, phẫn nộ và bình tĩnh…”

 

Đó là cuộc chiến tranh được ông nhà văn “tô vẽ” giữa “nhà thờ” và chính quyền cộng sản đại diện là mấy ông cán bộ xã . “ Tiếng loa của đức chúa trời “ chẳng thấy đâu nhưng lời giảng được cho là của cha :

 

Hiện nay ma quỷ đang dùng thóc gạo làm chước độc để mê hoặc linh hồn các con. Song các con hãy nhớ lời Chúa đã từng phán tỏ tường rằng : bay lo ngày mai mà làm chi, đến ngày mai sẽ hay , bởi chưng sự khốn khó ngày nào đã đủ cho ngày ấy…”

 

không những chẳng lọt được vào tai giáo dân :

 

không nói đâu xa xem như vợ chống thằng Quảng kìa, chồng vay hợp tác được mấy chục cân thóc gánh về, vợ đã mặc áo ra nhà thờ thấy thóc cởi cả áo ra, chồng xay vợ sàng hì hụi từ chập tối đến nửa đêm, vừa làm vừa đùa bỡn nhau dễ còn vui hơn cả lễ Phục Sinh…”

 

mà còn bị bôi bác :

 

“Ấy vậy mà cha mới nói là ma quỷ dùng thóc gạo cám dỗ nên người thế gian mới bỏ cả đức tin, bỏ cả Chúa…”

 

Vậy là “cha” thua một cách dễ dàng, nông dân ào ào nộp đơn vào hợp tác xã . Ông nhà văn diễn tả một ông bố sai con viết đơn với nhiệt tình và lòng thành kính như viết đơn cho Chúa Giê xu xin lên …thiên đàng :

 

“ Vui, này lấy giấy bút ra đây tao muốn nhờ mày một việc…”

 

Cô con gái lấy tờ giấy mực lem luốc , lập tức bị ông bố mắng :

 

Mày coi khinh bố mày thế hả con , không nỡ cho bố một tờ giấy đẹp đẽ ư ? Đã dùng vào việc cao trọng thì chớ lấy những thứ dơ dáy. .”

 

Rồi ông quay sang vợ :

 

“ Cả đời chỉ có một lần. Bà hiểu cái việc tôi nói là việc gì rồi chứ ?”

 

và lệnh cho con :

 

“ Lấy vạt áo lau sạch cái ngòi bút đi thì nét nó mới thanh được. Bắt đầu như thế nào nhỉ ? Việt Nam dân chủ cộng hoà… năm thứ mười lắm…”

 

Trong thực tế, lùa được nông dân vào hợp tác xã là một việc phải thúc ép, cưỡng chế vậy mà ông nhà văn “tâng” lên thành một thứ ý nguyện thiết tha của dân làng . Ông còn “mượn mồm” một bà nhà quê để ca ngợi cái ưu việt của lề lối “ làm ăn tập thể” :

 

“ Như nhà tôi chỉ riêng khoán cày khoán bừa hai mẫu cũng mất đứt hai chục thóc rồi.Cái trò đem trâu cày ruộng nhà người đến mùa lấy thóc thì làm kỹ sao được…Còn vụ vừa rồi ai cày ai bừa mặc ai, chị em chúng tôi cứ ra công cấy, làm chung ăn chung, anh làm dối thì cái cót thóc của anh cũng ít…”

 

Ca ngợi “ làm chung ăn chung” như vậy, ông nhà văn đâu có biết cái kiểu “tập thể hoá “ đó khác gì “ cha chung không ai khóc” khiến đồng ruộng bỏ hoang, mùa màng thất bát khiến Đảng lại phải giải tán “làm chung” trả ruộng đất về cho ai nấy làm. Ngày đó chắc ông Nguyễn Khải chưa nhận ra hoặc nhận ra mà vẫn giả ngu, vẫn nhiệt tình ca ngợi cái lợi của hợp tác xã qua mắt bà nông dân :

 

Tôi chẳng gì cũng nhiều tuổi hơn các chị, cái khổ cái sướng đã trải qua, trước khi vào hợp tác xã tôi cũng tính toán chán, nếu không có lợi thì tôi vào đầu làm gì…Lạy Chúa, từ ngày biết làm ngươiø tới giò, chỉ có mỗi vụ chiêm vừa rồi vào hợp tác tôi mới nhàn nhàn cái thân chút ít…”

 

Tất nhiên vào hợp tác xã không chỉ đánh trống ghi tên, khối người lừng khừng , đắn đo để rồi :

 

Không vào cũng chẳng được, họ vác trống vác loa đến tận đầu nhà kể lể, than vãn nghe nẫu cả ruột chứ dễ được yên ư ? Hết tốp cán bộ này ra, lại đến tốp khác nối chân vào. Ngồi tiếp chuyện các ông ấy thì mất ngày mất buổi , lánh mặt lại sợ họ bảo mình có ý tứ gì…”

 

Vậy là cả làng cả tổng đều ‘tiến bộ”, đều thành xã viên hợp tác xã chỉ trừ ra có mỗi …ông linh mục, khiến bà con phàn nàn :

 

Ông Tam ạ, tôi xem ra các cha mà tiến bộ được như mình thật là khó. Mình theo chế độ mới nào có mất gì, chỉ được thôi, còn các ông ấy mà theo ta thì túi tiền vơi đi quá nửa…”

 

Thế rồi ông nhà văn lấy ‘dạ tiểu nhân đo lòng quân tử”, lấy cái “tâm lúc nào cũng lo ăn” để phân tích các cha tinh thần :

 

Tôi tính cho các ông các bà nghe nhá. Trước kia ở tổng này có ba chục thằng địa chủ , đứa nào hàng năm chẳng có mấy ngày giỗ kỵ cha mẹ , tổ tiên , lại sửa một mâm chén , tiền lễ đưa cha để cha cầu nguyện cho. Vậy là một món. Nhà nào có cha già mẹ héo cũng phải cố thu xếp mời bằng được cha đến làm phúc , cơm ăn rồi còn tiền đưa tận tay cho cha cầm về. Một năm một lần làm lễ kỳ hồn cho cả xứ, gia đình nào cũng phải đưa tiền , neo túng thì hai ba đồng , sang trọng thì từ một trăm trở lên. Ba món nhé !...Chả trách người ta đồn vàng ở Toà thánh còn nhiều hơn cả thế gian gộp lại…”

 

Nhìn nhận về thiên chúa giáo như vậy, quả thực ông nhà văn Nguyễn Khải xứng đáng là người…”duy vật”. Chỉ có điều tới ngày nay nếu có dịp đọc lại tác phẩm của mình, hẳn ông nhà văn phải cay đắng thừa nhận rằng cái “hợp tác xã nông nghiệp” mà ông hết lòng ca ngợi đã sụp đổ từ tám đời, nay chỉ còn là cái “bia miệng” cho thiên hạ chê cười , còn cái nhà thờ mà ông ra sức bôi bácvẫn cứ lừng lững mà xem ra mỗi ngày cái “sự đạo” lại thêm tưng bừng náo nhiệt.

 

Tuy thế đọc kỹ Xung đột cũng có thể lọc ra ít nhiều dấu ấn của cái thời đại “ hợp tác hoá nông nghiệp” kinh hoàng đó.

 

Vợ chồng nhà Lận trong làng có con trâu sẽ phải đưa vào hợp tác xã nhưng được hoá giá quá rẻ nên tự mổ thịt bán cho bà con trong xóm. Đó là tội ác tày đình, chỉ tiến hành lén lút ngoài bờ đê trong lúc Chủ tịch xã đi vắng. Trong số những người chạy ra đám mổ trâu mua về xâu thịt có ông Phó Chủ nhiệm Tam mà vì “đến mấy tháng nay mâm cơm không có được miếng thịt “ nên “đụng vài cân cho trẻ nó xởi lởi”.

 

Thịt trâu ăn vào bụng cả nhà rồi chẳng ngờ ông Môn, Chủ tịch xã đi họp về biết chuyện, mắng xa xả :

 

Con trâu khoẻ mạnh thế mà nỡ giật ngửa ra ở rìa đê mổ thịt. Thằng Minh gộc pha thịt, thằng Long chọc tiết. Phen này ông cho cả lũ đi tù, chúng nó định làm loạn à ?”

 

Ghê gớm chưa ? Người dân ăn có miếng thịt trâu của chính mình mà ông Chủ tịch xã đã doạ “cho cả lũ đi tù” thì hoá ra ở cái xã hội ưu việt này, con người ta lúc nào cũng sẵn sàng…đi tù. Riêng ông Phó Chủ nhiệm Tam, trót dại vì thương con cái thèm thịt mua về một xâu, ông vừa lo bị Chủ tịch xã dằn vặt, vừa lo “mất uy tín” “ hàng trăm cặp mắt chế giễu, căm giận, hàng nghìn lời nói đay nghiến, chì chiết sẽ bao vây lấy anh, tấn công anh và kẻ bị hành hình đã đành không thể sống nổi cũng không chết ngay được …”.

 

Ôi chao ôi, xã hội gì kỳ quặc, ăn có miếng thịt trâu mua bằng chính đồng tiền của mình mà ông Phó Chủ nhiệm Tam phải điêu đứng thế đến nỗi ông phải than trời :

 

” Ôi, tủi nhục quá, cay chua quá và dại dột không biết chừng nào…Đằng nào thì trong ngày hôm nay địa vị của anh cũng sẽ thay đổi . Anh sẽ được nghe những tiếng hò reo gian ác, khoái trá của Đoàn và đồng bọn :” Tưởng gì, hoá ra cũng là một anh đạo đức giả. “

 

Và Tam quay mặt đi khóc nức nở…”

 

Muốn khóc gì thì khóc, trót ăn miếng thịt trâu rồi, ông Phó Chủ nhiệm sẽ bị đưa ra đại hội xã viên xem xét và bị Chủ tịch xã Môn chửi xơi xơi vào mặt :

 

Anh không xứng đáng, anh phụ lòng tin cậy của tôi , của cả chi bộ . Thằng địch có đâm tôi một nhát dao vào giữa ngực cũng không đau đớn bằng cướp đi của tôi một người bạn.Thế là anh đã chết rồi, phải coi như là anh đã chết rồi. Biết vậy mà không sao cứu được nữa…”

 

Ôi chao ôi, từ cổ chí kim, trên khắp mặt địa cầu này, có lẽ chẳng ở đâu chỉ vì bỏ tiền túi ra mua một miếng thịt trâu bỏ miệng mà bị rủa xả nhục nhã, coi như đã chết rồi đến như vậy. Chỉ nguyên cái chuyện “thịt trâu mổ lậu” , Nguyễn Khải đã “vô tình” lột trần tính phi nhân trong quan hệ đồng chí . Bởi vậy không phải “thân yêu nhau chúng ta gọi đồng chí”, mà chính là trong hội nghị sắp sửa sát phạt nhau , hai chữ “đồng chí” mới được dùng để đưa nhau lên thớt .


 

Phó Chủ nhiệm ăn thịt trâu bị xử nặng thế, tất nhiên vợ chồng Lận , thủ phạm chính giết trâu của mình, tội còn lớn gấp bội.Từ sáng sớm còn nhọ mặt người, ông Chủ tịch xã Môn đã cho đánh trống họp ban quản trị và kế toán trưởng hợp tác xử vụ giết trâu. Vợ chồng Lận được kêu đến. Người đàn bà khốn khổ không dám đứng chỉ “lom khom nhìn ngó xung quanh rồi lại thụp xuống ngay” rồi thưa gửi :

 

“Thưa với chư ông trong nhà túng bấn quá nên tôi cũng có chót bán đi lấy ít tiền để trang trải công nợ ạ….”

 

“ Bà bán trâu, tậu nghé, mưu mẹo lắm …”

 

Và cuộc hỏi cung diễn ra với những câu hỏi như quan toà với tội phạm :”bán cho nhà ai ? ở đâu ? Trong việc bán trâu này ông bà có bàn tính với nhau không …?”

 

Hỏi xong vợ rồi hỏi đến chồng. Anh chồng bí quá đổ thừa cho vợ tự ý bán trâu làm bà vợ ông Chủ tịch xã phải nói chen :

 

“ Thế ra quyền bà ấy lại to hơn cả ông à ?”

 

Vậy là vợ ông Chủ tịch xã không chỉ “dắt mũi” chồng khi ở nhà mà còn ra cả “công đường” phụ với chồng xử tội người khác. Sau cùng ông Chủ tịch xã luận tội “bán trâu” :

“ Việc bán con trâu nhà ông , dù có vợ bán hay chồng bán cũng mặc, dứt khoát là phạm pháp. Tư pháp sẽ có trách nhiệm xét xử việc này…”

 

Và chẳng cần chờ “tư pháp” xét xử, ông Chủ tịch xã quyết định luôn :

 

“ Còn con nghé hiện nay ông mới mua uỷ ban sẽ quản lý…”

 

Gọi là “quản lý” nhưng thực chất Uỷ ban cướp trắng tài sản của dân đen khiến nó phẫn uất :

 

“Cứ việc. Chính quyền có tịch thu tôi cũng không dám kêu ca gì . Xưa nay bị cướp bóc đã nhiều chứ chẳng phải mới có lần này…Đ…mẹ cả đứa mua lẫn đứa bán đều là dại cả. Xin chào chư ông thôi ạ . Thế bao giờ ông Chủ tịch cho người sang dắt nghé tôi đây ?”

 

Một phiên “xử án” tịch thu tài sản của đương sự còn tệ hại hơn lý trưởng, chánh tổng ngày xưa trong đó “ phu nhân của quan lớn” cũng nhảy bổ vào kết án thằng dân.

Vậy là trong một xã mọi quyền sinh sát, mọi việc lớn nhỏ từ miếng ăn cho tới việc làm, mọi số phận người dân đều nằm trong tay duy nhất một người : ông Chủ tịch xã. Để thực thi cái trách nhiệm nặng nề ảnh hưởng trực tiếp tới số phận cả mấy ngàn con người , ông Chủ Chủ tịch xã Môn là người thế nào ?

 

Thật đáng lo ngại, ngoài lòng trung thành tuyệt đối với Đảng, nắm thật vững và thi hành mù quáng mọi chủ trương đường lối Nhà nước, ông Chủ tịch xã mù tịt kiến thức phổ thông khiến có lúc ông hỏi thật ẩm ương khi nghe nói về tên lửa Liên Xô phóng lên trời :

 

Tôi còn thắc mắc một điều là ví như cái tên lửa nếu nó bay được cao nữa thì có chạm phải nền trời không ?”

 

Khi được giải thích cặn kẽ, ông vẫn còn chưa thông :

 

Vậy cái tên lửa nó bay mãi như thế mà không vướng núi ư ? Đến một đoạn nào đó tất cũng phải rơi xuống chứ ?”

 

Nghe giải thích :” trái đất mình ở nó tròn như quả cam, quả bưởi lơ lơ lửng lửng giữa không gian chứ có bám víu vào đâu đâu. Còn tên lửa là bay vòng bên ngoài kia…”

 

Ông Chủ tịch xã vẫn chưa hiểu :

 

“ Rắc rối nhỉ. Mỗi tuổi mỗi nghe thêm nhiều chuyện lạ. Kể cũng hay…”

 

Hoá ra trình độ hiểu biết của ông Chủ tịch xã vẫn thuộc vào thời…ông Copernic phải lên giàn hoả vì dám nói “trái đất nó quay”. Trình độ như vậy các ông cán bộ cách mạng có thể quản lý và bóp nghẹt mọi hoạt động tâm linh của nhà thờ, có thể cướp ruộng, cướp nghé của người dân vô tội, có thể đưa ra Toà kết án kẻ làm thịt trâu của chính mình. Những việc đó họ làm thật xuất sắc vì chẳng cần dùng gì tới kiến thức phổ thông của nhân loại.

 

Tuy nhiên họ không thể làm cho cánh đồng tăng năng suất lúa, đàn gia súc tăng trưởng nhanh bởi lẽ họ mù tịt về khoa học kỹ thuật tiên tiến và hiện đại. Trong lúc thế giới đang phát triển như vũ bão về phát minh, phát kiến, về cuộc cách mạng xanh, thay vì mở toang cửa đón nhận mọi thành tựu nhằm nâng cao phúc lợi, cải thiện đời sống người dân, họ lại đóng cửa xua mọi người vào cuộc tranh giành, đấu tranh giai cấp gây nên những tổn hại không sao kể xiết. Sau khi giành chính quyền , họ giỏi chia chác “cái bánh” trong đó người cầm cày nhận phần tối thiểu khỏi chết đói chứ tuyệt nhiên họ không đủ đầu óc và nhiệt tình động viên tất cả mọi người làm cho miếng bánh ấy lớn thêm để phần bánh của mỗi người được to ra. Đó quả thực là thông điệp toát ra một cách khách quan, ngoài ý muốn của nhà văn Nguyễn Khải qua tiểu thuyết Xung đột.

Với bà con xã viên , chính quyền còn thắt buộc thế, vậy đối với “ nhà thờ”, tất nhiên phải coi như…kẻ thù dân tộc, luôn âm mưu phá hoại chính quyền. Ông Chủ tịch xã Môn, coi cha xứ Thuyết là “ tinh khôn quá kẻ cướp” và huỵch toẹt :

 

“ Tôi biết thừa mấy tay linh mục chỉ hay mè nheo với cấp tỉnh vì các ông ấy phải giữ đúng chính sách mà, còn ở xã ấy à, một phép…”

 

Ông Chủ tịch xã vô tình đã lật tẩy cái “tự do tín ngưỡng “ của Nhà nước – chỉ cần tỏ vẻ “tôn trọng” tôn giáo ở cấp tỉnh thôi, còn dưới cấp xã tha hồ chèn ép. Chính vì thế gã mới khoe khoang :

 

“ Ngay như tay Vinh tự xưng là thánh Tô-ma thời nay vậy mà mỗi lần gọi ra uỷ ban mặt cắt không còn hột máu …”

 

Chính phủ trung ương chỉ đạo chính quyền cấp xã thế nào mà các linh mục mỗi lần bị gọi ra Uỷ ban đều phải run sợ thế ? Một tay chót bét trong bộ máy chính quyền cũng có thể mắng sa sả vào mặt các nhà tu hành về chuyện chủng viện đào tạo thầy dòng :

 

Tôi có lần đã nói thẳng với ông Thuyết ở đây : các ông đừng có lập lờ, chỉ bịp được các con chiên ngu dốt chứ cán bộ chúng tôi thì nhìn thấy tận cuống ruột các ông , chủng viện gì, trường đào tạo gián điệp đấy thôi…” 

Tất nhiên cấp trên phải gỉ tai thế nào gã cán bộ cấp xã mới dám “công xúc tu sĩ” ngay giữa công đường :

 

Trường gián điệp ( tức chủng viện) ngay giữa miền Bắc này , chẳng những không ai dám đả động đến nó mà còn phải cấp cả gạo ăn, than đốt , giấy bút học, thỉnh thoảng lại còn văn công, xi nê để giải trí nữa…”

 

Nếu ‘chủng viện” đúng vậy thì chắc chắn đó là “trường quốc doanh đào tạo cán bộ tôn giáo vận” đội lốt chủng viện. Chắc ông Chủ tịch xã “ ngây thơ” không hiểu được điều cơ mật đó, nên cứ ra rả mắng mỏ học sinh chủng viện :

 

Mấy đứa người xã này đi học ở Bái tôi biết., khi đi chúng nó nết na, hiền lành thế , học được một hai năm về thăm nhà mặt mũi đã nhâng nháo như kẻ cướp , ăn nói hỗn xược, toàn xui gia đình phá chính sách, có đứa mang cả tài liệu chống cộng về phân phát trong xóm…”

 

Sự thực trong lòng xã hội miền Bắc những năm 1960 không khí khủng bố khét lẹt, làm gì có chuyện mấy đứa học sinh dám mang “tài liệu chống cộng về phân phát trong xóm”. Trong thời kỳ này, một anh cán bộ Đài Tiếng nói Việt Nam , nhà thơ Tuân Nguyễn chỉ đùa hai câu thơ vui :

 

“Tiến lên ta quyết tiến lên

Tiến lên ta gọi cấp trên bằng…thằng”

 

Chỉ mới “đùa chút ” thôi đã phải đi cải tạo , huống hồ “phân phát tài liệu chống cộng trong xóm” thì tội đáng…lăng trì, xử trảm, ai dám to gan thế ? Xem vậy đủ biết Chủ tịch xã Môn vu cáo nhà thờ trắng trợn đến đâu. Gã còn quy kết :

 

“ Mình là hàng cha chú chúng nó, có đến chơi thì giương mắt đứng nhìn, hằn thù cán bộ còn hơn cả quân Pháp ngày xưa. Mới mười bốn mười lăm tuổi đã thành phản động con cả , nữa là để chúng nó dạy dỗ nhau năm mười năm nữa…”

 

Một ông cán bộ mặt trận tỉnh tên Mẫn được phái về tăng cường cho xã lẽ ra phải uốn nắn Chủ tịch xã thái độ ứng phó với nhà thờ sao cho kín đáo uyển chuyển hơn , đằng này lại phụ hoạ , hung hăng không kém trong thù ghét nhà thờ . Ông cán bộ tỉnh nhận xét các linh mục thật coi người bằng nửa con mắt :

 

Bọn ấy tuy chẳng tài ba gì, trước sau vẫn một ngón võ nấp sau lưng con chiên thôi, nhưng đừng tưởng họ ít thủ đoạn đâu nhé. Đức Giám quản vừa cho cánh mình một vố khá ngọt đây…”

 

Tưởng “vố” gì ghê gớm, hoá ra chỉ là lời đùa bỡn của linh mục Tuệ với cán bộ Mẫn :

 

Tôi sinh đúng vào năm cách mạng tháng Mười , đến cách mạng tháng Tám thì được truyền chức linh mục , hoà bình lập lại làm Giám quản địa phận. Đời tôi thế là dính liền với cách mạng đấy nhé…”

 

Cán bộ rủa xả, nhục mạ linh mục thì không sao, ngược lại linh mục chỉ nói giỡn vài câu với cán bộ đã bị coi là … khiêu khích cách mạng.

 

Thực ra cái số cán bộ thù ghét nhà thờ “ghi xương khắc cốt” kiểu như Chủ tịch xã Môn với cán bộ Mặt trận Mẫn là không nhiều ; bởi lẽ chính họ cũng từ giáo dân mà ra, vợ con, bố mẹ họ vẫn là những con chiên ngoan đạo, hà cớ gì họ phải “báng bổ” nhà thờ đến vậy ? Trong khi đó họ vẫn được Đảng và Nhà nước nhắc nhở về “tôn giáo vận”, vẫn được dặn dò cần phải có sách lược mềm dẻo, linh hoạt “tỏ rõ” chính sách tự do tín ngưỡng của Đảng chính phủ kia mà ?

 

Ông nhà văn Nguyễn Khải “vẽ rắn thêm chân”,phóng đại lòng “căm ghét nhà thờ” trong giới cán bộ xã và tỉnh liệu có phải để chính ông bày tỏ sự dứt khoát từ bỏ gốc gác thầy dòng của ông, từ bỏ theo kiểu chặt cầu và không khoan nhượng để được Đảng tin cậy. Quả thực có lớn tiếng mượn mồm người khác mạt sát nhà thờ, ông nhà văn mới tỏ rõ được lập trường giác ngộ giai cấp, giác ngộ Đảng quyết liệt, từ trong tim, trong máu chứ không phải chỉ là ở đầu môi chót lưỡi.

 

Lập trường này càng củng cố khi sau 1975 Nguyễn Khải gặp lại gia đình đã di cư vào Nam, ông vẫn quyết liệt lên án họ trong “ Gặp gỡ cuối năm” làm yên lòng Đảng . Bởi vậy trong thời kỳ văn nghệ sĩ miền Bắc bị khủng bố gắt gao nhất , Nguyễn Khải vẫn luôn luôn là đứa con cưng được Đảng bao bọc và ấp ủ trong vòng tay của “văn nghệ quân đội”. 

Công lớn của Nguyên Khải trong “Xung đột” không chỉ hạ uy tín nhà thờ mà còn tô vẽ hợp tác xã thành bộ mặt thật tốt đẹp chứng minh chủ trương tập thể hoá nông nghiệp của Đảng là cực kỳ ưu việt và sáng suốt. Cái sự “tô vẽ” ấy đôi khi quá đà khi ông “bịa” lời một anh nông dân tên Điệp bênh che cho việc Nhà nước cướp ruộng, cướp trâu của nông dân :

 

Sống ở xã này mỗi năm một thấy khác. Có hai bác tôi xin nói thật, nhân dân ở đây họ có tin ở chính phủ lắm mới trao ruộng, trao trâu cho hợp tác xã, cơ nghiệp hàng mấy đời người chứ đâu phải chuyện bỡn…”

 

Rồi cũng chính anh nông dân này “ca ngợi” Nhà nước đã ‘cướp thóc của dân” :

 

Cứ lấy việc thu thóc nghĩa thương vụ mùa năm ngoái mà suy thì ai cũng phải phục cái sáng suốt của huyện của tỉnh. Ngày ấy không kiên quyết thu thì bây giờ lấy đâu ra thóc cứu đói…”

 

Hoá ra “thuế nghĩa thương” là thuế thóc dự trữ để khi nào có thiên tai đói kém thì Nhà nước khỏi phải lấy quỹ thóc quốc gia ra cứu . Thật là một sắc thuế độc nhất vô nhị trên thế giới . Mượn mồm anh nông dân, ông nhà văn tiếp tục ‘tô vẽ” :

 

Năm Ất Dậu ngoài chợ Hỗ thóc bán có năm đồng một thùng mà người chết đầy đường, năm nay thóc bán tám chín đồng, mười đồng cũng là , vậy mà không nhà nào đến nỗi phải nhịn cơm hai bữa…”

 

So sánh giá thóc năm 1945 theo tiền Đông Dương với giá thóc năm 1960 ông nhà văn quên bẵng mất là lúc này cách mạng đã có Ngân hàng Nhà nước làm gì ra tiền Đông Dương như hồi Pháp thuộc ? Và rồi ông xuýt xoa :

 

“(thóc cao vậy mà…) vẫn họp hành , vẫn sản xuất , con gà con vịt , buồng chối lá rau tịnh không một ai lấm lét , tơ hào. Thời Nghiêu Thuấn cũng đến vậy chứ gì ?”

 

Ôi trời ôi, cái thời “ mỗi người làm việc bằng hai, để cho chủ nhiệm mua đài mua xe” mà ông nhà văn coi là ‘thời Nghiêu Thuấn” thì nghề “bốc thơm”, “bồi bút” phải lấy ông này …tiên sư..


 

Chẳng riêng nông dân, bản tính con người là “tư hữu” . Tiến hành hợp tác hoá nông nghiệp, thu gom ruộng đất, trâu bò, nông cụ vào hợp tác xã thực chất là cưỡng chế . Người nông dân vì áp lực chính trị, đành phải ngậm đắng nuốt cay giao sản nghiệp cho hợp tác xã .

 

Đó là sự thực hiển nhiên không ai không biết.

 

Ấy thế mà ông nhà văn Nguyễn Khải tô vẽ cho sự giao nộp ấy như một tự nguyện “cao đẹp”, như ý nguyện thiêng liêng của người nông dân đối với cuộc vận động của Đảng .

 

Ông Điệp được vào hợp tác xã, làm ngay một mâm cơm gà, cá kho mời bằng được cán bộ xã tới ăn mừng :

 

“ Hôm qua chúng tôi vừa tổ chức liên hoan vào hợp tác xã, hôm nay làm bữa cơm nhạt mời hai bác sang uống chén rượu gọi là mừng cho anh em chúng tôi đi theo con đường xã hội chủ nghĩa…”

 

Không hiểu ngày nay, đọc lại câu “đi theo con đường xã hội chủ nghĩa” đã ấn vào mồm anh nhà quê, ông nhà văn Nguyễn Khải có thấy “hài hước” chăng ? Hẳn ngày nay ông đã nhận ra “con đường xã hội chủ nghĩa “ ấy càng đi càng mù mịt , càng phá tanh bành cái hợp tác xã mà Đảng và Nhà nước tốn công xây dựng.

 

Mặc dầu Đảng và Nhà nước đã dùng cả một bộ máy toàn trị để bao vây, cưỡng bách nhưng công cuộc hợp tác hoá nông nghiệp không phải là không vấp phải sự chống đối của nông dân. Những phản ứng của nông dân như giết trâu bò, phá huỷ nông cụ, chây lì không chịu ký đơn…chắc chắn phải nổ ra. Tuy nhiên tất cả những chuyện đó bị bịt đi , ngược lại việc cưỡng chế nông dân vào hợp tác xã được cả một bộ máy tuyên truyền báo chí của Đảng tô vẽ như một cuộc đổi đời tự nguyện của người nông dân.

 

Nguyễn Khải cũng không đứng ngoài được “sự nghiệp tuyên truyền vận động hợp tác hoá” đó. Chẳng những ông không dám đi sâu vào khai thác và phản ánh cuộc đấu tranh ngấm ngầm cũng như ra mặt của nông dân chống lại việc cưỡng bức vào hợp tác, ngược lại ông còn tô vẽ nó đúng như một cán bộ tuyên truyền. Chính vì thế cái phần “xung đột” giữa Đảng và nông dân trong tiểu thuyết “Xung đột” rất mờ nhạt. Chỉ có mỗi vụ Quảng “giả chết” ở đầu truyện để vu vạ cán bộ xem ra còn có vẻ gay gắt còn sau đó chỉ thấy toàn thấy nông dân “ơn Đảng, ơn chính phủ” được vào hợp tác hoá để đổi đời. Phản ánh hiện thực nông thôn thời kỳ này, Nguyễn Khải đã thực hiện đúng theo lý luận kinh điển của Đảng :” mâu thuẫn trong nhân dân “ là mâu thuẫn “nội bộ ”, mâu thuẫn “thống nhất”, mâu thuẫn để ..cùng đi lên.

 

Trong lúc cố xoá mờ , giảm nhẹ xung đột giữa dân và Đảng, Nguyễn Khải lại tô đậm mối xung đột giữa “nhà thờ ” với chính quyền vừa dễ viết cho sinh động vừa đúng đường lối của Đảng coi đó là mâu thuẫn đối kháng, mâu thuẫn “địch - ta”. Bởi thế, phần lớn “Xung đột” phần II xoay quanh chuyện Nhà nước o ép nhà thờ. “Gậy ông lại đập lưng ông”, ngày nay chính những điều Nguyễn Khải mô tả trong tiểu thuyết vô tình đã lột trần cái “tự do tín ngưỡng” , cái “tốt đạo đẹp đời” xưa nay vẫn tuyên truyền. 

 

Một trong những mẹo chống nhà thờ của nhà văn Nguyễn Khải là bịa ra những bi kịch cá nhân do nhà thờ gây ra. Cô Huệ , con gái ông Bốn sau 10 năm đi tu đã tố cáo tội ác của nhà thờ với bố đẻ :

 

Bố ơi, khi con ở nhà đức tin con mạnh, con vào ở đây đức tin con chẳng còn nữa , tất cả mọi người lừa dối con. Bà Nhất thì cay nghiệt hơn dì ghẻ, đuối tay đuối sức một chút là bị phạt rồi. Mỗi lần con nằm chực ở ngưỡng cửa cho bạn bè bước qua , cúi mặt xuống hôn đất để tạ lỗi, con lại nhớ đến ngày ở nhà được bố mẹ nuông chiều. Sao con lại tự đưa mình vào chốn khổ , khổ mà chẳng được ơn ích gì . Họ mặc áo bà dòng khấn khứa từ sáng đến tối mà vẫn tằng tịu với người khác giới, có người uống thuốc thôi thai, có người đi đẻ giấu , có người còn đang tay bóp chết con nhỏ. Mẹ Nhất cũng có nhân tình. Con chẳng tin vào ai cả Con chẳng tin có cái gì khác ngoài những điều mắt con trông thấy, đời con thế là hết rồi…”

 

Chỉ một năm sau gặp bố, nữ tu Huệ chết trong một cơn “giãy giụa đau đớn”. Một nơi địa ngục trần gian, đầy xấu xa và tội lỗi như vậy mà lại là một nhà nữ tu thì quả thực liệu người ta có thể tin vào sự trung thực của ông Nguyễn Khải chăng ? Điều đó hoàn toàn có thể kiểm chứng được bởi lẽ nơi cô nữ tu bị đầy đoạ trong suốt hơn mười năm trời là một địa chỉ cụ thể, theo như tác giả là thôn Bái thuộc Bùi Chu. Nếu cuộc điều tra chính thức được mở ra , ông nhà văn rất có thể ra Toà về tội vu cáo.

 

Sau nữ tu, đến lượt các đấng chăn chiên bị ‘bôi bác”. Trước hết ông nhà văn giễu Toà thánh :

 

“ Người ở thôn Hỗ vẫn coi cái địa phương xa lắc ấy còn ruột thịt hơn cả quê hương mình, còn thiêng liêng hơn chính linh hồn mình và ràng buộc mình bằng trăm ngàn sợi dây bền chắc”

 

Thậm chí ông nhà văn còn giở giọng xỏ xiên :

 

Hầu như đức Giám ở Bái kêu khát , con chiên ở Hỗ đã thấy cổ mình se lại; đức Giám mục đi vấp, con chiên ở đây đã thấy đầu ngón chân mình rớm máu; đức Giám mục se mình người ta đã đồn đại nhau với nét mặt lo âu.Ngay đến những quyết định hệ trọng nhất của đời người như nên sống thế nào, nên đi theo đường nào , họ cũng tuỳ thuộc vào cái đầu đội mũ hàm ếch lắc hoặc gật.Hình như cái gậy vàng của Giám mục đối với xứ Hỗ còn có hiệu lực sai khiến hơn cả chính con chiên ở Bái. “

 

 Và rồi “chân dung biếm hoạ” của Đức Giám mục được ông nhà văn vẽ vời :

 

“Người xứ Hỗ chỉ được nom dung nhan đức Giám khi người xuất hiện ở bàn độc, trịnh trọng trong bộ áo lễ rực rỡ, chỉ được nghe lời nói dịu ngọt và đầy sức quyến rũ của người qua những bức thư luân lưu, còn ở Bái thì người ta lại kháo nhau về những tính tình quá trần tục của từng cha một . Rằng cha giám quản thích ăn trứng trụng xôi, mỗi sáng có thể mút hàng chục quả với muối. Rằng không những đức Cha chỉ biết đưa bàn tay cao quý cho kẻ khác hôn vào mặt nhẫn, mà cũng những ngón tay nuột nà ấy còn biết xấp nước bọt đếm tiền nhanh như nhân viên ngân hàng…”

 

Quả thực thật khó hiểu vì sao nhà văn Nguyễn Khải lại “ngậm một khối hờn căm” đối với Thiên chúa giáo đến vậy. Một nơi của nhà thờ làm ông nhà văn “ngứa mắt” không thua gì Toà Giám mục chính là chủng viện :

 

“ Ở cái trường đạo nổi tiếng ấy anh sẽ được thăm những dẫy nhà ăn hôi mốc, tanh tưởi như mùi chiếc đũa tre lâu ngày không rửa, những đứa bé đứng ngồi, ăn húp, cười đùa gõ bát gõ đũa như những kẻ mất dậy…”

 

Than ôi, chủng viện là nơi nhà thờ đào tạo tu sĩ đâu đến nỗi như trại tạm giam trẻ móc túi ở Chí Hoà vậy? Và đây là nhà ngủ của các học sinh chủng viện :

 

 “ Những dẫy nhà ngủ chiếu cuộn lại từng đống trên giường, dưới đất, hoặc nửa ở trên giường, nửa ở dưới đất, những cái gối gỗ bong sơn , những chiếc thập giá nằm dài ở đầu giường mệt mỏi…”

 

Giường chiếu đã thế, sách vở còn tệ hơn :

 

“… những kinh sách do chính toà giám biên soạn truyền bá đạo lý của nhà Chúa và những sự vô luân của quân cộng sản, những truyện trinh thám, kiếm hiệp, ái tình từ cái đời thủa nào vẫn được lưu lại…:”

 

Đi sâu vào chủng viện còn kinh hãi hơn :

 

“ Sau những dãy nhà lắm ngách lắm cửa tối hun hút và bí hiểm kia, còn những lớp nhà phía sau nữa , những lớp nhà dài dằng dặc và trống rỗng đặc biệt vẫn có cái mùi hôi mốc quen thuộc, thứ mùi của sự ngưng trệ, lười biếng. Ở tận một xó, một xó bị bỏ quên trong vùng tối bùng nhùng ngay giữa cả lúc trời nắng vang lên những tiếng cười lạc lõng : hai ông bõ già đang ngồi ăn cơm , một người to béo mặt mùi sần sùi vừa câm vừa điếc lúc nào cũng nhìn người khác với nụ cười khó hiểu và một người tay bưng bát cơm cứ run rẩy như trong cơn sốt , vừa ăn vừa ho vung vãi…”

 

Người của chủng viện đã tật nguyền và tâm thần vậy, đến con chó của chủng viện cũng không ra hồn…con chó :

 

 “ Dưới chân họ một con chó đen đã gần trụi hết lông, trơ ra những đám thịt héo hon đen tím , mắt đầy nhử , quanh ra quanh vào chậm chạp, thấy người lạ nó cũng chỉ đưa được đôi mắt kèm nhèm như van vỉ nhìn lên một thoáng rồi lại cúi xuống tha thẩn như cũ, đụng đầu vào cột, vào bậu cửa như một người đã lẫn cẫn…”

 

Con chó chủng viện đã như chó hoang vậy, tu sĩ trong chủng viện cũng chẳng hơn gì những kẻ tâm thần :

 

“ Nhưng đêm đến , cái xác chết tưởng như sắp thối rữa kia khi đã ngửi thấy mùi ẩm ướt của bóng đêm lập tức hồi sinh lại một cách nhanh chóng. Những khung cửa tối om bỗng đỏ rực lên như hàng trăm con mắt lóng lánh. Ở nhà họp công cộng trên tầng gác, bàn ghế đã được kê lại ngay ngắn, học sinh ngồi nghiêm chỉnh trên các ghế. Và cái anh tu sĩ tầm thường của ban ngày, cái anh gầy gò, nhai trầu bỏm bẻm lúc nào cũng có cái điệu bộ ngớ ngẩn , ngu dại nói lắp bắp, dưới ánh đèn của ban đêm đã thay đổi hình dạng. Anh ta nhìn từng dãy ghế xoi mói, thuật lại một cách hoạt bát những việc xảy ra trong ngày…”

 

Thầy đã thế còn trò cũng xấu xa không kém :

 

“ Quả thực cái bọn học trò đã trở thành một lũ lưu manh ấy không thích về với bố mẹ chúng thật. Bây giờ học làm thầy chúng cũng không thích, học văn hoá lại càng đáng chán hơn. Phải học , dù học gì cũng là gò bó, trói buộc rồi. Chúng chỉ ao ước cái thời kỳ giằng co với cộng sản sẽ kéo dài nữa. Chỉ mong được sống mãi mãi như thế này : ăn thoả thích, chơi bời thoả thích, nói năng bậy bạ, tục tĩu thoả thích và đêm đêm lại tập hợp nhau làm những chuyện ly kỳ…”

 

Than ôi, trường đào tạo linh mục của nhà thờ sao tăm tối, bệ rạc và chủng sinh thì lưu manh quá vậy ? Cái nhà trường của giáo xứ Nguyễn Khải mô tả “dơ dáy, xấu xa và vô tích sự” đến thế mà vẫn lo lắng nó “đào tạo gián điệp, phản động” nên Nhà nước vẫn cứ khăng khăng giải tán nó.

 

Trước hết “ uỷ ban triệu tập những gia đình trong xã có con đi học ở chủng viện Bái đến thảo luận và thi hành quyết định của tỉnh.” Cứ căn cứ chính sách tín ngưỡng của Đảng thì việc giáo dân cho con em đi học chủng viện là chuyện bình thường, vậy mà khi bị triệu tập, họ vẫn phải tới trong tâm trạng lo sợ.

 

“ Thời gian chờ đợi cũng lâu, những người đến trước không trò chuyện, đùa bỡn như ở các cuộc họp khác . Họ chỉ lặng lẽ nhìn nhau như những kẻ mất hồn, làm ra vẻ đờ đẫn, ngây dại….Người ta dò hỏi nhau bằng con mắt, nghe ngóng một cách lo âu những việc sẽ xảy ra và dành sự suy nghĩ cho những mưu mô sắp đem đối phó…”


 

Thực ra, Nguyễn Khải ngoài ý muốn đã mô tả chính xác tâm trạng người dân khi phải ghé “cửa quyền” theo giấy triệu tập. Họ lo lắng, khép nép, rúm vào nhau chứ làm gì có hồ hởi, phấn khởi vẫn tuyên truyền :

 

“ Môn – Chủ tịch xã mở đầu, nét mặt đã cau có :

 

“Chúng tôi đã cử người đi mời từ chiều hôm qua, vậy mà chỉ có – Môn ngừng lại đưa mắt đếm một lượt – hơn 10 gia đình…Sao các bà lại ngồi túm vào một góc thế ? Ghế đây !Rộng rãi bao nhiêu. Đã đi họp thì phải ngồi cho đàng hoàng thì nghe mới lọt vào tai chứ . Nào, mời các bà ngồi dịch lại đằng này…”

 

Vậy là giữa dân và chính quyền đã ngăn cách, một đằng cố tránh ra xa, một đằng cố kéo lại không phải vì thông cảm mà để “ làm việc” . Thấy dân tránh xa mình như tránh dịch, Chủ tịch xã càng nóng :

 

“ Các bà cứ đi nghe những chuyện nhảm nhí đâu đâu rồi lại thắc mắc với chính phủ, với Uỷ ban. Uỷ ban cho người đến tận nhà mời lại nói chuyện thì viện cớ từ chối. Chính quyền là công bộc của nhân dân, nhưng nhân dân cũng phải biết vâng lời chính quyền chứ. …”

 

Đảng vẫn luôn nhắc nhở cán bộ “là đầy tớ của dân”, “ vì nhân dân phục vụ”, thực chất “đầy tớ” luôn coi “ông chủ” như kẻ thù… thành thực. Bởi thế câu trước câu sau, Chủ tịch xã thò ngay bộ mặt trấn áp ra :

 

“ Được, những gia đình nào không cử người đến chúng tôi sẽ có cách , phải cảnh cáo. Trên không ra trên, dưới không ra dưới thì còn thành thể thống gì nữa. Dân chủ nhưng phải có kỷ luật…:”

 

“ Dân chủ nhưng phải có kỷ luật” – dân chủ tập trung, dân chủ xã hội chủ nghĩa, dân chủ hơn cả … Mỹ bao năm nay Đảng đã “ban”cho dân. Sau cùng, ông Mẫn , cán bộ trên huyện cử xuống cũng huỵch toẹt :

 

Trong khi nhà trường chuẩn bị một chương trình dậy văn hoá đầy đủ thì phải giải tán số học sinh hiện nay. “

 

Và ra lệnh cho phụ huynh học sinh :

 

“ Vậy như ở xã ta đây, các ông các bà đã cho gọi các em dưới ấy về chưa ? Chẳng lẽ cứ để chúng nó chơi bời dông dài mãi. Về nhà học thêm được ngày nào lợi ngày ấy. “

 

Vậy đã rõ, khi chưa dám công khai giải tán chủng viện thì chơi trò lén lút áp lực với dân rút con em về không cho học nữa. Ông ta còn giở giọng đểu :

 

“ Chúa gọi thì nhiều Chúa chọn có mấy, trăm người may đỗ cụ được vài người…”

 

Một bà là phụ huynh của học sinh chủng viện nghe ngứa tai quá, phản ứng :

 

“ Thưa với chư ông, cho con đi tu cũng chẳng mong gì con đỗ cụ để làm bà cố đâu ạ. Số mệnh nó đã do Chúa định thì giao phó cho nhà Chúa. Chúng tôi là kẻ làm cha mẹ chẳng dám ân hận điều gì…”.

 

Tuy nhiên chuyện “giao con cho Chúa” với ông cán bộ huyện là chuyện tầm phào, bởi vậy lại đe dọa :

 

“ Các bà tưởng cái trường ấy chỉ có đào tạo người đi truyền giáo hẳn. Học đạo một phần, học làm kẻ thù của cách mạng chín phần… Thử hỏi những đứa do công an tóm được đi kẻ khẩu hiệu , dán truyền đơn chống cộng là ai, toàn học sinh chủng viện cả .”

 

Đến lượt Chủ tịch xã giở giọng xuyên tạc:

 

“ Khi đi chúng là người tử tế lúc về hoá ra thằng ma cà bông. Các bà có muốn có con các bà đi một bước công an phải theo dõi một bước không ?”

 

Con run xéo lắm cũng quằn , nghe cán bộ mạt sát con cái , một bà gầy gò, vấn khăn trắng lên tiếng :

 

“ Ông nói như thế chúng tôi không được đồng ý. Lúc nó ở nhà có một, đi học về lại gấp năm gấp mười, hẳn hoi , tử tế. Thực thà là không thấy nó ăn nói cấc lấc điều gì, bố mẹ cũng phải nể con chứ không nói khác…”

 

Nói vậy khác nào vả vào miệng cán bộ . Còn chút liêm sỉ, hẳn ông sẽ xấu hổ vì sự vu cáo của mình bị lật tẩy. Đằng này đuối lý, ông Chủ tịch giở giọng “chính quyền” với người cả gan cãi hắn :

 

“ Bà Đỗ có định gọi cháu nó về nhà không ? Niên học mới thì chưa đến, nhà trường chưa khai giảng vậy còn để con nó ở đấy làm gì ?”

 

Đứng trước cường quyền, người đàn bà vẫn không chịu khuất phục nhưng đành phải mềm dẻo :

 

Thưa với ông, cháu đã nhất quyết đi tu, không gánh vác phần đời , không màng chuyện thế gian, là tự do tín ngưỡng của nó, tôi nào nỡ gọi nó về, phải tội chết…”

 

Nghe mấy chữ “tự do tín ngưỡng”, ông Chủ tịch giật mình vì nó nằm trong “chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước”, vội nhẹ giọng:

 

“ Bà có chắc rằng cậu ấy chỉ đi tu chứ không làm việc gì khác ?”

 

Hắn hỏi một câu rất khôn, gạt ngay chuyện “tự do tín ngưỡng “ chuyển ngay sang chuyện “truy tìm phản động”. Hắn cười gằn, giở giọng đe doạ:

 

“ Bà có biết những người có trách nhiệm ở đây đã dùng con bà vào việc gì không ? làm liên lạc đưa tài liệu tin tức chống cộng đấy. Vụ hè vừa rồi con bà về mang cả một bản kinh “ cầu cho giáo hội im lặng” đút vào trong giầy ống. Nó mới mười lăm tuổi đầu, còn ngây thơ lắm. Chớ để nó đi sâu vào con đường lầm lạc rồi sau này nó oán trách bố mẹ đấy…”

 

Thấy chính quyền chụp cho con tội “phản động” tầy trời, bà mẹ hoảng sợ không còn dám cãi nhau tay đôi với ông Chủ tịch xã nữa, “đành chỉ thở dài uất ức rồi lại ngồi nén mình như cũ. Ông Chủ tịch ép đến tận cùng :

 

“ Nếu các bà không đi được thì cứ viết thư cho các cháu, uỷ ban chúng tôi sẽ cử cán bộ đi đón về…”

 

Đây là một “mẹo” cao cường , một khi nắm được những lá thư gọi con về của bố mẹ, Uỷ ban sẽ có cớ dẹp bỏ trường chủng viện một cách êm thấm mà không phạm chính sách “tự do tín ngưỡng “ cả Đảng. Chắc hiểu rõ dã tâm đó, người mẹ chối phắt :

 

“ Dạ không dám ạ, cháu nó bé còn phải mang xống áo cho cháu …thật tình không dám phiền đến Uỷ ban…sợ cháu nó không chịu về lại thêm mất thời gian ”

 

Vậy nhưng ông Chủ tịch vẫn dai như đỉa, giở giọng nhân nghĩa :

 

“ Uỷ ban chịu phiền cũng được , miễn là phục vụ được nhân dân…Mất đến nửa tháng cũng chẳng sao. Nếu bà đồng ý mai chúng tôi sẽ cho người đi…”

 

Nhưng người dân đời nào chịu “gửi trứng cho ác”, giao con cho uỷ ban với du kích, người mẹ bị dồn vào chân tường, sau cùng cũng đành phải chống lệnh chính quyền :

 

“ Thưa với các ông, tôi xin thưa thực là tôi không có quyền phép gì gọi cháu nó về. Trước đây nó là con tôi đẻ ra, nhưng bây giờ thì nó là quân lính nhà Chúa. Nếu nhà có ơn phúc thì nó cứ đàng ngay lối thẳng mà đi, nhược bằng phận mỏng đức bạc , làm chuyện bậy bạ thì chính phủ cứ việc bắt bớ bỏ tù, vợ chồng tôi không dám thắc mắc…”

 

Giở giọng“chính quyền” ra lệnh, vu cáo, doạ nạt không xong, ông Chủ tịch thay đổi chiến thuật, giở giọng mẹ mìn, “đồng chủng đồng bào” lay chuyển bà con :

 

“ Tôi với các bà tuy không cùng máu mủ, ruột thịt nhưng dù sao vẫn là người làng…Bây giờ các bà chỉ nhìn tôi là anh chủ tịch hay gây gổ , cái thằng khô đạo nhưng một ngày kia nếu tôi và các bà gặp nhau ở một nơi nào thật xa, như trong Nam chẳng hạn thì chắc là lúc ấy chẳng ai còn nghĩ đến những điều nghi kỵ bực dọc ngày hôm nay mà chỉ thấy quý mến nhau, tin cậy nhau vì là người làng, cùng quê…”

 

Không đầy hai chục năm sau, câu nói trên đã được “chứng nghiệm” khi những ông Chủ tịch kiểu như Môn theo chân “giải phóng miền Nam” vào làm quân quản ở những xã công giáo như huyện Thống Nhất Đồng Nai, khiến người dân “quý mến, tin cậy” đến mức phải…bỏ phiếu bằng “đôi chân”.

 

Ông Chủ tịch lại tiếp tục mẹ mìn :

 

“ Cái tình quê hương đối với con người ta thắm thiết lắm , chứ không thờ ơ được đâu .Nếu tôi không nghĩ đến quê hương thì đã sinh cơ lập nghiệp tận đẩu tận đâu chứ còn mò về cái làng này làm gì để chịu khổ sở đói khát. Nếu không nghĩ tới làng xóm thì tôi cũng đã xin rút lui công tác từ năm nọ kia chứ chẳng phải đợi ai đánh đổ. Tôi năm nay bốn mươi chín rồi. Ở đây tôi chỉ kém tuổi có bà Bân thôi, đâu cách nhau gần một giáp thì phải . Đời tôi lăn lộn nhiều , đã từng nếm đủ mùi cay đắng cơ cực, cái cao xa chẳng nói làm gì , còn cái trước mắt thì tôi không thể lầm được…Các bà hãy tin ở lời khuyên của tôi …”

 

Sau khi “nam mô” một hồi , ông Chủ tịch xã lại giở giọng phù thuỷ :

 

“ Các bà hãy tin vào lời khuyên của tôi. Đã đành chúng nó không phải là con tôi nhưng chúng là người của xã này , là người của làng tôi, làm ngơ thế nào được khi biết chúng đi vào con đường tồi tệ…Mình giác ngộ hơn nó mà không bày vẽ chỉ bảo cho chúng nó thì cái tội của nó chính là cái tội của mình, tôi sẽ có lỗi trước bà con…”

 

Cái khó của ông Chủ tịch là làm sao vừa kết án được chuyện “đi tu” để ông có cớ giải tán chủng viện mà lại vẫn không phạm vào chính sách “tự do tín ngưỡng của Đảng”. Ông lý luận :

 

Đi tu, ừ, đã đành chính sách không cấm, quyền tự do của mỗi người . Nhưng vì lẽ gì mà phải tu, chán đời ư , không kiếm được cơm ăn áo mặc ư, thiếu gì việc. Con trai bằng lứa tuổi chúng nó người ta đeo huy hiệu Đoàn, ao ước được thành bác sĩ, kỹ sư, ao ước được bay nhảy đây đó , còn chúng nó co lại trong chiếc áo dài thâm, sáng khấn, tối khấn, có bố mẹ mà không được nuôi nấng, có quê hương không dám nghĩ đến ngày về, có thể lấy vợ đẻ con thì lại làm tội mình cho đến chết…”

 

Say sưa bài bác áo thầy tu đến thế này không hiểu là tâm tư của nhân vật Chủ tịch xã hay là của chính ông nhà văn ? Kết thúc bài “diễn văn” lên án đám học sinh chủng viện, ông Chủ tịch xã cao giọng :

 

“ Chỉ đọc kinh mà sống được ư ? Ai cho nó ăn, ai cho nó mặc, vẫn là nhân dân. Còn chúng nó thì làm gì cho nhân dân ? Chẳng làm gì cả , một bọn ăn bám , cái lưng dài thườn thượt , cái chân cái tay bủng beo vì bệnh lười…”

 

Ông Chủ tịch xã bộc lộ một điều : Nhà nước toàn trị không muốn cho trẻ con đến tuổi cắp sách đến trường nằm ngoài sự “quản lý của Đảng”. Dẫu rằng nó vẫn ăn cơm của bố mẹ nhưng nó phải vào Đoàn, phải đi học dưới “mái trường xã hội chủ nghĩa” nếu không nó sẽ bị coi là “ăn bám” - ăn của bố mẹ thì vẫn bị coi là “của nhân dân”.


 

Sau khi dùng “lý lẽ ngoài đời” doạ nạt, lung lạc mà người mẹ vẫn không chịu gọi con về, ông Chủ tịch xã chuyển sang bài bác “lý lẽ của đạo” mong “cắt cơn nghiện của nhân dân” ( ông Mác chẳng đã nói ” tôn giáo là thuốc phiện” mà.):

 

“Tôi cũng là người công giáo đấy, nhưng nói thất lỗi với các bà, các ông, tôi không bao giờ tin được là có Chúa thật. Nếu bảo bất cứ việc gì đều được lên trời thì tại sao vệ tinh của Liên xô lại bay được lên trời, vậy ra Chúa ủng hộ cộng sản ư ? Chúa ủng hộ vô thần ư ? Tại sao Toà Thánh là đất Chúa ngự không phóng một vệ tinh bằng quyền phép thiêng liêng của Chúa cho thiên hạ thêm lòng tin cậy. Chẳng có gì cả đâu…”

 

Đúng là đầu óc chứa rặt “chủ trương chính sách của Đảng “ mới đẻ ra lý lẽ “bài bác Chúa ” ngu muội đến vậy. Và đây là sản phẩm của “chủ nghĩa duy vật thô sơ” đã được cài đặt vào đầu cán bộ :

 

“ Ai có trình độ khoa học cao, ai lao động giỏi thì kẻ ấy làm được việc kỳ lạ. Cha Thuyết bị sưng gan chín phần chết, một phần sống , vậy ai cứu được mạng của cha? Chính phủ ta, các bác sĩ Liên xô, toàn những người vô thần cả. Chính cha cũng đã từng nói với tôi:” Bố mẹ sinh ra lần thứ nhất, các bác sĩ Liên xô sinh ra lần thứ hai…”

 

“Cha tuyên uý” của chủ nghĩa Mác Lê, chiến sĩ trên mặt trận tư tưởng của Đảng, tín đồ trung thành của chủ nghĩa maoít-stalinnít - Chủ tịch xã Môn cứ thế “giác ngộ” cho đám quần chúng đang bị “tôn giáo ru ngủ” :

 

“Ngay đến các cụ đạo ngày ngày đứng trên toà giảng vị tất các ông ấy đã tin chắc là có Chúa thật, nếu họ tin sẽ có ngày phán xét chung thì vía cũng chẳng dám làm bậy, chẳng dám nằm với người nữ , chẳng dám cầm súng bắn giết con chiên, moi tiền của kẻ khó…”

 

Kết thúc bài diễn văn công kích nhà thờ – ông Chủ tịch xã sổ toẹt :

 

“ Bịp bợm cả . Các bà tin được tôi thì tin, không thì thôi, nhưng sau này các bà sẽ thấy lời tôi nói hôm nay là đúng. Xã hội người ta cứ tiến chứ có ai chờ con các bà giác ngộ rồi người ta mới cất bước đâu…”

 

Than ôi, hơn nửa thế kỷ trôi qua, “xã hội người ta cứ tiến” – người ta đây có thể hiểu rộng ra là thế giới, cho đến nay các “đồng chí” Chủ tịch xã “ vẫn còn ôm ấp ba cái thuyết “ đấu tranh giai cấp” và “xây dựng chủ nghĩa xã hội” loài người đã bỏ qua.

 

Tất nhiên, lối “giáo dục cưỡng ép” ấy khó mà chinh phục được con tim lẫn khối óc của người dân :

 

“ Trong các cuộc họp người ta đến miễn cưỡng , uể oải, cái xác ngồi đấy , nhưng tâm thần để tận đâu đâu. Họ không cần nghe cán bộ giải thích , đằng nào cũng thế, thuế vẫn phải đóng, đi dân công vẫn phải đi, nghe nhiều nào có lợi ích gì. Họ cứ sống như xưa kia họ sống…”

 

Giáo dân với Đảng còn như vậy, linh mục với chính quyền “xung đột” được mô tả còn dữ dội hơn bằng ngón nghề quen thuộc : “vu cáo “ và “bôi xấu”.

 

Một lần có hẳn một phái đoàn bốn linh mục và một tu sĩ ghé thăm xứ Hỗ. Đây là dịp ông nhà văn xây dựng chân dung các nhà tu hành. Trước hết cha Thuyết, cha chủ nhà được một cha trong đoàn giới thiệu :

 

“Ông ấy vừa đi nằm nhà thương ở Hà Nội về. Phải mổ gan lọc mật mới sống sót đấy. Tôi thì cho rằng chỉ tại cái món thịt chó cả thôi. Ăn nhiều thịt chó dễ bị tích kén lắm. Cái giống ấy nó chẳng nhiệt quá mà…”

 

Vậy là một đấng chăn dắt linh hồn con chiên suýt chết vì…xơi thịt chó thường xuyên. Rồi đến một cha khách, cha Lân, khi ngồi vào mâm cơm thì mắt sáng lên :

 

“ Ở đây cha cũng cho thả cá rô phi à. Cái giống cá ấy sinh sôi nảy nở đến nhanh. Nhưng cá này phải hầm hoặc om kỹ mới ngon, còn rán thì xương khí rắn…Bày vẽ quá lắm, biết thế chẳng báo trước ; làm phiền cha chủ sự…”

 

Rồi lần lượt cha giới thiệu “tâm hồn ăn uống “ của các cha :

 

“Xin các cha cứ tự nhiên cho…Mỗi người một ý thích một tâm tính…Như đức cha người chỉ thích ăn trứng luộc, một lúc ăn hàng chục quả vẫn ngon lành. Tôi xin chịu. Cha Giản đi kiết thì chỉ nghiện chè bột sắn, cứ nấu một soong to, cha đủng đỉnh ăn cả ngày cũng hết. Cha Thuỵ ở trên tỉnh lại ưa món chim câu hầm, nhưng ông cụ không có răng, cứ nhấm nháp qua loa rồi nhè ra đĩa, lão bõ ở đấy chỉ ăn bã nhả ra mà béo trắng. ..Còn tôi thì được cái bình dân, toàn nghiện những món rẻ tiền như bánh đa mật chẳng hạn. “

 

Quả thực không biết ở cái xứ đạo nào mà ông bõ trong nhà thờ chỉ ăn bã do cha nhả ra mà…béo trắng thì thật nghề bôi xấu phải trao giải nhất cho ông nhà văn. Kinh hoàng hơn nữa là khi các cha bàn về món…tiết canh gà :

 

“ Xin lỗi, các cha đã được ăn tiết canh gà bao giờ chưa ?”

 

Cha râu dài vừa nhai nhồm nhoàm vừa nói :

 

“ Mới nghe lần đầu đấy. Chắc là tanh lắm hả ?”

 

“ Lậy cha, cha lạc hậu quá. Thật tình rất thơm ngon…Rắn sần sật mà bùi lắm. Cái dân Hà Nội họ làm món ăn thì người khó tính đến đâu cũng phải vừa lòng…”

 

Hết món ăn rồi đến món uống. Cha sở tại, “sau vài hớp rượu da mặt ông càng đỏ rực mãi lên một cách đáng sợ, tưởng như bật được máu tươi :

 

“Chính thế, nấu rượu được nếp thầu dầu thì quý hoá nhất – cha Thuyết đưa con mắt nhỏ tí, lóng lánh sáng nhìn mọi người – Vâng thưa các cha, ngon nhất đấy ạ, càng để lâu càng đượm, càng thơm mà nước rượu cứ trong vắt như nước mưa. Còn nếp bắc thì chóng nhạt rượu lắm , nước rượu cũng đục…”

 

Than ôi, nếu các đấng chăn chiên, các đức cha linh hồn của mấy chục vạn giáo dân Bùi Chu – Phát Diệm mà tham ăn tục uống như trên thì đúng là cha …“quốc doanh “ ; tức các cán bộ tuyên giáo được cài vào trường của nhà thờ học thành linh mục trà trộn vào hàng ngũ giáo phẩm “nắm tình hình.”

 

Tất nhiên năm ông linh mục này không phải “cha quốc doanh”, sau khi bàn chuyện ăn uống chán chê họ mới bàn chuyện ứng phó của giáo hội trong xã hội cộng sản. Dưới ngòi bút Nguyễn Khải, họ đích thị là những tên biệt kích, đám người phản động, đối tượng của cách mạng :

 

“Cha Lân ném một cái nhìn nảy lửa, đôi lông mày rậm trở nên dữ tợn, giọng ông ta đanh lại, độc ác, tàn nhẫn :

 

“ Trong tay chúng ta còn những gì ? Chỉ còn lại mỗi cây thánh giá. Chúng ta chỉ trông cậy được vào Chúa và các đấng thánh thần. Còn quần chúng của ta , cái lực lượng mười vạn con người của chúng ta đâu rồi, vắng lặng bốn bề như tiếng gọi giữa sa mạc. May thay chúng ta còn một vũ khí sắc bén mà không một kẻ nào tước nổi, đó là cái lưỡi của chúng ta. Chúng ta hãy còn một khu vực tranh chấp mà không một kẻ nào dám đoạt lại : đó là Toà giảng của nhà thờ. Từ đấy chúng ta sẽ tiến công ra, sẽ chiếm đoạt lại tất cả…”

 

Nguyễn Khải đã vạch một chiến tuyến dứt khoát giữa giáo hội và Nhà nước – cuộc đối đầu “ ai thắng ai”, “một mất một còn”. Mặc dầu xuất thân nhà dòng nhưng xem ra ông nhà văn hiểu biết về Thiên chúa giáo cũng chỉ ngang anh một cán bộ Ban tôn giáo Chính phủ .

 

Cuộc đối đầu “giáo hội” và “Nhà nước” diễn ra ngay khi các cha vừa dùng cơm xong, ông Chủ tịch xã Môn và ông cán bộ huyện Mẫn ập vào. Đã không xin phép được gặp, đã không báo trước sẽ tới, ông đại diện chính quyền xông vào phòng khách của Toà thánh khơi khơi như vào trụ sở Uỷ ban và lại còn hậm hực :

 

“Ghê thật, hội họp với nhau mà không thèm báo một lời cho uỷ ban biết. Có chứng cớ ông thử tóm cổ một lượt xem có trắng mắt ra không ?”

 

Ông Mẫn , cán bộ huyện nói thẳng :

 

Trước đây khi toà Giám mục xin mở trường cũng có đề ra chương trình một ngày học sáu tiếng giáo lý và hai tiếng văn hoá…Là đấng chăn chiên mà hiểu biết ít thì rao giảng cũng khó khăn…”

 

Cha Lân, đại diện cho Toà Giám mục phải “nói thẽ thọt” :

 

“ Nhưng ông rõ cho, theo luật lệ toà thánh thì nhà trường không phải phục quyền các vua chúa phần đời, không để cho nhiễm thói tục phần đời. Trường đạo chỉ chịu quyền ở Toà Giám mục. Toà Giám mục lại chịu quyền ở Toà thánh, không thể muốn thế nào cũng được…Ngay đến chương trình học từng năm kẻ làm thầy phải giảng giải những gì, đứa học trò phải đọc những sách gì đều do sự định liệu trước của Toà Thánh cả. Nói nôm na toà thánh cũng như chính phủ trung ương bên tôi ấy mà…”

 

Trước lý lẽ rành rẽ của linh mục , ông Chủ tịch xã trở mặt, giở ngay cái mũ “phản động” doạ nạt :

 

Tôi xin hỏi cha, vậy như trước kia các ông cụ đạo đi làm tuyên uý trong quân đội Pháp hay làm sĩ quan có phải đợi lệnh của Toà Thánh cho phép không ?”

 

Doạ chán rồi, ông Chủ tịch xã nổi cáu :

 

”Nói chuyện với bọn này cứ như người đấm bị bông, mất thì giờ mà chẳng đâu vào đâu…”.

 

Ông cán bộ huyện Mẫn cũng vứt bỏ những lời đường mật giở giọng đe nẹt :

 

Nếu như Toà Giám đặt mục tiêu cho cái trường ấy là nơi đào tạo những phần tử chống đối lại cộng sản thi tôi xin nói trước sẽ không bao giờ cụ giám quản đạt được ý nguyện đâu, mà có khi còn mang vạ vào thân là khác. Vì các cụ cũng biết đấy, pháp luật thì rất vô tư…nhà trường ngày nào cũng bắt các em làm bài chửi cộng sản , chửi các cơ quan nhà nước thì chúng tôi khó chịu đến đâu…”

 

Bị vu vạ “đào tạo phần tử chống đối cộng sản” linh mục phải xuống nước :

 

Chúng tôi biết địa vị của chúng tôi lắm chứ . Chính phủ thì có trong tay nào quân đội, nào công an, còn chúng tôi thì chỉ có tượng thánh thôi. Chỉ mong đừng ai đụng chạm đến mình là mừng chứ còn chống đối gì.”

 

Rồi biết rằng nếu nhún nhường sẽ bị “nhà cầm quyền” lấn tới, cha đánh bạo :

 

“Chúng tôi thì cho rằng bắt trường đạo phải dậy văn hoá đó là một bước lấn của ông vào quyền hành giáo hội của chúng tôi…”

 

Và cha vạch trần “tim đen” của nhà cầm quyền :

 

“Đã dậy văn hoá thì ắt phải có giáo viên chứ gì . Tu sĩ của Trường thì lại không có bằng cấp, chẳng qua kẻ lớn dậy kẻ bé. Mà cử giaó viên ngoài giờ chúng tôi lấy làm e ngại …Nếu ông giáo viên theo đạo Thích Ca chẳng hạn , ông ta sẽ quan niệm về thế giới, về vũ trụ theo cái cách của ông ta. Hay nói cho rõ ràng hơn nếu ông ta là vô thần thì lại càng rắc rối. Vì ông ta có thể nói với học trò rằng thế giới này là do bàn tay lao động làm ra chứ không phải là do một đáng sáng tạo nên… ”

 

Lý lẽ của cha đưa ra làm ông cán bộ huyện cứng họng. Chính bản thân anh ta cũng thấy đòi hỏi đưa giáo viên Nhà nước vào dậy trong trường của nhà thờ là vô lý . Anh ta triết lý :

 

“Tôn giáo và văn hoá quả thực có điều điều không thể đứng cạnh nhau. Chẳng lẽ lại giảng là trái đất vuông , qua lớp mây xanh kia là thiên đáng…Chẳng lẽ nói cây lúa mọc lên là do ý Chúa chứ không phải do phát triển biện chứng của nó. Chẳng lẽ nói con người là đất bụi hèn hạ chứ không phải là sinh vật cao quý…Một đằng dìm con người xuống, một đằng làm cho con người trở nên sáng suốt biết sống một cách có ý thức. Và có thể lấy thêm hàng nghìn thí dụ khác về sự đối lập không sao dung hoà được…”

 

Hiểu biết của “nhà cầm quyền” về tôn giáo mới chỉ dừng ở mức độ coi nó như một thứ “mê tín dị đoan” , là “thuốc phiện đầu độc nhân dân” đúng như ông thánh Mác-Lênin đã dậy. Chính vì vậy ông cán bộ coi linh mục như kẻ có tội :

 

“ Có thể nói những người ngồi quanh cái bàn này đã tượng trưng được phần nào cho cái thế giới cha cụ hết sức phức tạp của địa phận Bái. Có những tên chống đối cách mạng đến điên cuồng; có những người còn bán tin bán nghi…nhưng giữa cái đám hùm sói ấy họ cũng không dám lên tiếng, vì lòng dũng cảm của họ còn ít quá, họ còn cân nhắc quá nhiều đến cái địa vị và uy tín giả dối của mình…”

 

Cả 2 tập tiểu thuyết Xung đột cứ xoay quanh những “xung đột” mà ông nhà văn tưởng tượng ra thế. Nhân vật chia làm hai “phe” địch-ta rõ ràng. Một bên là các cha Thuyết, cha Lân, cha Bản…tham ăn, tục uống và nhát sợ cường quyền. Một bên là Môn, Chủ tịch xã, Nhàn , Phó Chủ tịch, Mẫn,cán bộ huyện…người nào người nấy ngùn ngụt lửa cách mạng muốn xông lên xoá nhà thờ để…xây dựng hợp tác xã. Dù là ở bên này, hay bên kia, mỗi nhân vật đều chỉ là cái loa phát thanh tư tưởng “cách mạng hơn cả ông Các Mác” của ông nhà văn. Thay vì cho nhân vật sống như một con người trong cõi nhân sinh với mọi buồn vui, hạnh phúc và bất hạnh của nó, ông lại chỉ cho nói ra đằng mồm cái tinh thần cách mạng Đảng đòi hỏi ở cán bộ.

 

Xung đột tập 1 và 2 của Nguyễn Khải một thời được giới phê bình trong nước kéo lên mây xanh, được nhắc tới như một thành tựu xuất sắc của văn học cách mạng, được coi như một tiểu thuyết sáng giá được đưa cả vào sách giáo khoa dậy trong trường phổ thông và đại học.


 

Sau “Xung đột”, Nguyễn Khải viết tiếp tiểu thuyết khác, khá nổi tiếng cũng về thời kỳ hợp tác hoá nông nghiệp : “Chủ tịch huyện”.

 

Mặc dầu tựa là “ Chủ tịch huyện” nhưng mở đầu ca ngợi hết lời “Chủ tịch xã”. Đó là “chủ tịch xã trẻ và tính toán giỏi nhất huyện…Con người tài giỏi đã bắt đầu nghĩ : vắng tôi mọi việc đều không ra gì …”

 



Vậy Chủ tịch xã đó thực sự “tài giỏi “ ra sao ? Trước hết ông ta xắn quần lội ruộng để kiểm tra và một lần bắt gặp “ hai sào ở đồng Con Cú của đội hai, cày còn dối lắm, chỉ vài xá vòng quanh”, lập tức Chủ tịch xộc ngay đến nhà ông Chủ nhiệm hợp tác xã để vạch tội. Ông Chủ nhiệm lại cho gọi thợ cầy đến. Anh này đành phải thú nhận cày dối làm mọi người phục lăn Chủ tịch xã đi sâu đi sát.

 



Lần khác, Chủ tịch xã sau 3 tháng nằm viện về, nghe tin mức bán thóc thuế nghĩa vụ của hợp tác xã còn thấp, lập tức cùng kế toán lặn lội tới từng hợp tác xã tính toán lại thu nhập và quả nhiên họ đều phải nâng cao mức bán thóc nghĩa vụ cho Nhà nước.

 



Cũng trong thời gian ông Chủ tịch xã nằm viện, ở nhà ông Phó Chủ tịch đã “ngã giá mua năm gian nhà ngói của ông Cẩm với giá bốn nghìn đồng để rỡ ra làm trường học”. Chủ tịch xã đi viện trở về nhất định không chịu và quyết định chỉ mua với giá…hai nghìn đồng mà gia chủ cũng đành phải bán.

 



Một lần chủ nhiệm hợp tác xã An Lạc Hạ “ lên xin uỷ ban cho phép mổ con lợn năm chục cân lấy thịt cho xã viên ăn”. Mặc dầu ông Phó Chủ tịch đã đồng ý , nhưng ông Chủ tịch xã đi công tác về khăng khăng không cho mổ vì “ mổ rồi, nuốt vào bụng rồi mà không thu được đủ phiếu thì cũng đến cười xoà với nhau…”. Vậy có nghĩa là muốn mổ lợn , ông Chủ nhiệm phải duyệt “ phương án ăn chia “cái đã.

 



Một lần khác , ông Trưởng phòng lương thực xuống xã đề nghị ký hợp đồng xay thóc kho. Một lần nữa ông Chủ tịch xã trẻ tuổi lại tỏ ra xuất sắc vì biết tính toán tới cả “ chín xu một cân điện, vị chi là chín hào. Lại còn tiền dầu luyn. Ba ngày phải thay một lần dây cua-roa bốn mét, mỗi mét mười hai đồng. Lời lãi đâu mà nhiều…”. Mặc dầu “tài năng tính toán “ của ông Chủ tịch xã chỉ có “nhiêu đó”, nhưng ông Chủ tịch huyện đã như mở cờ trong bụng :” Đấy !Cán bộ xã của huyện này như thế đấy !Thật là hiện đại nhé ! Mặc dù máy xay chưa về đến xã , mà hắn ta đã biết lui tới như một ông Giám đốc thực thụ vậy…”

 



Ngày nay coi lại chân dung ông Chủ tịch xã được coi là xuất sắc, tài giỏi người đọc phải phì cười. Hoá ra tài năng ông đứng đầu chính quyền xã chỉ là đi xét nét thợ cày, tính toán sao bóc lột dân nhiều hơn , duyệt cho hợp tác xã mổ trâu, tính toán giá công xay thóc… Nếu chỉ bằng vào những khả năng đó thì trình độ ông Chủ tịch xã “xuất sắc và tài giỏi” chỉ ngang với anh nông dân hạng bét. Người ta không thấy mảy may ý thức đứng đầu chính quyền một xã để có ý tưởng mới trong sản xuất, trong việc thực thi pháp luật mà chỉ loanh quanh việc vụn vặt, con cá lá rau bất kỳ anh nhà quê ngớ ngẩn nào cũng làm tốt.

 



Chân dung “chủ tịch xã” đã méo mó vậy, còn Chủ tịch huyện ra sao ? Đó mới là phần chính trong tiểu thuyết “ Chủ tịch huyện” của Nguyễn Khải.

 



Cái “ông Chủ tịch huyện” này chắc phải là một anh “nhà quê” đặc sệt bởi lẽ :

 



Buổi sáng vừa ngủ dậy, ông Chủ tịch huyện hãy còn cầm trong tay chiếc bàn chải đánh răng đã có thể gọi phóng lên dãy nhà trên :” Các cậu ở nông lâm ơi, sáng nay An Trạch nó gieo đay thí nghiệm đấy đã cử người xuống chưa ?’

 



Quan đầu huyện làm việc theo kiểu “xó bếp” vậy, đủ hiểu cái công việc ở Uỷ ban ‘tẹp nhẹp “ và “tạp pí lù” chừng nào. Thời đó chưa có dự án, chưa có vốn ODA, WB, chưa có nước ngoài đầu tư …nên các cấp chính quyền trong huyện, ngay cả ông Chủ tịch cũng chẳng có gì “ăn phần trăm” , “rút ruột công trình”, cướp đất của dân chia chác …Bởi thế trụ sở Uỷ ban huyện chưa nguy nga, bề thế như hiện nay mà chỉ là cái nhà dài, tập thể , ở đó “người ta sống như trong một gia đình”. Đó là “một dãy nhà ngang thấp tối ở khuất hẳn phía trong, vẫn lợp rạ , trát vách..Gian đầu là chỗ ở của Chủ tịch huyện, gian thứ hai là chỗ ở của Chánh văn phòng Uỷ ban và anh thư ký đánh máy, gian thứ ba là của bà nấu cơm và chị phụ trách lớp mẫu giáo, vỡ lòng trong toàn huyện, còn hai gian ngoài cũng giành riêng cho gia đình bà Phó Chủ tịch huyện…”

 



Thật không thể tưởng tượng nổi một ông quan đầu huyện lại ăn ở kiểu “lán trại” như công nhân trên công trường :

 



Ông Chủ tịch nằm duỗi thẳng trên giường, cảm thấy rất rõ rệt các đầu xương đang rời ra vừa khoan khoái, vừa mỏi mệt. Nhạn, chánh văn phòng uỷ ban đã ngáy đều đều bên kia vách tường. Khi Nhạn thôi ngáy một lúc nào đó lại đến tiếng nghiến răng của bà nấu cơm ở buồng bên kia nữa…”

 



Uỷ ban huyện “ăn ở” lúi sùi và bệ rạc vậy trách gì công việc hàng ngày của ông Chủ tịch huyện chỉ toàn chuyện “bếp núc”. Trước hết ông làm việc không có giờ giấc gì hết :

 



“ Ở huyện người ta không thể làm việc đúng giờ giấc được, và cũng khó có thể chủ động dành một khoảng thời gian hoàn toàn cho riêng mình, kể cả khi anh ốm nhưng không đi nằm bệnh viện, anh về nhà vui chơi với vợ con hoặc ngay sau khi anh đang ngủ say sưa sau một ngày làm việc mệt .”

 



 Vậy nhưng công việc Chủ tịch huyện gồm những gì mà phải làm việc suốt 24/ 24 vậy ? Hoá ra chẳng có gì ghê gớm, toàn những việc hành chính, lặt vặt . Trước hết một ngày ông phải “ký hàng trăm tờ công văn ( tuy chính người ký cũng không thể biết hết nội dung của nó) vì huyện có những hăm nhăm xã và hăm hai phòng, ngành, mặc dầu các phòng ngành đều ăn chung một bếp , ra vào đều chạm mặt nhau nhưng vẫn cứ phải đọc công văn của nhau”.

 



Công văn gì mà lắm thế, thì đại loại toàn những chuyện “gieo đay của các xã’, “tình hình đào đắp của các đội thuỷ lợi và số mét phải hoàn thành”,”tình hình dồn ấp trại về làng để khoanh vùng cơ giới”…

 



Ta hãy coi công việc hàng ngày của Chủ tịch huyện.Trước hết một ông chủ nhiệm hợp tác xã trồng đay đến kiện anh phụ trách chi điếm ngân hàng huyện không cho vay tiền. Anh này bị ông chủ nhiệm tố cáo nhận ba sào đất của ông chủ nhiệm khác nên cho vay dễ dàng còn ông không có gì lót tay nên bị gây khó dễ. Thế là ông Chủ tịch huyện chẳng biết nếp tẻ ra sao, chẳng “điều tra điều nghiên” gì ra ngay cái lệnh cách chức anh ngân hàng dễ dàng như ông bố trong nhà phạt con cái. Rồi đến cuối buổi có một ông lão chạy vào Uỷ ban đề nghị ông Chủ tịch huyện can thiệp để xe ô tô khách chở cho “mấy chục cân rau của hợp tác xã đưa lên cho anh em trên công trường, trên ấy hiếm rau lắm…”. Tất nhiên là ông Chủ tịch huyện tức khắc chạy ra bến xe ra lệnh cho nhà xe phải chở cả ông lão với bao tải rau của ông.

 



Đại khái công việc hàng ngày của ông Chủ tịch huyện toàn những việc chẳng ra ngô ra khoai như vậy, chẳng cần tới hiểu biết về khoa học quản lý cũng như những kiến thức tối thiểu về khoa học kỹ thuật . Cứ theo nội dung công việc của ông thì bất kỳ anh nhà quê thất học nào cũng làm được “chủ tịch huyện” , miễn là nắm vững đường lối chính sách của Nhà nước và tuyệt đối trung thành với Đảng.

 



Trong “công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa” ở miền Bắc ngày xưa, đúng với bản chất nông dân của cuộc cách mạng, ý thức lao động gân bắp được coi là “phẩm chất số một” của việc đánh giá và đề bạt cán bộ. Bởi vậy người ta không lấy làm lạ vì sao trong tiểu thuyết “Chủ tịch huyện” của Nguyễn Khải, các ông Chủ tịch xã, Chủ tịch huyện và Bí thư tỉnh uỷ ông nào ông nấy đều mở đầu việc lãnh đạo nông dân bằng…”xắn quần móng lợn đi thăm đồng ruộng”.

 



“Ông Quang, Bí thư tỉnh uỷ, vừa đánh xe con xuống huyện đã lôi ngay ông Chủ tịch huyện Hiệp lên xe , kéo nhau ra đồng coi tình hình sâu phá ngô ra sao ? Và ông Bí thư chỉ thị cho ông Chủ tịch huyện cái việc mà lẽ ra cấp xã cũng có thể quyết định được :

 



Nơi nào nhiều sâu quá nên bán chịu thuốc trừ sâu cho họ hoặc ứng một khoản tiền nào đó cho họ vay mua thuốc. Chú ý đấy, không thì hỏng ăn cả…:”

 



Liền đó ông Bí thư lại khuyến cáo ông Chủ tịch huyện nên đi thăm các cán bộ xã đội ở 25 xã trong huyện là vì “ Khi họ mổ lợn, ăn cơm liên hoan mình không đến cũng được , nhưng khi họ túng thiếu , ốm đau, gặp khó khăn thì phải tìm mọi cách chia sẻ với người ta. Dân mình có câu :” lời chào cao hơn mâm cỗ” là có ý nghĩa sâu sắc lắm. đấy…”

 



Trong một xã hội toàn bộ nông dân đều bị nhốt trong hợp tác xã với kỹ thuật canh tác lạc hậu “ con trâu đi trước, cái cày theo sau” từ ngàn năm trước thì đời sống con người hết sức đơn giản – không du lịch, không tài sản, không luật sư, không phương tiện di chuyển, không máy móc phục vụ sinh hoạt và giải trí, không cả hàng hoá và chợ búa, con người chỉ nhăm nhăm lo sao cho “ăn đủ no, mặc đủ ấm ” vậy thôi ; việc quản lý xã hội bởi thế mà trở nên hết sức đơn giản và dễ dàng. Nhà nước công nông thực ra chỉ lo “quản lý “ sao cho nông dân và công nhân đổ hết lao động gân bắp ra để thu thóc và sản phẩm công nghiệp. Chính vì vậy ông “quan đầu tỉnh” chẳng cần có đầu óc nảy sinh ý tưởng mới, chẳng cần có kiến thức khoa học quản lý và khoa học kỹ thuật, ông chỉ “đòi hỏi được biết cái tình hình thực , cái tình hình tự nhiên nhất, không bị tô vẽ, không bị che lấp bởi bất cứ một thứ sắp xếp giả tạo nào. “ . Cái tình hình thực đó thực ra rất đơn giản xoay quanh có mỗi chuyện “ nước, phân, cần, giống” mà bất kỳ một anh cán bộ cấp xã nào cũng có thể điều hành được chẳng cần tới một ông “quan đầu tỉnh”. Bởi vậy khi xuống huyện, ông bí thư tỉnh uỷ “sẵn sàng kiếm ngay một cái buồng riêng chui vào đó làm việc một mình như ở nhà, hoặc đọc báo hoặc ngủ một giấc nếu như đêm trước anh không được ngủ….”

 



Để tô vẽ cho ông “bí thư tỉnh uỷ” đi sâu đi sát quần chúng, ông nhà văn “bắt” ông xộc cả vào phòng ngủ vợ chồng người ta, làm cái việc rất kỳ cục là dậy chủ nhà … sắp xếp quần áo:

 



“Này, đừng có thu dọn theo cái cách ấy. Anh hãy để thứ nào vào thứ ấy, đúng với cái chỗ của nó, xem nào !”

 



Miệng nói , tay Quang ( bí thư tỉnh uỷ) đã giũ tung cái đống quần áo lẫn lộn cái bẩn, cái sạch, cái khô, cái ướt, rồi lượm lại từng cái một :” cái này của chị ấy thì để riêng ra, của chúng nó cũng xếp riêng ra. Cái quần này của cậu phải không ? đã giặt chưa đấy ? Thôi, chốc nữa đem giặt đi, đói cho sạch rách cho thơm…”

 



Ông nhà văn cứ tưởng ca ngợi tính đi sâu đi sát quần chúng của ông Bí thư tỉnh ủy. Ngờ đâu ngày nay đọc lại chỉ thấy tức cười vì …lố bịch.



 

Chưa hết, ông bí thư tỉnh uỷ còn ‘thọc sâu” vào gia đình người ta :

 

Đồng chí Bí thư tỉnh uỷ liền tính toán với ông chủ gia đình về công việc của từng đứa, buổi sáng chúng làm gì ? Trưa chiều nên giao cho chúng những việc gì ? Rồi Quang bày cách thu dọn lại nơi ăn chốn ở, từ chỗ xếp quần áo, đến sách vở, guốc dép, đồ dùng thức đựng trong gia đình…”

 

Chẳng rõ bà chủ nhà – tức vợ ông “bí thư xã” phản ứng sao khi chứng kiến thằng cha căng chú kiết nhảy vào nơi riêng tư trong tổ ấm của chị , “xía vô” tới cả những việc lẽ ra chỉ có vợ chồng chị biết. Ngược đời, thời đó người ta lại lấy làm “vinh dự” và cảm động vì được ‘đồng chí bí thư tỉnh uỷ” quan tâm ,săn sóc . Văn hoá ứng xử xã hội chủ nghĩa nặng mùi “ nô lệ”, “tôi tớ” vậy đó. Người ta tự tước bỏ quyền riêng tư trong gia đình khi được nhận ơn mưa móc của cấp trên . Quả nhiên sau khi ‘dậy dỗ bảo ban” gia chủ chi li cặn kẽ, ông “bí thư tỉnh uỷ” liền lệnh cho ông Chủ tịch huyện trích quỹ cho ông này vay “hai trăm mua một con nghé, chăn dắt một năm bán đi cũng được ba bốn trăm, có thêm một khoản tiền…”.

 

Đảng “lãnh đạo’ ở cấp tỉnh là như thế đấy, nổi hứng lên một ông bí thư tỉnh uỷ có quyền tuỳ tiện móc công quỹ ra ban phát cho kẻ này kẻ khác bất chấp luật lệ tài chính của Nhà nước. Xuống xã lần này, ông Bí thư tỉnh uỷ cũng được chứng kiến một ông Chủ tịch xã tham ô. Ông này lợi dụng chức vụ “ viết giấy giới thiệu lên huyện xin mua những…hai chục tạ phân đạm rồi bán ra ngoài theo giá tự do” rồi thì “một năm trời làm ngơ cho thằng Kim ở Đại Lâm mổ lậu mười lăm con lợn , mổ mỗi con lại mời ông chủ tịch một bữa chén, nếu không ăn thì hắn cho con đưa sang một nửa cỗ lòng.” . Rồi thì “chỉ riêng số gạo cứu đói cho Du Lâm tháng ba năm ngoái , ông Chủ tịch cũng để riêng cho gia đình mình hơn hai tạ…”.

 

Mua bán chênh lệch hai tấn phân đạm, ăn của đút “nửa cỗ lòng heo”, “một bữa chén”, ăn chặn hai tạ gạo…chỉ có thế thôi mà ông Chủ tịch xã vẫn phải đi tù. Đó là tình hình tham nhũng vào những năm đầu thập kỷ 1970. Hơn 40 năm sau, tốc độ ăn cắp của cán bộ Đảng ta đã gia tăng đến khủng khiếp nếu ta tính được số tiền và của cải bọn đầu sỏ VINASHIN, VINALINES và vô số các Tổng công ty khác moi móc của Nhà nước. Từ “nửa cỗ lòng heo” ngày xưa đến biệt thự, trang trại ngày nay - cán bộ Đảng ta quả thực đã nhảy vọt một bước vĩ đại, có tính cách lịch sử nâng nghề ăn cắp thành nghệ thuật, đưa tham nhũng trở thành một phần máu thịt trong cơ thể “Đảng ta”.

 

 Ông bí thư xã nhận xét ông Chủ tịch xã tham ô “ là một cán bộ đã được rèn luyện, một con người tốt, có năng lực làm việc , sở dĩ mắc tội tham ô là vì “những sai lầm của anh ấy chúng tôi biết cả, biết ngay từ đầu.. Chỉ vì trong Đảng uỷ nể nả nhau quá, nhân nhượng nhau nhiều lần quá thành thử lỗi nhỏ thành lỗi lớn…”

 

Ông Bí thư tỉnh ủy giở giọng cao đạo :

 

 “Hoặc là chúng ta phải nghĩ tới nhân dân , tới phong trào; hoặc là chúng ta chỉ lo lắng cho riêng mình…” 

 

Ngày nay các đồng chí “bí thư tỉnh uỷ” chẳng còn nói năng theo kiểu “chống chủ nghĩa cá nhân” thời “bác Hồ” được nữa, một vì “"ngượng mồm"” , hai sợ cấp dưới nó cười cho thối ruột.

 

Khác với “ Xung đột” còn có “mâu thuẫn địch – ta”, còn có chuyện đấu đá giữa ‘nhà nước” và “ nhà thờ” câu chuyện còn có chút hấp dẫn , ly kỳ, trong “ Chủ tịch huyện”, chỉ có quan hệ giữa cán bộ và xã viên , tức “mâu thuẫn nội bộ” , ít “gay cấn”, đấu đá “một mất một còn” nên chuyện nhàm chán, tẻ nhạt. Để hấp dẫn độc giả, ông nhà văn tạo ra những “xung đột” tưởng ác liệt mà thực chất là hoà hợp vui vẻ.

 

Nguyên ở hợp tác xã Nam Hoà , “sau khi rỡ khoai mùa xong, có hai chục hộ gửi đơn thẳng lên trung ương khiếu nại về đời sống khó khăn , thu hoạch quá thấp , xin được ra ngoài làm ăn, nhưng vẫn “trung thành với Đảng, với chủ nghĩa xã hội”.

 

Thời nay, bà con nông dân làm đơn khiếu kiện là chuyện thường ngày , nhưng thời đó – làm đơn lên thẳng trung ương xin ra hợp tác xã là chuyện tày trời, kinh khủng, chắc do phản động xúi giục.

 

Bởi vậy ngay lập tức , chủ nhiệm hợp tác xã triệu tập họp Ban quản trị và các hộ đã nộp đơn xin ra khỏi hợp tác. Người đọc chờ đợi ông nhà văn qua sự kiện này vạch mặt bọn cường hào mới ở nông thôn, ăn cắp tài sản hợp tác xã , chèn ép và bóc lột sức lao động, đẩy người dân vào nghèo đói cùng cực khiến họ phải vùng dậy phản kháng, qua đó chứng minh đường lối xây dựng hợp tác xã của Đảng là sai lầm nghiêm trọng.

 

Lẽ ra nhà văn trung thực phải làm được chuyện đó. Tiếc thay, ông Nguyễn Khải làm ngược lại. Ông bôi xấu những người khiếu kiện, ông mô tả một trong những người đầu đơn xin ra hợp tác đó lại là một tên “ ăn mặc kỳ quái. Hắn ta khoác lên người không phải cái áo mà là những mảnh giẻ, một cái quần không ra chùng, không ra cộc vá víu hàng chục mụn, và cái thằng vô giáo dục đã không biết giữ liêm sỉ , khi cái phần đáng lẽ ra phải giấu kín thì nó lại phơi bầy ra trước mắt mọi người…”

 

Ông nhà văn đã dựng chân dung người phản kháng, xin ra khỏi hợp tác là một thằng lưu manh, chày cối như vậy đấy. Tệ hại hơn nữa, hắn nghèo đói nhưng không phải do hợp tác xã gây ra mà chính là do …cờ bạc. Ta hãy nghe bà chủ nhiệm kể tội hắn :

 

Chúng tôi còn có khuyết điểm là đã để anh thua bạc phải gán nợ hàng tạ thóc đến nỗi vợ con anh phải đói.Lại không biết khuyên anh thôi rượu, thôi chè chén, thành thử trong lưng anh bây giờ không còn lấy được vài đồng đong gạo cứu đói…

 

Nguyễn Khải coi những kẻ làm mất trật tự trong hàng ngũ đó chẳng qua là đám “giòi bọ”. Ông thừa nhận tuy có những người xin ra khỏi hợp tác xã nhưng đó là bọn cờ bạc, lưu manh ở nông thôn chứ không phải nông dân làm ăn lương thiện.

 

Để chứng tỏ thêm chủ trương hợp hóa nông nghiệp của Đảng là đúng đắn, sáng suốt , Nguyễn Khải “bịa” thêm một nhân vật xin ra hợp tác xã : lão Hoá – một nông dân cách mạng nòi, đã từng đào hầm cứu sống Chủ tịch huyện hồi chống Pháp. Ô hay, một hạt nhân tích cực của Đảng vậy sao xin ra hợp tác ? Người ta cứ tưởng nhà văn Nguyễn Khải phát hiện ra một “lỗ hổng” trong chính sách hợp tác hoá buộc xã viên phải nộp đơn xin ra sẽ dẫn tới nguy cơ tan vỡ hợp tác xã. Nhưng không phải vậy, ông nhà văn đã “làm động tác giả” để kích thích trí tò mò độc giả, tăng phần hấp dẫn cho cuốn sách đó thôi.

 

Hoá ra ông già Hoá và một số xã viên làm đơn xin ra khỏi hợp tác xã không phải vì “bất mãn chế độ” mà ngược lại, chính là để đòi cán bộ hợp tác xã thực hiện đúng ..chủ trương chính sách Nhà nước.

 

Nguyên vùng này có nhiều đất vườn có thể gieo trồng, chăn nuôi nhiều thứ , giá trị hơn cả ruộng khiến “ người ta có thể trao cho hợp tác xã tất cả đất ruộng của mình , nhưng cốt tử phải giữ lấy mấy sào vườn…. Bởi vậy xã viên chỉ chăm chút vào mảnh vườn riêng lơ là ruộng chung. Rồi thì phân bón của hợp tác xã cũng chạy vào mảnh vườn riêng.

Đứng trước “mầm mống tư hữu” trỗi dậy , ông lão Hoá và một số xã viên “tiên tiến” đã đấu tranh với cán bộ đòi uốn nắn tư tưởng xã viên, yêu cầu họ phải coi trọng ruộng đất chung trong hợp tác quan trọng hơn mảnh vườn riêng . Tuy nhiên do cán bộ cũng có “mảnh vườn riêng” nên yêu cầu đó không được thực hiện , bởi vậy họ bày mưu làm đơn ra khỏi hợp tác xã để gây áp lực buộc cán bộ thực hiện đúng chủ trương của Đảng và chính phủ mà thôi.

 

Trong “ Chủ tịch huyện”, Nguyễn Khải đã bịa ra một loại nhân vật giả, xã viên hợp tác xã “cách mạng hơn cả Đảng”, “mác xít hơn cả người cộng sản”.


 

Thực ra tại các hợp tác xã, các địa phương cán bộ Đảng không hề bị kiểm tra, kiểm soát bởi báo chí hoặc bất kỳ cơ chế quyền lực nào khác nên chúng ra sức tự tư tự lợi, ăn chặn ăn bớt xã viên, ăn cắp công quỹ. Sự sa đoạ , xuống cấp của cán bộ đã xảy ra từ rất lâu, từ thời bắt đầu xây dựng hợp tác xã nông nghiệp ở nông thôn.

 

Tuy nhiên trong các tiểu thuyết của Nguyễn Khải, cán bộ tỉnh, huyện, xã, thôn xóm đều là “đầy tớ tận tuỵ của dân’, lặn lội đồng ruộng giúp dân nâng cao năng suất. Như ông “bí thư tỉnh uỷ” đi sâu đi sát nhân dân, vào tận buồng riêng nhà người ta cắt đặt việc gia đình, ông Chủ tịch huyện ăn ở lẫn lộn với cán bộ, nghe tin ở đâu có hiện tượng xã viên xin ra khỏi hợp tác xã là phóng xe xuống bất kể ngày đêm. Cán bộ xã thì “từ mờ sáng tới nửa đêm : mồm nói , chân chạy, xem xét, hỏi han, tranh cãi, la hét , cáu giận , ngọt ngào , thôi thì đủ…”.

 

 Càng đọc “Chủ tịch huyện” người ta càng nhận rõ cảm hứng chủ đạo là “ca ngợi một chiều”, là thực hiện đúng nhiệm vụ ”tuyên truyền cho đường lối chính sách của Đảng” Bởi thế tác phẩm nhanh chóng rơi vào quên lãng. Khi nhiệm vụ chính trị qua đi, tác phẩm “phục vụ kịp thời” cũng chết theo. Đó là “số phận” của những tiểu thuyết viết về nông thôn Việt Nam của Nguyễn Khải.

 

Suốt cả cuốn “ Chủ tịch huyện”, cán bộ từ thôn xã lên tới huyện tỉnh, anh nào anh nấy hai bàn tay đều sạch bong , nhất mực chỉ “vì Đảng vì dân” không mảy may tơ hào công quỹ lấy một cân gạo, không nhũng nhiễu ăn tiền của dân lấy một đồng bạc. Có lẽ “tô hồng” quá đáng vậy sợ bạn đọc cười, Nguyễn Khải “liều mình” dựng lên một ông Chủ tịch xã tự tư tư lợi, lợi dụng chức quyền ăn tiền của dân . 

 

Nguyên ở xã Hoà Trung có lái buôn tên Đào đề nghị Chủ tịch xã mua giúp cái dầm cầu xã bỏ đi để làm cột nhà giá có 200 ngàn nhưng lại đưa những 300 ngàn, coi như “biếu” Chủ tịch xã chỗ chênh lệch.

 

Chuyện “tham ô” của Chủ tịch xã chỉ có thế, rất may, “đồng chí Bí thư Đảng uỷ xã” đã có mặt kịp thời, phân tích cho Chủ tịch xã “nhận ra sai lầm” , trả lại tiền cho lái buôn, nhờ vậy vẫn giữ được phẩm chất cán bộ cộng sản."

 

Thế là một lần nữa Nguyễn Khải “làm động tác giả” khi mon men tiến gần tới cái cốt lõi của cán bộ Đảng ở nông thôn : máu tham ô, bòn rút của công. Tiếc thay, “Chủ tịch huyện” hoàn thành vào tháng 2 năm 1971 khi bộ mặt của “cán bộ mua đài mua xe” đã lộ ra gớm ghiếc, khi bất công xã hội đã trở nên sâu sắc, khi “chợ vua quan” và “chợ nhân dân anh hùngmỗi ngày một cách biệt, vậy nhưng ông nhà văn vẫn nhắm mắt, bưng tai không dám nhìn, không dám nghe những xấu xa, đồi truỵ của đám quan lại cán bộ này, vẫn hết lời ‘bốc thơm” chúng.

 

Kết thúc cuốn truyện , ông nhà văn đặt vào mồm Chủ tịch xã trẻ và Chủ tịch huyện già những đối thoại “ca ngợi “ không còn biết xấu hổ .

 

Chủ tịch xã :

 

“ …khó khăn mấy rồi cũng vượt qua được cả thôi . Thế hệ cha anh đã đánh thắng bọn xâm lược Pháp , thì thế hệ chúng em sẽ đánh thắng bọn xâm lược Mỹ. Chắc chắn là như thế…”.

 

Chủ tịch huyện :

 

“Chắc chắn phải là như thế…”

 

Chủ tịch xã :

 

“ …cái khó nhất là đoàn kết được với nhau, không có gì phải ngờ nhau , phải đối phó với nhau thì việc gì cũng làm được . làm được hết…”

 

Chủ tịch xã nói năng như …bác Hồ kêu gọi “đoàn kết, đại đoàn kết” . Kết thúc cuốn tiểu thuyết, ông nhà văn còn cho Chủ tịch huyện phát biểu một câu thật “lãng mạn”…cách mạng :

 

Nói cho cùng, cái thử thách lớn nhất, phức tạp nhất vẫn là tự mình vượt qua mình. Ngoài ra những khó khăn khác, những thử thách khác đều không đáng sợ, có phải không, đều không có gì đáng sợ…”

 

Tuy nhiên, thử thách lớn nhất, phức tạp nhất với các cán bộ chẳng phải vượt qua chính mình mà là vượt qua…cái ghế của mình . Bởi thế họ phải trui rèn phẩm chất … bất nhân, gian manh và đểu cáng giẫm đạp lên nhau mà leo cao. Thực ra cái khó vượt nhất trong con người cán bộ chính là máu tham, nhu cầu hưởng thụ , vượt qua được cái “máu” đó còn khó hơn con voi mượn cánh con bướm bay qua đại dương.

 

Cha và con và…

 

Hồi tháng 2 năm 2006, nhà văn Nguyễn Khải trả lời phỏng vấn báo Tuổi Trẻ .

 

” Nếu người ta gọi ông là nhà văn thời sự thì ông buồn hay vui ?” và “ thời sự hình như không mấy tương đồng với sức sống lâu dài của một tác phẩm. Chủ quan mình, ông nghĩ tác phẩm nào của mình sẽ có được cái lâu dài ấy ?”

 

Nhà văn Nguyễn Khải sốt sắng trả lời :

 

“ Nhiều tác phẩm hay đã được bắt đầu từ những bức xúc rất nhỏ của một “chuyện hôm nay”, của cái “bây giờ” nhưng vẫn làm nhiều thế hệ bạn đọc xúc động…Phần mình, tôi nghĩ “ Một cõi nhân gian bé tí”, “ Cha và con và…”, “ Điều tra về một cái chết “ cùng một số truyện ngắn của tôi có được cái thân phận ấy của con người…”

 

Vậy là trong vài chục tác phẩm, Nguyễn Khải đã chọn “ Cha và con và…” là một trong vài tác phẩm ông cho rằng có thế để đời, còn lại mãi với thời gian. Viết xong vào tháng 8 năm 1978 , xuất bản ngay trong năm, dày vỏn vẹn chừng 200 trang và sách vừa in ra đã được “phê bình gia” Vương Trí Nhàn bốc lên mây xanh trên báo Văn Nghệ với cái tựa to tát :” Cha và con và…triết luận về tôn giáo và chủ nghĩa xã hội “.

 

Ghê gớm chưa ?

 

Vậy giá trị thực của cuốn truyện này ra sao ?

 

Cha và con và…” lại cũng xoay quanh chủ đề ‘bôi bác nhà thờ” như hai tập tiểu thuyết “Xung đột”. Đó là câu chuyện về một linh mục trẻ, mới ngoài ba mươi, tên Thư được Toà Giám mục cử về “nhậm chức thầy cả” ở xứ Nhất. Về địa phương, trước hết cha phải tới trình diện chính quyền xã. Cái cách đối xử của cán bộ uỷ ban làm cha không được vui, phàn nàn với ông chánh trương :

 

“ Cả cái uỷ ban của các ông nữa. Họ để tôi leo cả mấy bậc thềm , tự bước vào trong nhà, tự đến trước bàn giấy của bà Chủ tịch ngả mũ chào, rồi bà ta mới đứng lên chào lại. Bà ta là Chủ tịch thật nhưng còn là con chiên của Chúa. Chúa chiên đến mà con chiên dám xử sự vậy sao ?”

 

Tuy nhiên, đó mới chỉ là nỗi phiền lòng đầu tiên ông cha trẻ gặp phải khi tới nhậm chức ở vùng đất mới. Chờ đợi ông ta ở phía trước còn vô số những “ chọc phá”, những ‘đòn phép” bổ vào đầu ông mà đau đớn thay không phải từ phía chính quyền vốn “thù địch “ với nhà thờ , mà lại từ phía những con người thuộc phe ông – những linh mục già, chánh trương, trùm trưởng, con chiên …luôn luôn giăng bẫy trên đường đi tới của cha linh mục trẻ mới nhậm chức.

 

Trước tiên, cha linh mục trẻ phải tới gặp cha linh mục già để nhận “bàn giao”. Mới qua vài ba câu chuyện, cha trẻ đã nhận ra tính cách xỏ xiên của cha già :

 

“ Lạy Chúa ! Tại sao ông già này lại nói nhiều về sự yếu lẫn của mình. Ông già ấy định giăng cái bẫy nào đây ?” Lời nói như gan ruột , nhưng cái miệng thì bỡn cợt , con mắt thì hấp háy, biến ảo quá chừng “

 

Cha trẻ cúi mặt thở dài rất nhỏ, lái câu chuyện sang hướng khác…’

 

Một cha trẻ mới ngoài 30 tới nhậm chức, một cha già ngoài 80 sắp về với Chúa phải rời chức. Hai cha đối xử với nhau thật chẳng khác gì hai quan cán bộ trẻ già hằm hè nhau khi bàn giao ghế.

 

Hành hạ “cha trẻ” vậy nhưng “cha già” vẫn chưa chịu buông tha. Tới bữa ăn “cha già” còn “quay” một hồi nữa khiến “cha trẻ” cảm giác “bữa cơm kéo dài như một hình phạt. Chẳng phải vì một già một trẻ , một cũ một mới , một cha quản hạt và một cha mới nhậm chức, mà còn vì một cái gì khác nữa, chưa rõ rệt , rất khó dò tìm đã khiến vị linh mục trẻ mất hẳn phương hướng đối đáp trong những mẩu chuyện vặt vãnh không đầu không đuôi…”

 

Thoát được “cha già” , “cha trẻ” được phái về xứ Nhất nơi còn biết bao nhiêu điều phiền tạp chờ đợi cha. Trước hết, “ lễ nghênh tiếp vị chủ chiên của ban hành giáo hàng xứ rất đúng phép tắc , nhưng gượng gạo, vênh váo…”. Lẽ ra theo thông lệ, cuộc tiếp rước phải “ cờ phướn, có chè chén, tối có đánh bạc” nhưng chính quyền không cho phép. Chỉ còn lại “ những trình bẩm, ban truyền, những ân sủng, kính cáo , toàn những chữ nghĩa đã chôn đi, đã quên đi từ đời kiếp nào , nay phải móc lên cả lượt.”. Cái cảnh ông già bà cả cung kính chào cha chăn dắt linh hồn được ông nhà văn riễu là “ ông già cúi người trước một chàng trai trẻ, xưa là thế , vì nó còn là con vua cháu chúa, còn nay mà thế tự nghĩ cũng ngược lẽ, cũng nực cười…”


 

Không biết nghĩ tới thời cả dân tộc phải gọi một “ông trẻ” mới ngoài 50 bằng “bác” xưng cháu, Nguyễn Khải có thấy “nực cười” như vậy chăng ?

 

Trong đám rước đón cha, có ông trùm họ An Cựu, “đội khăn xếp, áo thâm dài, đi giày mũi nhọn, lại cắp cả ô nữa mà trời vẫn nắng ráo” liền bị chê cười “Ông trưởng khu lên hầu cụ lớn đấy à ?”. Để biến việc đón rước cha thành một vở hí kịch, ông nhà văn cho ông trùm An Cựu đi tới trước mặt cha “ quỳ hẳn gối vái một vái , ông hổn hển đứng dậy vái thêm một vái nữa và cứ bước giật lùi” , chẳng ngờ “ gót giày lại dẫm ngay vào bàn chân bà trưởng hộị khấnkhiến bà đang véo von chúc thày cả liền kêu thét như bị ai cấu, dùng cả hai tay ấn mạnh ông trùm ra một bên, miệng nói the thé : Mắt mù hay sao mà giẫm nát cả chân tôi”

 

Bôi bác kiểu “hề chèo“ vậy thật thô thiển và tiểu nhân . Chưa hết, khi con chiên còn đang xúm xít đón cha Thư thì “ một tiếng gọi hết sức bất ngờ , hết sức rành rẽ :” Anh Thư”. Cả mọi người chết lặng vì tiếng gọi quá sức láo xược của một đứa nữ nào đó…”. Gọi tên cúng cơm của cha bằng “anh” ngay giữa lễ đón tiếp, lại do giọng nữ rất âu yếm thì quả bằng trát bùn vào mặt cha giữa lúc linh thiêng, long trọng nhất. Thế là cả đám rước biến thành một đám trò . “Trong nháy mắt , những tiếng cười bị dồn nén luồn lỏi khắp các nhóm người , đến nỗi các chức dịch hàng xứ đứng hầu cha cũng không dám ngước nhìn vị chủ chăn, e rằng chính mình cũng khó giữ được sự kính cẩn cần phải có. …”

 

Dùng chuyện “trai gái’ bôi bác linh mục là một trong những “sở trường” của Nguyễn Khải. Khi có tiếng người nữ gọi tên cha âu yếm như vậy, lập tức ông trùm An Cựu “làm ra vẻ bầy tôi sốt sắng “ hò hét :

 

Các người bị ma ám quỷ xui cả sao dám hỗn láo thế ? Đứa nào gọi tên cha trước ? Đứa nào ? Là con cái nhà ai để tôi thưa với cha phạt nó. Nó là đứa nào ?”

 

Thật chẳng ngờ đứa con gái đó lại là thị Thảo, con gái của chính ông làm “đám đông cười vỡ ra. Họ không dám cười linh mục mà chỉ cười cha con ông trùm An Cựu nên có thể cười thật thoả thuê” làm ông trùm trợn mắt :

 

“Chúng bay đừng có bỏ vạ cáo gian mà sa xuống hoả ngục đời đời. Nhà tao mấy đời thờ phượng Chúa…”

 

Lại cười , cười như thể đang xem vở tuồng, vở chèo gặp một vai đắc ý. Rồi họ nói chen vào như nói đế :

 

“ Đời ông chỉ biết thờ Chúa, chứ con gái ông chỉ biết thờ các cha thôi…”

 

Đám đông vỗ tay tán thưởng màn kịch cương, lời lẽ đã hay mà vai diễn cũng hay…”

 

Than ôi, ở một xứ công giáo toàn tòng như Bùi Chu, Phát Diệm liệu có cái cảnh con chiên đón tiếp đức cha linh hồn về xứ mình hỗn xược như vậy chăng ? Ông nhà văn Nguyễn Khải quả đã khéo xuyên tạc, biến lễ nghi trang trọng của người ta thành trò hề rẻ tiền

 

Cô Thảo, con gái ông trùm An Cựu đã cả gan gọi tên cúng cơm của cha giữa đám đón rước, về nhà còn chớt nhả với bố :

 

“Ông cụ mới tới nom trẻ đẹp quá, bố ạ…chúng con chỉ thích xem người chứ không xem lễ…”

 

Ông bố chửi :

 

“ Con nhà vô phúc, rồi mày kéo cả bố mẹ xuống hoả ngục với mày thôi…”

 

Nó toét miệng cười :

 

“Xin mời các cụ lên thiên đàng hầu Chúa, còn con xin đi theo cha xuống hoả ngục?”

 

Bịa ra con gái một ông trùm đạo cả gan mang đấng chăn chiên ra bỡn cợt ngay cả với bố mình , quả thật ông nhà văn đã tìm ra một hình ảnh quá sinh động diễn tả sự suy đồi của đạo Thiên Chúa tại một xứ toàn tòng. 

 

Công việc đầu tiên của cha mới là xem xét “bình Mình Thánh, chén đĩa, chân đèn, ảnh tượng, khăn bàn, khăn thánh…”. Buồn cho cha, chẳng có vật gì ưng ý, “tất cả đều cũ kỹ, sứt vỡ, hôi mốc, khập khiễng như nhà vắng chủ đã lâu ngày…”. tâm sự cha trẻ lúc này thật ngao ngán “một ông linh mục quá già, một đàn chiên quá đông, thế tất việc chăm sóc phải biếng, sự giảng dậy phải nhác…Công lao vun trồng vườn nho của Chúa suốt mấy chục năm của các đấng bậc đi trước , rút lại tay không ?”.

 

Ôi chết chết, cứ như diễn tả của ông nhà văn thì quả Thiên Chúa giáo đã đến thời mạt đạo. Gia sản “cha già “ để lại cho “cha trẻ” quá èo uột”, cái trách nhiệm gây dựng lại việc đạo cha trẻ phải gánh vác quá nặng nề. “Gai góc lại mọc đầy như thủa ban đầu và dây leo đã sắp bịt kín cả ảnh tượng. Người kế nghiệp trẻ tuổi sẽ bắt đầu công việc khai phá từ đâu ?”

Nếu thực sự công giáo trở lại thời vua Tự Đức vậy thì không thấy ông nhà văn chỉ ra ai đã gây nên tình trạng hoang tàn vậy mà chỉ thấy ông cảnh báo linh mục :

 

Nhân nhượng với đời hay hay đối mặt với đời ? Hoặc giả có việc phải đối mặt và cũng có việc phải nhân nhượng ? Là người anh em tốt mà vẫn là người chăn dắt tốt. Cười vui với tất cả mà vẫn chỉ huy được tất cả. Đã có giáo sĩ nào trong địa phận biết dung hoà lề luật của nhà Chúa với lề luật của thế tục chưa ? Chưa một ai thì phải. Người được toà giám mục hài lòng thì chính quyền căm ghét. Người được chính quyền chiều chuộng thì Tòa giám mục phải đề phòng. Hoặc là đầu này hoặc là đầu nọ, tìm được một chỗ đứng vững chắc ở quãng giữa thật khó lắm thay…”

 

Nguyễn Khải coi mối quan tâm lớn nhất của linh mục là làm sao dung hòa Tòa thánh và Nhà nước để giữ vững cái ghế linh mục chứ chẳng phải chăm lo phần hồn cho con chiên. Vậy khác nào “lấy dạ tiểu nhân đo lòng quân tử “, lấy Chủ tịch huyện mô tả cha xứ ?

 

Nhận định về mẹo xử sự giữa cha cố và chính quyền này đã được nhà phê bình quốc doanh Vương Trí Nhàn nâng lên thành “triết luận về tôn giáo và chủ nghĩa xã hội “? Phình bụng quá cỡ vậy không khéo vỡ bụng ếch mất thôi .

 

Ngày làm việc đầu tiên, cha Thư như bị dội thùng nước lạnh khi gặp người giúp việc thân cận nhất của mình : ông chánh trương xứ vì “ông ta già quá , ốm yếu quá , kèm nhèm và ngu tối thế nào ?”. Và lạ chưa, câu chuyện đầu tiên giữa hai người lại là …tranh luận về cải cách ruộng đất xoay quanh chuyện cụ Thượng trong làng, bỏ tiền xây cất mấy cái nhà thờ sau bị cách mạng xử lý. Ông linh mục nói :

 

“Địa phận ta còn mắc nợ với Ngài nhiều lắm…”

 

Ông chánh trương cãi :

 

“ Thưa cha ông ấy còn mắc nợ chúng con rất nhiều…”

 

Ông cha trẻ gườm gườm nhìn người giúp việc :

 

“ Ruộng đất của người ta, cơ nghiệp một đời của người ta một sớm một chiều mất sạch . Thế còn chưa đủ khổ sở ư ?”

 

Ông chánh trương nói nhỏ nhưng bướng bỉnh :

 

“ Cái khổ cả trăm gia đình chẳng ai biết đấy là đâu. Cái khổ của một nhà lại như chiều ai oán. Cũng là tôi tớ của Chúa mà…”

 

Người đọc không khỏi buồn cười cái nhân vật “chánh trương” này nói năng chẳng khác gì Bí thư xã. Vậy chắc ông là “chánh trương quốc doanh” Nhà nước cài vào Nhà thờ ?

Mang tiếng là “cánh tay phải”, là người giúp việc thân cận cho cha, không hiểu sao vừa mới gặp, ông chánh trương đã giở giọng khủng bố tinh thần :

 

Thưa cha , năm nay con đã bảy chục tuổi, đã hầu hạ cha già trọn bốn mươi năm…Mắt con đã nhìn nhiều sự đổi thay, người ta hợp nhau rồi người ta lại chia nhau ra . Hôm qua là cha là con , hôm sau có tao không mày . Hôm qua chén chú chén anh, hôm sau nhét rọ buông sông. Đời người biến ảo khôn lường, một sớm một chiều chưa thể biết được…”

 

Mới chân ướt chân ráo về giáo phận cha trẻ đã bị cha già răn đe muốn điên đầu, nay lại gặp ông chánh trương buông giọng bí hiểm, doạ nạt về cái sự khó ở đời . Những tưởng ra trường sẽ cùng người nhà Chúa xắn tay áo làm việc đạo , ai ngờ như lạc vào trận đồ bát quái, xung quanh là cả một rừng gươm giáo.

 

“ Cha trẻ đưa tay lên che mặt, đầu óc quay cuồng , ông rên rỉ :

 

“ Khó hiểu quá ! Các ông nói gì với tôi mà khó hiểu vậy ? Tôi chỉ xin các ông một điều : nếu xứ này còn cần linh mục thì tôi ở lại, dẫu khổ hạnh thế nào tôi vẫn cứ ở. Bằng không thì trả tôi về tòa Giám, đừng dùng mưu mẹo làm nhục tôi , bức hại tôi…”.

 

Ôi chao, đấng chăn chiên, đức cha tinh thần của cả chục ngàn giáo dân lại đau buồn, bế tắc “ mùi mẫn” như chàng trai si tình bị người yêu ruồng rẫy :

 

Và, lạy Chúa, con chỉ ước nguyện sẽ được nằm ở cái giường đơn sơ kia mà trút hơi thở cuối cùng trong vòng tay âu yếm của Chúa”…Cha xứ đã cởi áo, buông màn và nằm xuống, hai tay chắp ngang bụng, thổn thức vì những ý nghĩ thương cảm xa xôi, miệng khẽ gọi những tên cực thánh : Giêsu – Maria – Giuse…”

 

Liệu một đấng chăn dắt linh hồn của cả một giáo phận có dễ “tủi phận mình”, thổn thức như một anh đồng cô ẽo uột vậy chăng ?

 

Xây dựng nhân vật cha Thư ngây ngô, ngớ ngẩn như vậy trách gì các “sự khó” cứ ùn ùn kéo tới. Sau khi cả gan gọi tên cúng cơm cha trong buổi tiếp rước, con gái chánh trương lại xin gặp riêng cha với tư cách trưởng hội hát.. Ông cha trẻ chưa trải đời chấp thuận để cô cùng hội hát quyên góp may áo lễ mới cho cha . Mặc dầu các cô đã dặn nhau “ Không được nói lại với ai đấy nhá ! Cấm đấy nhá…” nhưng chỉ thời gian sau cả xã đã biết chuyện, gây ra bao tai tiếng làm ông Chủ tịch mặt trận xã phải tìm tới ông chánh trương phàn nàn :

 

Tôi nghe con mẹ Tộ vừa la vừa khóc : vậy là mày giết tao. Đứa nào xui mày ? Thằng nào con nào xui mày để tao băm vằm nó ra ?...Chúng nó chim chuột dăng dện nhau thì mặc mẹ nó chứ , hà cớ gì lại khéo dỗ mày. Mày ăn cơm hay ăn cứt mà dại dột thế ?”

 

Hoá ra con gái bà Tộ lấy bông tai quyên góp may áo mới cho cha làm bà ta chửi toáng :” Đã có ông linh mục nào đến xứ này mà chê tiền không ? Mà chê gái không ? Tôi cũng là người có đạo tôi không nói vu cho ai bao giờ…” Cha quản hạt thì sao ? “ – Rụng hết răng thì còn ăn gì được , giả thử còn đủ cả hai hàm chắc cũng chẳng từ…”.

 

Ở giữa một xứ đạo toàn tòng, liệu có một mụ đàn bà oang oang chửi cả cha trẻ lẫn cha già như mất gà mà kẻ cắp lại chính là… các cha không ? Hay nhà văn mượn mồm đàn bà bôi xấu linh mục ?


 

Ông chánh trương chẳng những không bênh vực , bảo vệ lại còn tố cáo cha :

 

Cái ông ấy ( tức cha Thư) đến là dại. Lại còn không biết nó ( thị Thảo) là ai mà dính vào…Lần đầu nó xin gặp cha còn nài tôi cùng ngồi. Mấy lần sau chả thấy ông ấy lý gì tới mình nữa. Không biết đâm mù con mắt xác thịt thì có ngày hỏng…”

 

Chủ tịch Mặt trận nhân đó riễu cha :

 

“ Da thịt nó như thế, môi mắt nó như thế, thánh năng ngồi gần còn có khi cháy huống hồ là cha…” 

 

Cứ như thế kẻ tung người hứng, một bên là đại diện nhà thờ, một bên là đại diện chính quyền ra sức bôi bác cha. Tất nhiên việc mấy cô hội hát quyên góp may áo cho cha như vậy là tan , “ thị Thảo phải hoàn lại đôi hoa cho mẹ con bà Tộ. Các nhà góp tiền mua áo lễ cũng lần lượt kéo tới đòi tiền về…”. Mọi lời đàm tiếu tất nhiên chĩa cả vào cha xứ làm “ cha Thư khi được hay mọi chuyện liền đóng cửa buồng ở lì trong đó cả tuần lấy cớ cảm cúm.”. Từ đó, mỗi lần làm việc với chánh trương , cha xứ gọi thêm người trong ban hành giáo dự ” khỏi mặt đối mặt với ông già nham hiểm quỷ quái…” .

 

Cái “sự khó” dường như luôn luôn đuổi theo cha Thư . Cơn ông chưa qua cơn bà đã tới. Một hôm cha Thư nhận được thông tư của Toà Giám mục chỉ thị các xứ đạo tổ chức “ bách chu niên đức cha Phước dâng địa phận Tây đàng ngoài trong tay Đức Mẹ ”. Cha Thư tìm tới cha già quản hạt bàn việc tổ chức không ngờ ông này …bàn lùi :

 

Đức cha Phước là tên gọi Việt Nam , còn tên chính của ngài là Puginier …năm ấy, đức cha lại nhận lời ông Ngạc Nhi * đi làm thông ngôn trong cuộc đàm phán giữa người Pháp với các quan giữ thành. …”

 

Hoá ra cha già quản hạt lại là “người yêu nước” , ông kết tội cha làm ‘thông ngôn” cho Pháp chiếm thành Hà Nội . Bởi vậy thật bất ngờ, cha già thở ra giọng “địch vận” lôi kéo cha trẻ về “tình yêu nước” :

 

“ Mình là người có đạo thì phải nghĩ theo cách nghĩ của hội thánh. Nhưng mình còn là người Việt Nam nữa nên khó…”

 

Nghe vậy, lẽ ra cha trẻ phải phản ứng, bảo vệ đức tin , không ngờ chỉ “cúi đầu, thầm nghĩ đau đớn :” Vâng, đúng thế, đúng là thế. Người có đạo là người có tội, tội truyền kiếp, tội của tổ tiên…”

 

Thái độ khiếp nhược của cha trẻ làm cha già dấn tới :

 

Đạo của Chúa đến cùng một lúc với giặc giã kéo đến . Các cố đứng trong đám giặc mà truyền đạo . Người theo đạo thì không thể nghĩ đến nước. Đã nghĩ đến nước thì rất khó theo được đạo…”

 

Nói năng sặc mùi “ khinh chúa yêu nước” vậy , ai dám tin là lời lẽ linh mục già quản hạt. Choáng váng vì những lời lẽ “báng bổ” phát ra từ miệng cha quản hạt, ông cha trẻ phải thốt lên :

 

Lậy Chúa, vậy chúng con phải làm gì ? Bất tuân toà giám cũng có tội như bất tuân chính quyền…”

 

Cha già quản hạt không những không động viên cha trẻ giữ lấy đức tin mà còn cả gan “chửi xéo” đức Thánh Cha :

 

Đức Thánh Cha ở chỗ cao xa , Ngài không thể biết hết được những khổ đau của người dân ở xứ này. Ngài chưa thể biết hết lịch sử truyền giáo ở xứ này …”

 

Những lễ nghi của nhà thờ thường được quy định chi tiết và thực hiện tôn nghiêm. Ấy thế mà ông nhà văn cũng biến chuyện đó thành…trò hề. Nguyên cha tổng quản địa phận gửi giấy về các xứ nhắc lại lễ nghi chầu phép lành quy định :” ra đền thờ bái một lần, lên trải khăn thánh, mở cửa nhà chầu bái lần nữa. …”. Cha trẻ hỏi cha già đã đọc giấy quy định chưa, cha lắc đầu bảo chưa rồi lên giọng khinh khỉnh, coi như chuyện tào lao :” Bái bốn lần hả ? Ừ thì là bốn lần . Chắc là mọi khi cũng bái đủ cả bốn lần…”

 

Thái độ vừa báng bổ vừa coi thường phép tắc nhà Chúa của cha già làm cha trẻ phải coi ông ta là “ Một ông già đã quá tuổi làm lễ, đã rất hay quên, đã chẳng còn hiểu mình nói gì và sẽ nói những gì…”. Tuy nhiên cha trẻ nhận ngay ra nhận xét thế là sai “ Nhưng…hình như không phải là thế, hoàn toàn không phải là như thế…”

 

Không phải thế thì hẳn là một lão già quỷ quyệt, nham hiểm khoác áo linh mục phá nhà thờ. Dưới ngòi bút Nguyễn Khải, hai linh mục - cha già và cha trẻ hiện ra như hai địch thủ luôn rình rập triệt nhau chứ chẳng phải cùng “con cái Chúa” hoặc cùng đấng chăn chiên. Sự thực có thế không ?

 

Quả đắng tiếp theo cha trẻ phải nhận là ông trùm đạo An Thuận nhân việc toà Giám mục cấp sắc cho lập xứ đạo riêng đã tổ chức quyên góp chè chén linh đình và đổ hết trách nhiệm cho cha trẻ. Rất may được ông chánh trương mật báo, ông cha trẻ đã kịp thời ngăn được việc đầy tai tiếng đó và than trời :” Ai cũng xấu cả thì tôi biết san sẻ công việc với ai ? …Cái miệng lưỡi con người ta gian ngoan thật…”

 

Tuy nhiên bản lĩnh linh mục của cha trẻ thực sự bị thử thách là trong việc thay mặt nhà thờ làm chứng cho một cặp vợ chồng trẻ. Anh chồng là bộ đội ở mãi “vùng ngoại vi Saigòn. Bị thương rồi mới chuyển ra đây…”, chị vợ cũng là cán bộ. Anh bộ đội được nghỉ phép 15 ngày để lấy vợ, khi tới xin cha làm chứng thì đã qua mất 5 ngày, bởi vậy anh rất muốn cha viết giấy “làm chứng “ ngay để hôm sau tổ chức lễ cưới tại nhà thờ. Tuy nhiên, theo luật của hội thánh , cha vẫn phải hỏi :

 

“ Hai người đã chịu phép rửa tội tại xứ họ nào ?”

 

“ Gia đình con vốn ở Lạc Hải , mới về xã được có mươi năm…”

 

Cha Thư hắng giọng :

 

“ Vậy chị phải xin với cha chánh xứ ở bên đó tờ chứng đã làm phép rửa tội…Phải đã chịu đủ các phép bí tích từ khi lọt lòng tới tuổi lớn không mới có thể cho chịu phép cưới. Luật lệ của Hội Thánh đã định thế …”

 

Vậy vẫn còn chưa xong, sau khi đã có hai cái giấy chứng đó rồi thì còn phải dự…khảo kinh nữa. Lúc này “anh bộ đội” mới lên tiếng :

 

Xin thú thật với cha, cả hai chúng tôi đều đi công tác đã lâu, kinh bổn chắc là không còn thuộc…”

 

Cha xứ điềm nhiên :

 

“ Nên học lại , vốn đã thuộc thì học lại cũng mau chứ ?”

 

“ Chúng tôi chỉ còn ít ngày phép. Một trăm thứ việc đồn lại trong mấy ngày, xin cha thông cảm cho…” 

 

Cha xứ vẫn quyết liệt :

 

Nếu không theo đúng những luật Hội Thánh đã buộc, dẫu làm phép cũng không thành…”

 

“ Anh bộ đội đưa cặp mắt nhọn nhìn soi mói ông cha đạo từ đầu tới chân như nhìn một giống người xa lạ, trong giọng nói đã có sự thách đố ngấm ngầm . Anh lên giọng :“ Chúng tôi đi chiến đấu không dám kể công với những người ở hậu phương, nhưng ở nơi sống chết mới biết bỏ qua những chuyện vặt vãnh…”

 

Cha xứ cũng giương mắt nhìn lại :

 

“ Đối với người có đạo thì hàng ngày xin ơn Chúa, tỏ lòng tin, cậy, mến Chúa là việc hệ trọng nhất…”

 

Hai người nhìn nhau gằm ghè…

 

Thật không ở đâu, ngày giữa nhà thờ , lại có thứ con chiên hỗn hào với cha xứ đến vậy . Hơn nữa, anh bộ đội lên giọng riễu cợt :

 

“ Giả thử chúng tôi đều trúng tuyển qua kỳ khảo thi của cha thì điều kiện tiếp theo có phải là bỏ quân ngũ không ?”

 

Vậy là anh con chiên mặc áo bộ đội đã không ngần ngại úp lên đầu cha xứ một cái nón cối tổ bố : ép tín đồ đào ngũ, bỏ bộ đội. Và sau cùng, “ anh ta vẫn không rời mắt nhìn ông thầy tu, vành môi trên hơi nhếch lên, cái nhếch môi mới kiêu hãnh làm sao :

 

“ Chúng tôi vẫn tự hỏi : Sự có mặt của các cha có cho thêm chúng tôi được cái gì không ? Một câu hỏi đứng đắn đấy. Cha còn trẻ, tôi tin rằng cha có đủ thời gian trả lời…”

 

Đúng là khiêu khích, phá hoại “chính sách tín ngưỡng của Đảng, Chính phủ” , vậy mà ông nhà văn lại hạ bút khen :” cái nhếch môi mới kiêu hãnh làm sao…”.

 

Tuy nhiên, mải mê bôi bác, trách móc nhà thờ, ông nhà văn quên béng một điều là bất kỳ ‘cuộc chơi” nào cũng có luật của nó. Nếu bài xích nhà thờ dữ dội vậy, thì anh bộ đội với chị cán bộ cứ ra Uỷ ban mà tổ chức đám cưới theo đời sống mới, hà cớ gì phải vào nhà thờ khẩn khoản cha cố “linh động giải quyết” và khi không được thì lập tức giở mặt buông lời riễu cợt mang đầy tính đe doạ, khi muốn nên vợ nên chồng trước mặt đức Chúa Giêsu.


 

Sau cha già ,cha trẻ, Nguyễn Khải cho cha thứ ba ‘ra sân khấu”. Đó là cha Hoè người “đi làm phúc, đi thăm kẻ liệt” bằng xe máy. Một lần chẳng may cha đâm phải một bà lão, cha phải chở bà vào bệnh viện , phải trả “mười đồng năm hào” tiền thuốc tiền ăn, lại biếu cụ năm chục để cụ bồi dưỡng, ấy thế mà con gái cụ vẫn mò đến tận nhà xứ - mà theo lời cha - “cái con quỷ cái ấy nó vừa khóc lóc vòi tiền , lại vừa hăm doạ xa xôi, rút lại cha đành phải đưa thêm cho nó năm chục nữa. Vị chi là một trăm mười đồng năm hào.Ấy là chưa kể tiền xăng đi đi về về thăm nom bà lão suốt mười ngày điều trị…”

 

Diễn tả vậy, giống thằng chạy mánh đâm phải bà cụ rồi xuýt xoa tính toán chi li số tiền phải móc ra đền, chứ chẳng phải một cha xứ gây tai nạn sau đó săn sóc họ với tình thương bao dong. 

 

Một hôm cha Hoè tới thăm cha Thư, dùng cơm trưa xong, “khách quý hớp một ngụm nước to, súc nhổ ầm ầm , lấy tăm gẩy giòn giã cả hai hàm răng vừa to vừa khoẻ rồi lại tiếp tục nói ào ào…”

 

Đúng một anh lái trâu chứ không hề là một linh mục chăm sóc phần hồn con chiên. Tuy nhiên đọc tiếp , người ta lại thấy cái ông linh mục Hoè này ngoài hình hài lái trâu , bên trong lại đúng là một ông cha cố “quốc doanh” được cài vào giáo hội khủng bố tinh thần linh mục .

 

Cơm nước xong, cha Hoè doạ cha Thư :

 

“ Chắc là cha biết chuyện Uỷ ban xã Lạc Hồng mời cụ Vịnh ( linh mục) lên chất vấn chứ ?”

 

Rồi cha Hoè kể tội :

 

“ Thật không ai dại như cụ Vịnh. Người ta vừa bế mạc hội nghị Thiên Chúa Giáo chiều thứ bảy, sáng chúa nhật là ngày lễ Đức Chúa Thánh Thần hiện xuống, cụ dám lên Toà giảng nói xưng xưng :” Chúa Thánh thần lấy hình lưỡi lửa hiện xuống, cho nên người bổn đạo phải chú ý sửa lưỡi , phải nói ngay nói thật kẻo lỗi giới răn thứ tám…”. Nói thế bằng tuyên chiến công khai với mặt trận còn gì…”

 

Và cha rủa cha Vịnh :

 

“Mà ông ta đâu đã trọn, cũng gian dối, cũng mưu mẹo còn hơn kẻ khác…”

 

Nghe cha Thư nói cha không làm gì cha đâu có sợ , cha Hoè lại doạ :

 

Cha không làm gì nhưng kẻ khác làm người ta vẫn cứ lôi cha vào. Một thằng áo chùng làm láo thì cả bọn áo chùng phải mang tội mang vạ. Biết để còn kịp ngăn nhau chứ …”

Rồi cha giở trò “tâm lý chiến :

 

“ ……chỉ những tội trọng mà cụ Vịnh đã chủ mưu , đã nhúng tay trong thời kỳ sửa sai cải cách ruộng đất cũng đủ để chính phủ họ xử bắn rồi, không phải chỉ bắn một lần mà phải bắn đủ mười lần . mấy năm nay con đi hầu cụ Vĩnh tại xứ Nhất này , nên con biết…”

 

Khủng bố tinh thần cha Thư chán chê, cha Hoè mới lộ ý đồ bêu xấu, báng bổ Chúa :

 

Con được cử ra coi sóc xứ đạo trước cha vài năm, con xin thưa với cha một sự thật đau đớn . Nơi nào phần đời thịnh thì giáo hữu còn làm được việc này việc khác, yên ấm nhiều bề. Nơi nào phần đạo thịnh thì cờ bạc , rượu chè, kiện cáo, đôi khi còn đánh chém nhau ngay cả trong nhà xứ. Mắt con nhìn thấy, tự con là người trong cuộc, bảo rằng không nên tin thì chỉ còn cách đâm thủng cả hai tai, chọc mù hai mắt…”

 

Sau khi mượn mồm giáo dân, chánh trương, trùm họ với cả cán bộ Đảng và Nhà nước bôi bác đạo chưa thoả , Nguyễn Khải chui cả vào mồm linh mục chửi cho bõ tức.

 

Cứ theo đúng lời cha Hoè thì giải tán nhà thờ, bỏ mọi việc đạo xã hội sẽ “yên ấm” nhiều bề, còn không sẽ biến hết thành ma quỷ, xúm vào đâm chém nhau. Vốn là linh mục mới ra trường, đức tin còn nặng, cha Thư không sao lọt tai những lời phản Chúa, ông “cười nhợt nhạt” :

 

“ Nếu tôi hiểu được lời cha nói thì cha đang làm lại giáo lý ?”

 

Đây thật là một lời kết tội nặng nề với một đấng “chăn chiên”, nhưng với cha Hoè, chẳng là cái gì , cha vẫn thở ra cái “triết lý sống” vô thần sặc mùi chính trị thực dụng :

“ nếu con làm theo ý muốn của đức Giám mục thì thân con phải ngồi tù, xứ đạo sẽ khô héo.Con làm theo cách hiểu của con thì việc đời sẽ vui vẻ mà sự đạo cũng trọn lành.”

 

Cái cách của cha là cam chịu trở thành cái đuôi cho chính quyền tha hồ vẫy ngược vẫy xuôi, nhà thờ và giáo hội chỉ còn là một tổ chức quần chúng của Đảng, “ kính Chúa và yêu nước tức là yêu chủ nghĩa xã hội…” – chính là cái cách Đảng đưa tôn giáo theo con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội..

 

Vài ngày sau, trên đường “kiệu mình Thánh” ở các xã, cha Hoè lại ghé vào thăm cha Thư. Lần này cha Thư còn kinh ngạc hơn nữa vì cha Hoè “ không mặc áo nhà tu mà vận sơ mi ngắn tay màu vàng nhạt, quần mầu sẫm, đi giày da nâu , đầu trần , lại cả kính râm nữa. Với bộ quần áo ấy nom cha trẻ đẹp hẳn , mà tự nhiên, thoải mái hết sức…”

 

Đúng là một gã làng chơi chứ chẳng ai ngờ đó lại là cha xứ. Đã vậy ông còn chọc tức người đồng đạo :

 

“ Con mang cái vỏ của thế gian nom có nghịch mắt quá không ?”

 

Cha Thư kêu lên :

 

“ Đi kiệu Mình Thánh mà mặc xống áo này ?”

 

Rồi cha giảng giải :

 

“ Tôi đi kiệu Mình Thánh phải đi từ sớm mai, túi Mình Thánh đeo trước ngực , áo phép phủ ngoài , dọc đường chỉ nghĩ tới những sự khốn khó Chúa phải chịu, ai hỏi không nói, ai gọi không thưa, mà còn hãi chưa được sùng kính…”

 

Cha Hoè không những phớt lờ cả luật lệ nhà thờ mà còn trâng tráo, báng bổ :

 

“Con thì khác. Đã hỏi là con phải thưa, phải chào. Còn nghiêm mặt đi thẳng họ lại nghĩ mình hờn giận việc gì, bực tức gì sinh hiểu nhầm nhau rồi khổ…”

 

Thế rồi ông cha Hoè chở cha Thư đi tham dự “tuần chầu lượt thay địa phận”. lúc xe máy chạy qua chợ, các cô bỡn cợt , “hét lanh lảnh” :

 

“Anh ơi…anh cho em đi cùng với…”

 

Cha Hoè ngồi nhún nhảy, miệng trả lời, đầu vẫn không ngoảnh lại :

 

“ lần sau, lần sau tôi sẽ cho ngồi cùng…”

 

Cái cảnh “cha và con” chim chuột, bỡn cợt nhau giữa ban ngày ban mặt ngay giữa chợ liệu có thể có ở một xứ công giáo toàn tòng như Bùi Chu- Phát Diệm ? Thời bấy giờ, cả nước đang đói, nông dân vắt mình trên đồng ruộng hợp tác mỗi công tính ra cũng chỉ được vài lạng thóc, ngày hai bữa ngô sắn, rau muối là chính, vậy mà ông nhà văn tả bữa ăn của các cha xứ thật không thua gì mấy ông Uỷ viên Bộ chính trị :

 

Thịt gà rán, miến xáo lòng, lại thêm bát riêu cá thật cay, ăn với rau ghém …”. Hai cha lại còn có cả rượu thuốc đưa cay. Cha xứ sống “sướng” như vậy, ai chẳng muốn đi tu.

 

Sau bữa cơm có một cặp trai gái đến xin làm phép cưới. Khác với cái lần “anh bộ đội và chị cán bộ” bị cha Thư từ chối vì không thuộc kinh; lần này cha Hoè khôn hơn, gà cho hai con chiên :

 

“ Thế nào, không thuộc được một câu nào hả ? Chỉ cần thuộc một câu là tôi làm tờ chứng cho ngay. Vậy kinh Tạ ơn Đức bà có thuộc không ? “ Kính mừng Maria đầy ơn phúc. Đức Chúa Lời ở cùng bà…”

 

Vậy là xong, “thủ tục” lễ cưới tại nhà thờ được giản hoá tới mức độ hài hước làm cha Thư thắc mắc :

 

“Họ làm những công việc thiêng liêng ấy một cách trần tục vậy sao ?”

 

Khi còn lại hai cha với nhau, cha Hoè mới “truy vấn” cha Thư , dồn cha vào cái bẫy kết tội cha “lẹo tẹo” với con chiên :

 

“ Con lạy cha, cha đừng diễn trò cả với con nữa. Cô ấy đã thú nhận với cả con rồi…cha đã lợi dụng lòng sùng kính thiêng liêng của những cô gái thơ ngây để mưu lợi lộc cho riêng mình….”

 

Cha Thư choáng váng trước đòn vu cáo trắng trợn. Cha như “ người bị bóng đè, muốn kêu cứu thật to nhưng tiếng kêu không lọt qua được kẽ răng, muốn vùng chạy ra ngoài nhưng chân tay đã bị trói chặt . Còn cái mặt quỷ thì cứ sát gần lại mãi, đã nhìn rõ cả vè mắt của nó, chóp mũi của nó, chân răng của nó. Và cả cái giọng nói của quỷ, nhẽo nhợt, tanh tưởi, cứù bò bám lần lần lên khắp da thịt…”.

 

Người đọc cảm giác hai linh mục giống y hai cán bộ . Họ cũng moi móc, sát phạt , nhìn nhau như quỷ dữ chẳng khác gì trong “đấu tố” . Cái lối trắng trợn lột trần nhau không phải của các nhà tu hành mà chính là của cán bộ Đảng:

 

Cha phàn nàn kêu ca rằng diềm ren áo lễ của cha rách, rằng giây thắt lưng của cha ngắn , rằng vải may áo chùng thâm vừa thô vừa dày. Cha đã kêu than thì bọn họ phải góp sức mà lo liệu…Đến khi việc vỡ lở, chính quyền can thiệp, lập tức cha nhắm mắt, sõng tay, coi như kẻ đứng ngoài . “ Nào tôi được biết gì đâu. Họ đã lợi dụng danh nghĩa tôi để làm bậy đấy chứ.!”

 

Cha Hòe chẳng những không còn “đức tin nơi đức chúa Giê xu” mà đối với đức cha bề trên cũng đầy tức tối :

 

Quay mặt về toà giám thì đấng bề trên chỉ một mực hò hét chống cộng, bất hợp tác với chính quyền. Ấy là ngài xui bề tôi làm, còn chính ngài lại nhỏn nhẻn, nhũn nhẽo như kẻ biết vâng phục nhất. Rủi khi mình bị tóm gáy, còng tay thì ngài mới sửng sốt kêu lên : “ ơ, cái thằng ngu thế, Chúa nào bảo nó chống lại người cầm quyền. Nó có ngồi rục xương trong tù cũng là phải…”

 

Cha bề trên đã vậy, đến các linh mục chăn chiên ở bên dưới cũng ma lanh không kém :

 

“ Nhưng, thưa cha kính mến, chúng con cũng khôn lắm , chúng con đã liếc mắt, cười duyên với nhà cầm quyền từ lâu rồi. Hẳn là họ phải tin chúng con hơn, dẫu sao chúng con cũng được lớn khôn dưới chế độ mới. Còn cha quản hạt , người coi sóc giáo lý và tu đức của chúng ta ? Ông ấy mặc kệ, ai muốn làm gì thì làm miễn là đừng có lôi ông ta vào cùng một rọ…”

 

Cứ thế, nhà văn tưởng tượng ra những “con ngựa thành Troie”, những cha cố phản Chúa “đi đêm với cộng sản”. Phải chăng đây là khía cạnh “triết luận “ giữa “công giáo” và “chủ nghĩa xã hội "mà phê bình gia Vương Trí Nhàn đã tâng bốc ngay khi tác phẩm Nguyễn Khải mới xuất bản ?


 

Sau vố bị cha Hoè truy vấn và mạt sát , cha Thư rút ẩn vào chính mình , “ đã hoá ra con người trầm lặng và buồn bã”. Trong số người giúp việc , cha chỉ quý mến có mỗi mình một cậu bé giúp lễ tên Tú với một tình cảm đặc biệt :

 


“ Cậu bé chỉ đứng nhìn ông cha trẻ bằng cặp mắt trong suốt, nghiêm nghị và miệng hơi mỉm cười là bao nhiêu bực giận đã lập tức tiêu tan , là đã muốn mỉm cười đáp lại và thăm hỏi một câu thật dịu dàng”

 


Tình cảm giữa ông cha trẻ và cậu bé giúp lễ được đẩy xa tới mức như tình cảm …cha con , anh em lại phảng phất mầu “đồng tính” :

 

“ Vả lại cậu ta còn biết cách săn sóc người chủ vừa tỉ mỉ vừa âu yếm, đem lại cái vị mặn của trần tục vào cuộc sống nhạt nhẽo thiêng liêng. Chính là cái vị muối của thế gian đã gắn bó họ lại như anh em, như cha con, và nếu họ phải xa nhau thì nỗi đau đớn chia ly cũng sẽ rất xác thịt…”

 

Mê mẩn cậu phụ lễ , đức cha lên giọng :

 

“ Người lớn hay nghi ngờ, hay cứng cỏi, còn trẻ con thì tin tưởng và phó thác. Người lớn thì kiêu ngạo, tham lam, còn trẻ nhỏ thì hiền hoà , nhường nhịn. Người lớn gian xảo, dối trá, còn trẻ nhỏ chỉ nói có nếu là có , nói không nếu là không. Người lớn là con rắn, trẻ nhỏ là bồ câu. Chúa đã từng vẫy gọi :” Hãy để trẻ thơ đến cùng ta, đừng có cản chúng. Bởi chưng nước Trời thuộc về những kẻ giống như chúng…”

 

Cha có thể ca ngợi trẻ con , nhưng sao lại gây cho chúng thù ghét, ngờ vực người lớn đến thế này :

 

“ Con ơi ! Thầy ghê sợ mọi người, trừ trẻ nhỏ. Ai ai cũng có thể hãm hại được thày , trừ những kẻ trong trắng, ngây thơ như các con. Thầy nói bằng thật vì thầy đã từng biết. Lời nói ngọt ngào nhưng lại đọng vị đắng cay ; mời chào và cởi mở là bẫy vô hình : gương mặt thánh thiện che đậy những mưu mô hiểm độc. Thầy đã bị khốn mấy lần rồi. Con nên tin lời thầy dặn…”

 

Xa hơn nữa, cha còn xúi bậy :

 

“ …phải biết ngờ vực những cảm tưởng tốt đẹp ban đầu, phải biết tránh xa những cám dỗ có tính xác thịt. Mắt thấy đẹp tức là không đẹp, tai nghe hay tức là không hay, lưỡi nếm ngon tức là không ngon…”

 

Linh mục là đấng chăn dắt linh hồn cho con chiên. Con chiên gần gũi linh mục ắt phải được học hỏi, trau dồi tâm hồn trong sáng và cao thượng. Vậy mà cậu bé phụ lễ gần gũi cha Thư, suốt ngày bị cha nhồi nhét tư tưởng thù hằn và mất lòng tin vào người, nhà thờ đã biến thành nơi đầu độc con người nguy hiểm như vậy, liệu có đáng tồn tại ? Phải chăng đó là “triết luận “ về đạo Thiên chúa và “chủ nghĩa xã hội” của Nguyễn Khải ?

 

Cậu Tú phụ lễ sống trong nhà đạo vẫn phải đi lao động công ích với thanh niên trong xóm. Ra tiếp xúc với đời, cậu lại nghe lời khích bác rủ rê :

 

“ Giả sử chúng tôi lại có một người con trai như cậu, nói cậu bỏ lỗi nhá, thì tôi chẳng còn ước ao cái nước thiên đàng nào khác. Cậu đưa bàn tay tôi xem, bàn tay đẹp quá, vừa mỏng vừa mềm, tay này có học nghề gì cũng mau giỏi, mau khéo…”

 

Ra ngoài đời được tâng bốc rủ rê, trở về nhà đạo, cậu Tú lại ngập tai những chuyện bê bối xấu xa trong các thầy dòng, các cha cố. Nào chuyện khai gian tiền chợ , nào chuyên trai gái của các cha …Cứ một đằng “đời” thì kéo, một đằng “đạo” thì đẩy như vậy, trước sau cậu Tú phụ lễ cũng phải bỏ đạo mà về với đời. Cậu phàn nàn với ca xứ :

 

“ Thưa thầy, ngày hôm nay con được nghe nhiều chuyện đến nhơ nhớp , chưa bao giờ con được nghe người ta nói với con, nói với nhau những chuyện lạ lùng đến thế …”

 

Lẽ ra cha xứ là linh hồn của nhà thờ, phải bảo vệ uy tín cho đạo, phải tìm cho ra thực hư trong “những câu chuyện nhơ nhớp” mà cậu phụ lễ “buôn chuyện’ ở đâu , đằng này cha lại phụ hoạ , bôi thêm tiếng xấu , kể tội nhà thờ mà chính cha là đại diện:

 

“ Một cặp kết bạn đến đưa cho đấng chăn chiên tám chục đồng, đấy là tiền biếu riêng , còn phí tổn dầu nến người ta đã chi một món khác rồi. Đấng chăn chiên đưa trả lại năm đồng, chỉ cầm có bảy mươi nhăm đồng, rồi bảo :” Cha chỉ lấy một nửa , còn cha cho con một nửa. Vậy là cha đã nâng giá lễ xin phép cưới từ tám chục lên trăm rưởi…”

 

Vào những năm thập kỷ 60, chuyện cha bỏ túi tiền “làm lễ cưới” là “tội lỗi xấu xa” . Cha lại tố cáo tiếp :

 

“ Có bảy cặp làm lễ vào tối thứ bảy . Sáng chúa nhật linh mục rao ở nhà thờ chỉ hoan hô có ba đôi sáu anh chị em đã có tinh thần ngoan đạo. Đấy là ba đôi có tiền xin lễ cưới, còn bốn cặp kia chỉ làm phép cưới suông thì coi như không có. Có tin được không ? Không thể tin được ! Không thể tin như vậy được ! Lạy Chúa…”

 

Cha kêu lên vì phẫn nộ, cha không còn biết chia sẻ với ai cái nỗi ghê tởm đó ngoài cậu phụ lễ .Vậy là hai người đã ngầm họp thành một khối tách khỏi sự dơ bẩn của nhà thờ. Ông nhà văn không dừng ở đó, ông còn đẩy cha cố và thầy phụ lễ đi xa hơn nữa về phía…cách mạng để trong cuộc đối đầu giữa “ton giáo “ và “chủ nghĩa xã hội”, phần thắng phải thuộc về ‘sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân”, minh hoạ cho “luận thuyết “ “ai thắng ai” một thời bao trùm lên đời sống tinh thần dân miền Bắc.

 

Thế rồi một ngày nọ, ông chánh trương trố mắt nhìn cha linh mục ăn mặc lạ đời :

 

” cha mặc chiếc quần xanh đã cũ, một cái áo cộc tay nhuộm nâu, chân đi dép cao su, đầu đội mũ lá như …một anh cán bộ”, khiến ông chánh trương phải kêu lên :

 

“ Lạy Chúa ! cha đi đâu sớm vậy , mà lại ăn mặc như vầy ?”

 

Hoá ra cha đi thăm…bà con đang lao động sản xuất, hơn thế nữa, cha muốn cùng lao động với bà con :

 

“Ông chánh giới thiệu tôi với ông phụ trách tổ làm màu nhá. Tôi muốn hàng ngày tới đó làm một buổi. Còn việc nhà Chúa chỉ cần làm một buổi là đủ…”

 

Ông nhà văn thật “to gan”, ông gán ghép cho cả cha cố “giác ngộ ý thức lao động”, coi “lao động là vinh quang” , từ bỏ vị trí “đạo cao đức trọng” để đòi “ba cùng” với nông dân không khác gì cán bộ cải cách ruộng đất. Tất nhiên ông chánh trương không đời nào để cha phá vỡ lề luật của nhà thờ như vậy . Ông nhắc nhở cha :

 

“ Chúa đã phân mỗi người một việc. Việc của cha trọng hơn việc chúng con, sao lại bỏ việc trọng để làm những việc khác…”

 

Cha chẳng những không nghe theo ông chánh trương mà còn tỏ vẻ thích thú được thoát cái vỏ làm cha :

 

“ Tôi ra cùng làm với bà con chứ thăm thú gì ….

 

Ra đến đường , cha Thư lấy kính râm đeo rồi hỏi nhỏ :

 

“ Nom tôi đã ra anh cán bộ chưa ?”

 

Ối Giêsuma lậy Chúa tôi, làm cha cố mà lại muốn..giống anh cán bộ, muốn học theo bác Hồ ‘đi sâu đi sát” , cùng lao động với nhân dân . Ông “cha cố” của Nguyễn Khải đúng là cha dở người, sắp bỏ áo choàng thâm để xin vào Đảng thật rồi. Quả nhiên ông chánh trương nghĩ thầm về cha :

 

” Ông này đã ra dở thật . Mặt mũi thì võ vàng , quầng mắt thì thâm đen, ăn nói lúc khôn lúc dại. Đến tội nghiệp!”

 

và cố khuyên giải cha :

 

“ Cán bộ họ không vận áo thâm chùng, thì người mặc áo thâm chùng không nên vận quần áo của cán bộ, ăn mặc phải cho nó phân minh…”

 

Tất nhiên, cha Thư không hề có ý định bỏ đạo, ông chỉ muốn làm một thứ “linh mục đời mới” một chân trong nhà thờ, một chân thò ra ngoài xã hội , thực hiện đúng phương châm Nhà nước đề ra cho các nhà tu hành sống dưới chế độ xã hội chủ nghĩa :” tốt đời đẹp đạo”. Bởi thế, cha Thư mới tuyên bố :

 

“ Tôi vẫn dâng trọn đời tôi để rao giảng Tin Mừng, nhưng không ở nhà tu, không mặc áo chức. Tôi sẽ sống như mọi người…”

 

Đó chính là cái hình mẫu “ linh mục” “tốt đời đẹp đạo” mà Đảng và Nhà nước bấy lâu nay vẫn đưa ra làm mẫu mực trong Hội những “người công giáo yêu nước”. Hóa ra cái gọi là “triết luận về thiên chúa giáo và chủ nghĩa xã hội” mà phê bình gia Vương Trí Nhàn gán cho “ Cha và con” của Nguyễn Khải chẳng có gì ghê gớm mà chỉ “minh hoạ” chủ trương “tôn giáo vận” của Đảng và Nhà nước với hình mẫu quái thai “ cha cố tốt đời đẹp đạo’ mà thôi. Cái hình mẫu “quái gở “ ấy nhất định vấp phải sự phản đối của con chiên. Bởi thế khi cha Thư xin một chân “lao động sản xuất” ở trại rau để “tự nuôi mình” lập tức bị ông Tài – con chiên, phản đối :

 

“ .Lạy cha, cha mà làm thế bằng trát bùn vào mặt chúng con còn gì. Xứ đạo này đâu đã đến nỗi túng thiếu ?”

 

Cha xứ vẫn khăng khăng đòi đi “lao động sản xuất “ :

 

“ Họ nghĩ sao mặc họ, miễn là mình làm không sai…”

 

Quả thực nhà văn viết về linh mục hay về thanh niên “tích cực lao động xã hội chủ nghĩa” đây ? Chẳng thế mà ông cho linh mục hăng máu lên, mạt sát nhà thờ :

 

Tôi không muốn sống như các linh mục khác, sống như thế nhơ nhớp lắm , mỗi người nhơ nhớp mỗi cách. Tôi còn trẻ, tôi còn đủ thời giờ để lại chút ít tiếng tốt cho xứ đạo. Bằng không làm được gì hơn thì trả lại áo chức mà về. Sống như kẻ có tội đã đau đớn, lại không được phép cứu chuộc mới thật là đau đớn hoàn toàn …”

 

Trải qua mấy thập kỷ, Nguyễn Khải liệu đã thấy rõ, ai là người sống nhơ nhớp ? Các linh mục trong nhà thờ hay các quan chức ngoài đời ? Bàn tay dàn xếp của ông nhà văn quá lộ liễu làm mất đi phần chân thực là cái cốt lõi, không thể thiếu cho một tác phẩm văn chương.

 


 Ban chánh trương không cho cha “tham gia lao động sản xuất” sợ mang tiếng, thì “cha đi lang thang khắp các dong xóm , vào nhiều nhà, hỏi han đủ chuyện và nếu chủ nhà giữ lại mời cơm thì cha trả lời rất nhũn nhặn :

 

” Tôi đã ăn rồi, tôi không ăn được nhiều, đừng có ép tôi…”.

 

Xưa nay, các xóm đạo được cha tới thăm là một vinh dự cả làng cả xóm, rục rịch chuẩn bị đón cha từ mấy ngày trước. Riêng cha Thư thì ngược lại ,vì cha cứ tới luôn xoành xoạch “ngồi tiếp thì mất việc mà bỏ đi làm cũng không đành, nên vừa thấy sứ giả của Chúa lò dò vào cổng là trẻ con được bảo trước đã chạy vội ra nói dối bố mẹ hay ông bà nó vắng nhà…”

 

Thật chưa ông linh mục nào giảm sút uy tín trong con mắt giáo dân như cha Thư cho dù đã cố gắng thực hiện phương châm “ tốt đạo đẹp đời” mà Đảng và Nhà nước cho kẻ thành khẩu hiệu dán đầy ở các xóm đạo.

 

Đi xuống dân bị dân tránh mặt, cha Thư đành “đóng cửa ngồi lì trong phòng riêng đọc sách từ sáng đến tối , không tiếp một ai…”. Ngồi trong buồng chán, cha Thư mang sách ra ngoài trời đọc. Hôm đó cha tìm được “một cụm tre ngay sát một cái cầu đá” , rất yên ắng và mát mẻ để ngồi đọc sách. Dân làng dường như đã quen với những hành vi khác thường của cha xứ nên khi cha vừa đi qua “ họ liền ngoái cổ nhìn theo, cái nhìn bần thần xót tiếc :” Khốn nạn ! Con người khoẻ mạnh đẹp đẽ thế mà ra dở ?”.

 

Cha xứ đã muốn “lìa đạo” , lại thêm ngồi đọc sách ở cái “cụm tre bên cái cầu đá” lại gặp một anh…tu xuất, bỏ đạo về đời. Anh này đã học ở “tràng lý đoán” – tức trường học ra làm cha xứ được vài năm, đã “ chịu phép cắt tóc là đã được vào sổ các thầy tư giáo”, trong Hội thánh có 7 chức thì anh ta đã “được chịu chức cầm nến” tức là chức thứ tư rồi, chỉ còn hai năm nữa là anh ta đã thành linh mục năm mới 24 tuổi. Tu sắp thành “chính quả” vậy mà ngang xương bỏ về bởi lẽ những thầy dậy anh trong hội thánh đều là bọn mà anh ta cho là “ học vấn thì tầm thường, mọi quan niệm đều lạc hậu, tư cách lại hèn kém, nói cho thật họ không được phép rao giảng những lời cao đẹp…

 

Dựng nên nhân vật cha Thư chửi đạo dường như chưa thoả lòng , ông nhà văn Nguyễn Khải phải đẻ thêm chàng “tu xuất” nữa để mượn mồm chửi tiếp . Anh này đưa ra lý do bỏ tu thật ‘cao quý” :

 

“ Con chỉ không muốn bị dắt kéo bởi những người mù. Theo chân họ rồi có ngày bị sa hố…”

 

Ta hãy thử tưởng tượng một chàng thanh niên tuổi măng tơ, vào trường dòng từ nhỏ, sắp sửa tốt nghiệp thành cha, vậy mà dám chê bai những người thày của mình là hèn kém, là dốt, là mù….thì anh ta nếu không phải phường vô ơn bạc nghĩa cũng là quân đầu đường xó chợ, trốn học đi bụi đời.

 

Sau lần cha Thư nghe thày “tu xuất” báng bổ đạo được vài ngày thêm ông cha Hoè hăng hái bôi đen cái áo choàng thâm nữa. Ông này kể về một “ chiến sĩ đầy lòng quả cảm của Hội thánh, một nhà lãnh đạo và tổ chức hết sức khôn ngoan của địa phận “, người đó là “cha Vinh” vừa mới bị ‘đuổi khỏi hàng ngũ giáo sĩ hết sức đột ngột” vì tội …hủ hoá. 

 

Bằng một giọng vô cùng khoái trá của kẻ tiểu nhân, cha Hoè kể lại vụ việc “ngã ngựa” của người đồng liêu. Trước hết cha mạt sát :

 

“Ông Vinh được chết lành thì còn ai muốn giữ mình cho nên. Một đời mưu chước hại người, nay mới bị người hại lại. Mà dơ dáy vô cùng, dẫu người thân cũng phải che mặt mà tránh…

 

Chửi bới chán chê rồi cha mới đi vào tường thuật chi li bằng thứ ngôn ngữ chẳng phải của nhà tu hành chút nào :

 

“ Cái đứa nữ ấy cũng đã ngoài ba chục tuổi , vốn có tính huê nguyệt , người mỡ màng phốp pháp, ăn nói cũng khôn khéo, ngọt ngào… Cha đã có tuổi hay đau ốm vặt nên cái đứa kia mới có dịp bưng cơm lên dọn cơm xuống , rồi hầu nước hầu thuốc , lâu dần thành cô hầu phòng , ngày nào không thấy đến, ông già lại có ý giận, có ý ghen…”

 

Lẽ ra nói về ‘cái sự trượt ngã của người khác”, nhất của đức cha Tổng Giám mục , nếu là người có đôi chút tự trọng, ắt chỉ nói qua loa, vắn tắt, bóng gió, ngờ đâu, cha Hoè càng kể càng chi li, thích chí :

 

“ Mà chuyện cũng đã dăm sáu năm nay rồi, chứ chẳng phải mới có ngày hôm qua…Mãi đến đêm hôm vừa rồi , cái chuyện mờ ám giữa hai người mới hoàn toàn bị vỡ lở. Ai đời ngủ với nhau lại không cài then cửa bao giờ . ờ thì cái chuyện ăn vụng bị bắt quả tang tiếng là xấu nhưng thế gian cũng đã thường. Cái tâm lý con người mình có thể hiểu được

 

Rào đón kỹ càng rồi, cha mới hạ nhục đồng liêu xuống đất đen :

 

Nhưng cái ông già ấy lại quỳ sụp xuống mà xưng con xưng cháu, khóc lóc kêu van những kẻ đối địch hãy tha thứ , hãy làm ngơ , cần gì sẽ dâng hiến bằng hết thì tôi không thể nào hiểu nổi. Cái tâm lý ấy nó kỳ quái quá, làm sao mà hiểu được …”

 

Cái giọng bôi bác “thày cả” độc địa không chút tình cảm thông , đập một nhát cho chết, rõ là không phải giọng của linh mục “đồng liêu” mà là của …ông nhà văn ra sức bôi bác nhà thờ lấy điểm với Đảng :

 

Cấy ác thì gặp ác, dẫu là tôi tớ của Chúa cũng chẳng thể bênh . Chúa chẳng có tội gì còn bị đẩy lên khổ giá huống hồ một kẻ tội lỗi chất chồng. Rồi còn nhục nhã hơn nữa kia, chưa hết đâu…

 

Thật khó hiểu vì sao, đức cha Hoè sau khi đã thoả thuê mạt sát đức cha Vinh tội hủ hoá, lại còn lớn tiếng chửi bới suốt lượt cả giới linh mục nhà Chúa mà chính ông ta cũng là một thành viên :

 

Có nhiều cha hễ mở miệng nói rặt điều nhân đức nhưng cách sống lại rất đáng phàn nàn . Chuyện ông Vinh chỉ là một chuyện vặt được lôi ra trước công luận . Còn lắm chuyện hệ trọng hơn vẫn được nhiều đấng bậc ở toà giám giữ kín trong bóng tối, con là cái thằng hay thóc mách nên cũng biết được ít nhiều. Vì được biết ít nhiều nên con mới dám nói này nói nọ mà không sợ bị phạt vạ treo chén. Họ làm bậy còn được quyền tế lễ Chúa, huống là con…”

 

Thực là một lời tố cáo hết sức đanh thép “sự thối nát” của Toà Giám mục , nhất từ miệng đức cha sống ngay trong nhà Chúa thử hỏi ai còn dám nghi ngờ.

 

Bôi đen đạo thiên chúa là cảm hứng xuyên suốt “ Cha và con và…” cho tới tận chương cuối . Ông cha Vinh sau khi bị bắt quả tang ngủ với cô hầu phòng đã “ cướp quyền của Đức Chúa Trời , tự huỷ hoại cuộc sống của mình. Khi người nhà xứ phá cửa vào đã thấy xác treo lủng lẳng.. .”.

 

Thế rồi một hôm cha quản hạt cho gọi cha Thư – ông linh mục đang “chán đạo muốn về đời”, tra vấn :

 

“Xin cha tha lỗi cho tôi nếu tò mò muốn hỏi một câu này : cha còn điều gì chưa được hoàn toàn hài lòng về những người cộng sản ?”  

 

Đó là một xúc phạm với cha Thư - vốn rất cảm tình với cách mạng, bởi vậy cha nghiêm mặt :

 

“ Thưa cha, sao cha lại hỏi con chuyện đó ?:”

 

Rồi cha bầy tỏ “lập trường cách mạng” :

 

“ Con cảm phục cuộc cách mạng nói chung , có cách mạng chúng con mới được làm người tự do, làm một giáo sĩ tự do.Nhưng con chưa thể hoàn toàn bằng lòng những cán bộ cách mạng nói riêng. Đến là mâu thuẫn. Nhưng …thưa cha, con có thể sống được lâu dài với cái mâu thuẫn ấy. Vì con biết vâng lời người cầm quyền..”

 

Ông nhà văn Nguyễn Khải quả rất ranh ma khi mượn lời toàn người nhà Chúa mạt sát các đấng chăn chiên . Cuốn sách gọi là tiểu thuyết “ Cha và con và…” thực ra là một bản án hết sức nặng nề đối với thiên chúa giáo tại Việt Nam mà lạ thay gần 40 năm sau khi ra đời vẫn chưa một ý kiến phản biện nào thuộc phía những người bị bôi xấu. Cuốn sách vẫn nghiễm nhiên là một “thành tựu” trong kho tàng văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa Việt Nam. 


 

Chính vì cuốn sách vẫn được coi như thành tựu văn học hiện đại , vẫn được rao giảng trong nhà trường nên cần thiết phải đi cho hết nó.

 

 Nhà văn cho ông cha trẻ nói năng “lập trường” vậy, đến ông cha già quản hạt lại còn ‘cách mạng” hơn. Cha ‘chỉnh” câu trả lời của cha Thư :

 

“ Vâng lời chưa đủ, còn phải hiệp tác. Có hoan hỉ thật lòng thì mới hợp tác được.”

 

Vậy cha quản hạt muốn cha Thư phải ngoan ngoãn vâng lời nhà cầm quyền một cách tự nguyện chứ không phải miễn cưỡng, tức phải “ hoan hỉ mà vâng lời” kia. Bởi vậy sau khi gặp cha quản hạt trở về, cha Thư vui vẻ cho phép cậu giúp lễ tham gia vào…đội gặt của hợp tác xã. Khi cậu ta đi rồi, cha càng thấy chán đạo, càng cảm thấy nhà thờ ngày càng giống như nhà tù :

 

“ Rồi trong cái nhà tù này chỉ còn có ta thôi, một ông cha xứ đã lẩn thẩn , và mấy người hầu việc đã quá già. Nhà tu, nhà nguyện, nhà dòng, nơi chỉ chăm lo có sự cứu rỗi thì bóng tối và cái chết là ơn ích của nó…”

 

Không hiểu ông nhà văn còn đòi hỏi nhà thờ những gì ngoài “chăm lo sự cứu rỗi ”, không lẽ ông muốn biến nhà thờ thành hợp tác xã thủ công sản xuất quạt nan hoặc đậu phụ thì mới xua được “bóng tối và cái chết” ? Nhìn nhận tôn giáo nông cạn thế mà ông muốn nhân danh “chủ nghĩa xã hội” để “triết luận” với thiên chúa giáo thì thật tức cười.

 

Cái nỗi buồn chán đạo đẩy ông cha trẻ đến chỗ muốn cởi bỏ cái áo chùng thâm :

 

“ Còn luyến tiếc làm gì , còn tìm cách lại gần làm gì cái thế gian của những bổn phận , những mưu trá , những khổ đau. Những…ngay trong toà nhà của ông thánh Phêrô vẫn có đầy đủ mọi tấn bi kịch đã từng xảy ra ở ngoài đời.”

 

Nếu “ngoài đời “ cũng đầy rẫy những thối tha như trong “nhà thờ” thì đức cha cứ ở yên trong nhà Chúa tội gì về với đời ? Tuy nhiên, ông cha trẻ còn cho rằng “nhà thờ” còn thua cả “ngoài đời” ở chỗ : 

 

“ Ngoài đời còn có sự sống và ánh sáng , chứ còn ở đây thì chỉ có mùi ẩm mốc và cái chết…

 

Thật là một câu chửi đạo thiên chúa mang đầy tính khái quát.

 

Cha Thư đã chất chứa trong tâm can biết bao sự phiền muộn và khinh ghét giáo hội, lại thêm khi tới thăm gia đình ông chánh trương được bà vợ ông này “tố khổ” tội lỗi của các linh mục trước kia :

 

“ Trình cha với cố , mấy năm Pháp nó đóng đồn ở đây, cha Hoàng Quỳnh từ Phát Diệm sang coi sóc xứ đạo này , chúng con đã tưởng tới ngày mạt thế. Cha đòi lại ruộng đất được chính phủ chia cho năm trước , rồi truy tô các chủ ruộng , thiếu một đồng cũng không được . Kẻ nào chậm chạp lập tức bị nhốt hầm ngay . Ông lão nhà con cũng bị nằm hầm cả mấy tháng.Kẻ có đạo chỉ biết kêu xin có Chúa , nhưng đấng thay mặt Chúa lại bịt chặt cả mọi đường. May mà anh em bộ đội về giải phóng sớm , chậm chút nữa không khéo các cụ ấy giết chết hết con chiên…”

 

Đến vợ ông chánh trương tức phu nhân của ông đứng đầu các con chiên mà còn thở ra những lời lẽ “căm thù” các đấng chăn chiên như thế, thử hỏi cái xứ đạo này có đáng “giải tán” không ? Ông cha trẻ nghe chuyện không tin, hỏi lại :

 

“ Trong nhà xứ có hầm nhốt người à ?’

 

Ông chánh trương xác nhận :

 

“ Thưa, nó vốn là cái hầm chứa đồ thánh, cha Quỳnh về mới cho xây rộng ra để nhốt người…Năm anh em bộ đội về đánh bốt chúng con cho xây bịt lại luôn…

 

Chỉ tưởng tượng thêm chút nữa, ông nhà văn sẽ biến nhà thờ thành bốt Tây có súng lớn , có bãi mìn chống lại cách mạng. Bà vợ ông chánh trương lại tố cáo tội ác của các cha :

 

“ Trình cha con cứ nghĩ cái năm thằng cháu trai đậy chiếu nằm đấy mà không có tiền mua áo. Chồng chạy vào cha Hiển, vợ chạy sang ông bà Tư van vỉ khóc lóc cả buổi , rút lại vợ về tay không, chồng cũng về tay không . mà là chánh trương với cha xứ cả đấy. Vậy là phải bó cháu bằng bao tải , bằng chiếu , chồng gánh một đầu. Vợ gánh một đầu , trời lại mưa tầm tã…”

 

Rõ ra là một màn con chiên đấu tố “linh mục”, tự nguyện đấu tố chứ chẳng phải do Đảng “phóng tay phát động”. Bà vợ ông chánh trương khóc sụt sùi :

 

“ Một đời người ngoảnh đi ngoảnh lại chỉ những khổ là khổ . Kêu Chúa, Chúa cao xa quá nên nghe không thấu, đến với cha, cha xua tay bảo :” Vậy cái khó của tôi thì tôi kêu ai ? Gắng mà chịu chứ !”

 

Những lời “tố đạo” của con chiên làm ông linh mục trẻ như bừng tỉnh. Ông ngộ ra rằng :

 

” Nếu các đấng bậc ấy tin là có một Thiên Chúa thật, có hoả ngục và thiên đàng thật, có sự xét xử tối hậu thật,lẽ đâu họ dám hành động càn rỡ đến thế ? Hình như họ đã không còn tin ở những điều thiêng liêng đó nữa…”

 

Thế là ông linh mục xét lại “đức tin’ của các cha. Ông cho rằng ‘đức tin’ ấy là không có thực, là vờ vịt, giả vờ để các cha “hành nghề” linh mục :

 

“ Với họ đi tu là một nghề nghiệp , Hội Thánh là một tổ chức xã hội , danh vị và tiền bạc vẫn có sức mạnh vạn năng , mọi tội lỗi và đam mê chỉ khác đi là đã được thánh hoá…Các đấng bậc tự cho phép thoả mãn mọi dục vọng, còn giáo hữu thì è vai gánh vác mọi khó khăn thì vừa cuồng ngạo vừa ngu ngốc , bọn áo chùng chúng ta ở giáo phận này là sứ thần của quỷ chứ đâu phải của Chúa ?

 

Than ôi, một khi linh mục Thư đã báng bổ đạo của chính ông như thế, đã vứt bỏ đức tin như vậy, con đường tất yếu dẫn ông tới là “bỏ đạo” về với “chính quyền”. Quả nhiên một tối cha Thư mặc ra ngoài chiếc áo chùng thâm một cái áo dài trắng – biểu tượng của sự từ chối chức linh mục và cho mời ông chủ tịch mặt trận và ông chánh trương xứ tới trịnh trọng đề nghị :

 

Thưa hai cụ, hai cụ là đại diện có thẩm quyền của giáo dân xứ nhà…tôi cúi mình cầu xin hai cụ hãy rửa tội cho tôi lần nữa.. vì từ nay tôi là tôi tớ trung thành của các người…”

 

Như vậy ông cha Thư không còn là “con cái Chúa “ nữa mà là tôi tớ của giáo dân trong mặt trận Tổ Quốc của Đảng, tức ‘đầy tớ của nhân dân” như cán bộ Đảng. Thế là ông Chủ tịch mặt trận làm lễ “rửa tội” cho ông linh mục theo kiểu chính quyền :

 

“ Ông vục nước đổ lên đầu cha xứ lần nữa, miệng đọc to :

 

“Tao rửa mày nhân danh Cha và Con và Giáo hữu xứ Nhất…”

 

Như vậy, lẽ ra “nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”, ông nhà văn đã cho ông Chủ tịch mặt trận sửa “ thánh thần” thành “giáo hữu” – tức là từ nay, ông linh mục sẽ từ bỏ “thánh thần” mà trở về với “nhân dân”.

 

Thật là một hư cấu vừa lố bịch vừa ấu trĩ tới mức dở hơi trong “triết luận về chủ nghĩa xã hội và thiên chúa giáo” như phê bình gia “ Vương Trí Nhàn tôn vinh nhà văn Nguyễn Khải .

 


 Sau tháng 4 năm 1975, Nguyễn Khải cho ra lò “Gặp gỡ cuối năm” viết về trí thức ở lại Sàigòn . Khoảng năm 1980, nhà viết kịch Hồng Phi ( anh ruột nhà văn Chu Lai) ghé tôi kể :”Họp trao đổi về “Gặp gỡ cuối năm” tớ phát biểu : “Anh Khải ơi, thằng Nhật Tuấn nó bảo anh đánh người ngã ngựa , không quân tử”. Tôi bảo đây là ý kiến riêng , nói ra làm gì ? 

Xin nhắc lại câu chuyện tôi đã viết trong phần đầu loạt bài chân dung này.Năm 1978-79, NXB Văn Học thực hiện biên soạn Tổng tập văn học Việt Nam . Tôi được giao gặp từng nhà văn để hỏi tác giả muốn chọn những tác phẩm nào. Một buổi sáng tôi tới nhà Nguyễn Khải ở bãi Phúc Xá. Lúc đó ông đang ngồi bàn viết, trước mặt là tranh vẽ bìa cuốn “Cha và con và…” sắp in. Nguyễn Khải chọn đi chọn lại trong kho chữ của mình rồi bất chợt kêu lên :’ Tung tóe mẹ nó hết rồi Tuấn ơi…”. Ông nhìn tôi thất thần rồi cười khảy :” Nhưng không sao, tao sẽ vót nhọn gươm đâm một cú cuối cùng”.

 

15 năm sau , Nguyễn Khải tưởng đã quên chuyện đó. Tuy nhiên, chuyển vào định cư ở Sàigòn, tư tưởng ông dần dà đã thay đổi . Vào khoảng đầu năm 1990, vào dịp đại hội nhà văn TP Hồ Chí Minh, ngoài hành lang vào giờ nghỉ, tôi gặp Nguyễn Khải hỏi thân mật :” Anh Khải ơi, thanh gươm của anh sao rồi ? “. Nhà văn Nguyễn Khải cười bẽn lẽn :” Tớ thương Đảng lắm. Tớ chưa có ý định ấy…”.

 

Tuy nhiên , năm 2000 trong “Nghĩ muộn” , ông đã dám viết :

 

Tôi là người viết báo, chính những đối tượng mà tôi tìm hiểu để viết bài cũng băn khoăn như thế, cũng có người nói thẳng việc này việc kia đã làm mất lòng người. Nhưng tôi đâu dám viết, nói cũng không dám, thành ra nói dối, viết dối và sống cũng dối. Căn bệnh nói dối bắt đầu từ lý thuyết Cách mạng dần dần tách khỏi thực tiễn Cách mạng, nhưng chỉ có một lựa chọn, hãy bênh vực đến cùng sự đúng đắn của lý thuyết đã trở thành bảo bối hộ thân của người cầm quyền. “.

 

Ông đã nhận ra :

 

“Nhà chính trị, nhà văn, nhà khoa học, những người hoạt động trong lĩnh vực trí tuệ điều cốt tử nhất là phải giữ được sự độc lập trong quan sát, suy nghĩ, tổng kết, không bị bó trong cái vòng kim cô nào cả, không là tín đồ trung thành của một học thuyết nào cả để có thể phát huy hết tiềm lực trí tuệ của riêng mình dấn bước vào những cuộc dò tìm mới. “

 

Không đầy 6 năm sau, tháng 5 năm 2006, Nguyễn Khải đã viết xong tuỳ bút chính trị “Đi tìm cái tôi đã mất” như một bản tổng kết đời mình trong văn học. Và cũng không đầy 2 năm sau, bản “sám hối” này đã lan truyền khắp trên mạng trong nước và ngoài nước và nghe nói, vào dịp Ban chấp hành TƯ ĐCS VN họp Hội nghị 7, Giáo sư Chu Hảo đã chuyển bản “ Đi tìm cái tôi đã mất” của Nguyễn Khải tới các quý vị trong Ban Bí thư Trung ương Đảng coi như tài liệu tham khảo cho Hội nghị dự định bàn về trí thức .

 

Đã muộn, vào tuổi “xưa nay hiếm”, Nguyễn Khải mới đặt bút viết :

 

“Năm 70 tuổi tôi bắt đầu chán viết, người rã ra, đọc sách cũng nằm, đọc được mười lăm phút chữ nghĩa đã loè nhoè, chả rõ mình đang đọc cái gì. Rồi ngủ. Ngủ như chim, một chớp mắt đã tỉnh, tiếp tục đọc nốt cái nửa trang đọc dở vẫn cứ lờ mờ vì chả còn nhớ họ viết cái gì trong cái nửa trang vừa đọc…”

 

Vậy là khi ở đời chẳng còn chút lạc thú gì, nhà văn mới bắt đầu…chán, chán cả công danh , sự nghiệp :

 

“ Cũng năm ấy tôi được trao giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật đợt 2. Mừng thì rất mừng nhưng tôi đã nhận ra ngay đây là tấm bia mộ sang trọng cắm lên một đời văn đã tới hồi phải kết thúc. Thế là lại buồn, ra vào ngẩn ngơ cả tháng. “

 

 Giải thưởng Hồ Chí Minh là tột đỉnh vinh quang của nhà văn cách mạng mà lại coi như “tấm bia sang trọng cắm lên một đời văn” thì quả thực nỗi chết đã ám ảnh Nguyễn Khải không rời ra rồi.

 

Thế rồi như phản kháng chiều hướng ngưng trệ của cơ thể, Nguyễn Khải làm một cuộc xê dịch nữa ra Bắc , trở về quê, nơi nhà văn đã lớn lên và đã trưởng thành. Thế nhưng cái mảnh đất đầy kỷ niệm đó nay cũng đã trở thành một nỗi dửng dưng :

 

“cái mảnh đất thân thuộc đã hoá ra xa lạ. Đạp xe cả ngày chả gặp người quen nào, hoặc có gặp nhưng đã là hai ông già ở tuổi bảy mươi làm sao nhớ lại gương mặt của nhau cái thời mới mười tám đôi mươi. …Đường phố không quen, mặt người không quen, còn lại một ông bạn thân tối ngày đi họp, đủ các thứ hội hè để ông đến họp, vẫn là cái khát khao của người đã già, đã nghỉ hưu có dịp gặp lại bạn cũ, trò chuyện là chính, nhắc lại chuyện ngày xưa là chính, rồi than thở, đủ thứ than thở, chuyện nhà chuyện nước. Cũng buồn nhỉ ? Chuyện người già có vui bao giờ, người đã xong một việc có làm gì cũng không thể vui.”

 

Rõ ra là một cảm giác rã rời, không còn tha thiết, gắn bó , không còn bồi hồi kỷ niệm, không còn nghĩ ngợi lo toan trách nhiệm với quê nhà. Nếu như ngày xưa, trong tiểu thuyết “Chủ tịch huyện” chân dung những cán bộ xã, huyện , tỉnh được vẽ vời thành những “con người thời đại” đầy năng lượng, xốc vác, năng nổ vì dân vì nước thì bây giờ, dưới mắt nhà văn chỉ còn lại là các “quan tham” mặt mũi đầy…”thịt” :

 

“Vì tôi là người có gốc địa phương nên tỉnh uỷ có gặp và mời ăn một lần cho phải phép. Nhưng nhìn những gương mặt quan chức của tỉnh hôm nay mà kinh ngạc. Mặt người nào cũng đầy những múi thịt, sần sùi, nói nhiều, cười to, lời lẽ nhạt nhẽo, dung tục, và không bao giờ nhìn thẳng vào mặt mình để nói, cứ như là đang nói với một ai khác ngồi cạnh mình hoặc ngồi sau mình. “

 

Dường như Nguyễn Khải đã hết e dè, hết giữ gìn, hết sợ ngay cả quan đầu tỉnh ông cũng hết nể vì như ngày xưa :

 

“Bữa sắp về Hà Nội, bí thư tỉnh uỷ lại mời gặp, không phải là gặp chính thức mà là cùng ngồi ăn sáng với ông vì ông cũng đang bận. Buổi gặp vừa hình thức vừa khó chịu vì chỉ có người lãnh đạo của tỉnh nói, nói như người rao hàng, mắt nhìn đâu đâu, bụng nghĩ đâu đâu. Tôi chỉ còn nhớ một chuyện, có một ông tướng, là danh tướng, người địa phương, có đem một giống hoa lạ từ Hà Nội về, tự tay ông trồng ở vườn hoa của tỉnh uỷ vì phải chọn đúng ngày, đúng giờ, cả đúng hướng nữa mới đem lại thịnh vượng, hạnh phúc cho dân trong tỉnh. Thật vậy sao ? “

 

Khác hẳn ngày xưa, nhà văn Nguyễn Khải đi đến đâu cán bộ Đảng, chính quyền cũng xúm lại hỏi han, mừng rỡ, bây giờ hầu như chẳng mấy ai quan tâm tới nhà văn :

 

“Tôi về một xã, xã cho tôi ở nhà một anh bưu tá, lúc rảnh rỗi hỏi chuyện gì anh cũng bảo không biết. Ở xã ba ngày, đảng uỷ, uỷ ban không ai tiếp cả. “

 

Và thật bất ngờ, cái anh Chủ tịch xã có tới nhưng nom anh thật chẳng khác gì một anh lái heo :

 

“Có một buổi tối có một anh chàng to béo đến chơi với gia đình, cả vợ lẫn chồng nhà chủ ăn nói thưa gửi, bộ điệu khúm núm. Anh ta ngồi ưỡn người trên ghế tựa, hai chân xoạc rộng, hai bàn tay đặt lên bụng, nói hỏi trống không, thỉnh thoảng đưa mắt nhìn tôi nhưng không hỏi gì, chào cũng không, mắt nhìn cứ lừ lừ, mà hắn chỉ đáng tuổi con tuổi cháu. Tôi cứ nghĩ tay này hẳn là dân buôn bán ở tỉnh có họ hàng gì với anh chủ nhà, tạt qua chốc lát rồi đi. Nhưng anh bưu tá lại bảo đó là ông chủ tịch xã. Lại một ngạc nhiên nữa ! “

 

Vậy là trở lại quê cũ, con người cảnh vật đã đổi thay , khác trước hoàn toàn và ông nhà văn có cái nhìn “tổng kết” :

 

“Trong mấy ngày xuống xã vừa vui vừa buồn. Ai cũng giàu có hơn trước, nấu cơm bằng nồi cơm điện, tối xem tivi mầu, giờ rảnh thì xem phim bộ. Mỗi xóm đều có cửa hàng cho thuê băng vidéo, có gái điếm cho ngủ chịu đến mùa trả bằng thóc, có cờ bạc, có hút thuốc phiện và chích heroin, thành phố có gì ở làng quê đều có, cả hay lẫn dở, dở nhiều hơn hay. “

 

Chuyến đi đó càng làm Nguyễn Khải nhận rõ gánh nặng của tuổi già đã chất lên vai ông và từ nay mọi chuyện đã khác :

 

“Sang tuổi 70, mọi hoạt động của con người đều chậm, đều kém, riêng cái chuyện viết lách của tôi vẫn giữ được phong độ gần như xưa, vẫn viết rất nhanh, riêng cái nhìn thì trào lộng nhiều hơn, ngậm ngùi nhiều hơn. Nó là thứ hương vị thơm ngát chắt ra từ hơn bảy mươi năm được làm người. “

 

Tuổi 70 như Nguyễn Khải vừa diễn tả dường như đã trở thành một cái mốc, từ đó ông có những nghĩ ngợi vượt lên trên khỏi những chuyện “xã hội” – chuyện hàng xã, hàng huyện, ông nghĩ tới những chuyện cao xa hơn. Ong nghĩ về các thứ chủ thuyết, chủ nghĩa và phải chăng những suy nghĩ sau đây là nhắm vào học thuyết Mác Lê :

 

“ Học thuyết là do con người làm ra, một trí tuệ sáng láng nhất vẫn cứ bị ràng buộc bởi nhiều vòng tự giác và không tự giác của thời thế, của cuộc đời. Bởi vì họ không thể là Thượng Đế để biết hết vô vàn nguyên nhân những tác động qua lại, uốn éo, bất ngờ của nó đưa đẩy mọi sự vật tới những thay đổi rất nhỏ, không mấy ai chú ý, cuối cùng là những biến thiên cực lớn. Chả có học thuyết nào dự đoán đúng những gì sẽ xảy ra trong tương lai và cũng chẳng thể dự đoán được cái kết cuộc của nhiều sự việc đang xảy ra trong hiện tại. Mọi lời tiên tri đều có tính mê sảng, đồng cốt. Dành cả một thời thanh xuân để tin vào những lời tiên tri ấy, về già nhìn lại cái tài sản tinh thần thâu góp một đời chỉ là một cái kho chứa đủ tạp nham chẳng có một chút giá trị gì.”

 

Có nhiều cơ sở kết luận Nguyễn Khải nhắm vào cái chủ nghĩa bắt ông đội lên đầu cái vòng kim cô suốt một đời cho tới tận lúc chết vẫn chưa được tháo ra – chủ nghĩa Mác-Lênin . Cho đến tuổi 70 ông mới nhận ra đã dành cả một thời thanh xuân để tin vào chủ thuyết đó mà thực ra nó chỉ là một cái “kho tạp nham” chẳng có chút giá trị gì. Sám hối của “con chiên” Nguyễn Khải trước các Giáo chủ về mặt tư tưởng như vậy là đã không còn nhân nhượng, không còn nể nang mà đã quyết liệt sổ toẹt đi hết.


 

Chắc chắn phải sinh ra, lớn lên, bú mớm “sữa” của chủ nghĩa Mác-Lênin mới có nhận xét “gan ruột” như Nguyễn Khải khi ông hạ bút :

 

“ Tính hài hước là cái thứ mà người cộng sản ghét nhất vì nó có thể biến mọi chuyện thiêng liêng thành trò cười.”

 

Bởi vậy mọi chuyện tiếu lâm, chuyện cười trước khi Đảng ra đời thì được coi là “vốn quý dân tộc” còn ra đời sau khi “đời ta có Đảng” thì bị cấm đoán, rượt đuổi có khi tù tội như nhà thơ Tuân Nguyễn với hai câu thơ :

 

“ Tiến lên ta quyết tiến lên

Tiến lên ta gọi cấp trên bằng…thằng”. 

 

Để nói rõ hơn việc “biến mọi chuyện thiêng liêng thành trò cười.”, ông giải thích :

 

“. Học thuyết xã hội đã phải đội lốt tôn giáo để tồn tại thì mọi thứ thuộc về nó đều là thiêng liêng. Lãnh tụ thành thần thánh, lời nói bài viết của họ thành kinh bổn, cuộc sống cá nhân và xã hội của họ đầy ắp những chuyện phi thường. Hình ảnh của Lenin và Stalin, của Mao Trạch Đông và Kim Nhật Thành và lời nói của các vị ấy bao trùm lên toàn bộ cuộc sống tinh thần của các quốc gia họ cầm quyền, làm gì, nói gì, nghĩ gì đều không thoát ra khỏi cái bóng che ấy.. “

 

Vậy một cách không trực tiếp, Nguyễn Khải nói chủ nghĩa cộng sản chẳng qua cũng là một thứ tôn giáo vì những lãnh tụ của nó đều đã thành “thần thánh” như Lênin, Staline, Mao Trạch Đông, Kim Nhật Thành…tất nhiên ông không dám nói tới Hồ Chí Minh. Và một khi “chủ nghĩa cộng sản” đã trở thành tôn giáo thì tội ác của nó ghê gớm hơn tôn giáo nhiều :

 

“Vì tôn giáo là niềm tin, là thói quen, là tập quán, là vâng phục, là ở thế giới này chỉ có một chân lý, ngờ vực nó, đặt quá nhiều câu hỏi về nó chỉ là kẻ phản đồ, phải bị trục xuất khỏi cộng đồng, phải bị cách ly, bị ngồi tù để tránh mọi sự truyền nhiễm có thể.”

 

Tức là dưới cái bóng của lãnh tụ, con người đã bị tan biến thành những giun dế thấp nhỏ và run sợ :

 

Bài hát về lãnh tụ trang nghiêm như thánh ca, người hát có dáng điệu sùng bái như tín đồ. Cái thế giới cá nhân của các công dân đã bị đốt cháy, đã thành tro bụi và tan biến trong hương khói của đền đài…”

 

Trong cái đám quần chúng giun dế ấy, tội nghiệp nhất là những người  trí thức, họ biết trốn vào đâu trong cái biển mê cuồng và tăm tối đó :

 

“Trong không khí ngùn ngụt lửa cháy cùng với tiếng sóng hoan hô khi gần khi xa không lúc nào dứt, vậy những người làm việc bằng trí tuệ sẽ tìm đâu ra một khoảng trời yên tĩnh và tự do để suy nghĩ về những công trình một đời của riêng mình..”

 

Ngay cả khi vạch trần thân phận trí thức dưới chế độ cộng sản, nhà văn Nguyễn Khải vẫn còn len lét sợ không dám gọi trực tiếp tên “trí thức” mà phải nhái thành “ những người làm việc bằng trí tuệ” đủ biết nỗi sợ trong ông vẫn còn dai dẳng biết chừng nào. Cái yêu cầu phải “nghĩ trong những điều Đảng nghĩ” đối với ông thật nực cười khi ông dám huỵch toẹt Đảng còn lâu mới hiểu nổi trí thức :

 

“Người cộng sản sẽ không bao giờ hiểu được cách làm việc cá nhân, đơn độc, xa rời quần chúng, xa rời các phong trào cách mạng có tính địa phương của các nhà trí thức thấm đẫm “tư tưởng tư sản” ấy. Phải cải tạo họ bằng các chuyến đi thực tế, bằng các lớp học chính trị ngắn hoặc dài ngày, và bằng cả những lần được gặp gỡ thân mật với lãnh tụ để có thêm lòng tin vào những lý do phải tự phủ định, để khẳng định sự nghiệp vĩ đại của quần chúng. “

 

Chính vì không hiểu nổi hoặc cố tình không hiểu, Đảng đã đề ra những yêu cầu thật quái gở đối với trí thức :

 

Phải bỏ hẳn những tư tưởng triết học và thế giới quan phù hợp với cách nghĩ, cách nhìn, cách đánh giá của riêng mình, đã được chứng minh qua những trải nghiệm của bản thân để nhập vào dòng tư tưởng chính thống, cái triết học chính thống, cách nhìn nhận và đánh giá chính thống, xét cho cùng chả liên quan bao nhiêu tới cái tâm sự đang ấp ủ, tới những điều cần phải viết, và trên hết, máu thịt hơn hết là những phát hiện độc đáo của riêng mình trong lịch sử, trong văn hoá, trong nhân sinh.

 

Vậy tất cả những gì “khác biệt” với tư tưởng của Đảng đều phải bị triệt bỏ. Toàn bộ xã hội chỉ duy nhất được phép có một dòng “tư tưởng chính thống, cái triết học chính thống, cách nhìn nhận và đánh giá chính thống “ mà hồi đương chức ông Bộ trưởng VHTT Lê Doãn Hợp gọi nó là “lề đường bên phải”. Vậy nhưng nếu chiều theo Đảng thì trí thức - ông nhà văn đâu còn là mình ? Nhà văn Nguyễn Khải không dám “chống lại” mà chỉ dám “than vãn” :

 

“ Mất những cái đó thì còn sống tiếp làm gì, còn viết tiếp làm gì nên một số đã phải đổi nghề, bỏ nghề sáng tạo sang nghề cạo giấy, làm một anh công chức hiền lành, mẫu mực, vừa có quyền vừa có lợi. Cái danh cái lợi cũng có sức quyến rũ người ta lắm, qua nhiều năm tháng nó đã trở thành ý nghĩa quan trọng nhất để sống, sống với vợ con, với bạn bè, với xóm làng, với xã hội. “

 

Đó là một lời than “nhói lòng” một lời cảnh báo cho an nguy dân tộc khi kẻ sĩ tự chối bỏ vai trò của mình nhưng lại là một “tiếng đàn gẩy tai trâu “ bên những ông quan văn hoá văn nghệ của Đảng vừa dốt nát lại vừa vô cảm.

 

Tuy nhiên không phải văn nghệ sĩ nào cũng đổi nghề thành “cán bộ cạo giấy”, còn những người không chịu buông bút vì không thể kiếm sống bằng nghề khác đành cam chịu uốn ngòi bút theo yêu cầu của Đảng và lắm khi cũng bị đòn vọt trong những vụ án văn chương vì dám “buông thả mình theo cảm xúc tự nhiên “ mà đi trệch khỏi lề đường bên phải nên bị trừng phạt khiến tài năng bị thui chột :

 

“ Còn một số nhỏ vì không làm nghề gì khác ngoài cái nghề văn chương nên đã đầu quân về các nhà xuất bản, tuần báo, tạp chí tiếp tục làm nghề nhưng phải viết trong khuôn phép đã quy định, cũng có đôi lúc đã tự buông thả theo những cảm xúc tự nhiên hoặc bất chợt bị mê hoặc bởi những hình tượng nghệ thuật quá đẹp đã trở thành những nạn nhân oan uổng của nhiều vụ án văn tự, nghĩ lại mà tiếc cho nhiều người, mộng mơ nhiều thì tài năng cũng nhiều đều bị thui chột ngay từ những năm còn trẻ.”

 

Vậy là mấy chục năm qua, mấy chục triệu con người Việt Nam phải sống theo một dòng tư tưởng, đi theo một lề đường bên phải, tuân theo một cách đánh giá và nhìn nhận và theo nhà văn Nguyễn Khải đó là “một tai hoạ khôn lường” :

 

“Trong suốt ba chục năm chiến tranh, mỗi người Việt Nam đã quên hẳn những nhu cầu vật chất và tinh thần của riêng mình để được cùng sống như mọi người, cùng cảm nghĩ như mọi người, sống cùng sống chết cùng chết. Học thuyết Mác và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng Sản được tôn vinh đến tuyệt đối. Vì số phận cá nhân gắn liền với tập thể với dân tộc, trùng hợp khít khao với các mục tiêu chính trị của đảng cầm quyền và những tham vọng của người lãnh đạo. Nhưng cả mấy thế hệ cùng tham gia chiến tranh, sống trong một môi trường xã hội, chính trị của một đất nước đang có chiến tranh cũng là một tai hoạ khôn lường. “

 

Cái tai hoạ khôn lường đó đã tác hại tới toàn thể dân tộc ra sao. Ta hãy coi nhà văn Nguyễn Khải phân tích về sự xoá bỏ “cá nhân” trong thời kỳ chiến tranh :

 

“Trong chiến tranh tập thể gạt phắt cá thể sang một bên, có thể giẫm đạp lên nó cũng chả mất mát gì, vì chiến tranh đòi hỏi sự nhất trí, cần sự ra lệnh đúng lúc của một cái đầu chứ không có thời gian bàn luận, sai đúng có sự tham gia của nhiều cái đầu. Vả lại nếu người lãnh đạo tính toán sai lập tức sẽ bị đối phương trừng phạt ngay, không sớm tỉnh ngộ thì cả sự nghiệp có thể bị đổ vỡ. “

 

Nhưng khi chiến tranh kết thúc rồi cái “cá nhân” vẫn bị xoá nhoà trong đám đông “quần chúng nhân dân” – tất nhiên là “ quần chúng cách mạng” của Đảng :

 

” Đến thời hoà bình thì chỉ còn dân chúng đối mặt với chính quyền, quyền lợi khác nhau, nguyện vọng khác nhau, có trăm ngàn thứ khác nhau trong một cộng đồng : dân tộc, tôn giáo, văn hoá, điều kiện sống… trong một thời gian dài tạm quên đi, tạm gác lại để lo việc lớn, lúc này nhất loạt trỗi dậy, đòi hỏi và mỗi cá nhân đều thấy cái mình đòi là quan trọng nhất, bức thiết nhất. Độc lập có rồi, tự do có rồi, vậy cái hạnh phúc của mỗi chúng tôi nhà nước định quên sao ?

 

Nhưng để đòi hỏi cái quyền sống cho cá nhân đó, toàn xã hội đã bị bịt miệng :

 

“Nhưng người dân phải tìm ra cơ hội nào để nói, đến chỗ nào để nói, dùng phương tiện gì để nói. Nói với tổ chức, với các đoàn thể mình là một hội viên, không ai nghe cả. Nói trên báo chí không báo nào dám đăng. Viết kế sách, thỉnh nguyện gửi lên các cấp có thẩm quyền thì chả bao giờ nhận được trả lời. Vậy phải làm gì nhỉ ? Làm loạn không dám, biểu tình đúng pháp luật cũng chưa có tiền lệ. Người đứng đắn bộc lộ sự không bằng lòng của mình tại các cuộc họp lập tức bị những kẻ cơ hội trấn áp tức thì, bị cơ quan an ninh ghi vào sổ đen, thăng chức nên lương từ nay không thể, chỉ còn đợi ngày về hưu thôi.”

 

Vậy thì lương tri của dân tộc sẽ được cất lên từ diễn đàn nào ?

 


 Một khi các cơ quan truyền thông đều nằm trong tay Đảng, một khi 700 tờ báo trong cả nước chỉ có một ông Tổng biên tập – đó lại là một ông “cảnh sát văn nghệ” đầu óc vừa hũ nút , vừa ngạo mạn lúc nào cũng lăm lăm cái còi thổi bắt cả 85 triệu con người đi vào một “lề đường” quy định là…”lề bên phải”, vậy thì tiếng nói của sự bất bình, tiếng nói của sự phản kháng trước mọi cái ác, cái bất lương, cái ngu dốt của Nhà nước này sẽ được cất lên từ "cái lề" nào ?

 

May thay dân tộc Việt Nam còn có truyền thống sáng tác… chuyện tiếu lâm. Nếu như ngày xưa “chuyện tiếu lâm” là vũ khí đánh vào cái thối nát, hủ lậu của chế độ quan lại phong kiến thì bây giờ nó nhằm vào các tầng lớp cán bộ từ sơ cấp đến trung cao cấp , và cao hơn nữa chuyện tiếu lâm ngày nay không chỉ nhằm vào các “thói hư tật xấu”, nó đã được dân chúng “nâng cấp lên” thành một thứ tiếu lâm…chính trị :

 

“Nhưng dân chúng vẫn có cách xả nỗi bất bình của họ bằng cách sáng tạo ra nhiều chuyện tiếu lâm chính trị. Trong cả nước không đâu có nhiều chuyện tiếu lâm bằng Hà Nội vì nó là thủ đô hành chính, mọi chuyện cung đình vừa thật vừa giả tràn gập các quán cà phê mỗi ngày. Không ra được báo viết thì làm báo mồm vậy, lời nói bay đi lấy đâu làm bằng, tưởng như vô hại mà hại vô kể. Vì nó sẽ thành dư luận, không ai bắt giam được dư luận, giết được dư luận, cái dư luận hỗn tạp, vô sở cứ mở rộng mãi ra, bao trùm mọi việc mọi người trở thành mặt bằng mới để đặt ra các tiêu chuẩn sống cho một thời.”

 

 Tiêu biểu cho cái loại “tiếu lâm chính trị” này là truyện ba đồng chí “Ba Đồng Chinh “ đi máy bay. Truyện rằng trong một chuyến bay chuyên cơ , đồng chí Ba ( tức Ba Duẩn - Lê Duẩn), đồng chí Đồng ( Phạm Văn Đồng), đồng chí Chinh ( tức Trường Chinh) bàn nhau làm sao cho dân sướng ? Đồng chí Ba nói giờ tôi có một bao tải tiền vứt xuống hẳn dân sẽ sướng lắm. Ba đồng chí còn đang bàn nhau nên vứt xuống cái gì thì anh lái máy bay quay xuống xin thưa rằng :

 

” Báo cáo , bây giờ tốt nhất là vứt cả ba đồng chí xuống thì là dân sướng nhất đấy ạ…”

 

Chính sống trong một xã hội mọi kỷ cương phép nước đều trong tay cán bộ Đảng, ngay cả hiến pháp cũng như pháp luật đều do Đảng nắm giữ, cá nhân không được phép tham dự , bàn thảo gì dẫu là đóng góp cho lợi ích xã hội nếu không nằm trong sự kiểm soát của Đảng thì cũng là…”thế lực phản động”.. Bởi vậy đã nảy sinh ra bệnh “thờ ơ”, mặc- kệ - nó phá huỷ ý thức công dân, tinh thần trách nhiệm với cộng đồng :

 

“Cái tiêu chuẩn mới có tên gọi là "mặc kệ nó". Nó là người khác, là nhà nước, là bất cứ ai, bất cứ việc gì không có quan hệ trực tiếp tới các lợi ích cá nhân mình. Cái cá thể sau một thời gian dài nhập vào cái tập thể đã tự tách ra khỏi nó để tìm lại mình. Nhưng cách tìm lại ấy thường thuộc về phía tiêu cực của con người, lấy lợi ích bản thân làm mục tiêu nên không tạo ra được sự thăng hoa, sự tự do chân chính, là môi trường cho mọi sáng tạo độc đáo, vừa thấm đẫm tính cá nhân vừa thấm đẫm tính thời đại ở yếu tố tiền phong của nó.”

 

Cái con người “mặc kệ nó” đó chính là dòng dõi chân truyền của “con người mới xã hội chủ nghĩa”, bởi lẽ chỉ có trong một xã hội không có “tính công dân” như xã hội xã hội chủ nghĩa mới sản sinh ra thứ người “mặc kệ nó” như vậy.

 

Mặc dầu ở Việt Nam còn chưa biết bao giờ mới có tự do nhưng quan sát sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa và sự hồi sinh sau đó, Nguyễn Khải phân biệt hai loại tự do : tự do trong các nước đã từ lâu có chế độ dân chủ và tự do tại các nước mới thoát khỏi chế độ cộng sản :

 

“Ở đây tôi muốn nói thêm, tự do được nuôi dưỡng tự nhiên trong môi trường dân chủ là tự do của cống hiến, còn tự do vừa thoát ách chuyên chế thường có tính phá hoại, trả thù, để bù lại những năm tháng bị tước đoạt. Cứ so sánh về tự do của một xã hội dân chủ nhiều trăm năm như Hoa Kỳ và tự do vừa giành được của nước Nga Xô Viết là đủ rõ. Vì nó không được chuẩn bị, không được giáo dục, mọi bản năng của con người được xổng ra nhất loạt sẽ gây hỗn loạn cho cộng đồng, nhiều hơn là xây dựng. Dân chủ và tự do phải có thời gian để làm quen, để học cách sử dụng và bảo vệ, phân được ranh giới giữa cá nhân và cộng đồng. thành pháp luật, thành tập quán mới có thể đơm hoa kết trái được.”

 

Phải chăng cái thứ “tự do” có “tính phá hoại, trả thù, bù lại những năm tháng bị tước đoạt” phần nào đang hoành hành trong cái đám con ông cháu cha dùng tiền tham nhũng của bố ra sức ăn chơi đập phá, mặc sức hưởng thụ , bất chấp đạo lý xã hội .

 

Nguyễn Khải phê phán cách nhìn nhận xã hội tư bản theo hệ tư tưởng “chính thống của Đảng” :

 

“ Ở xã hội tư bản mà chúng ta vốn có thành kiến là rất xấu xa lại thường hay cho những tiếng kêu cứu, bảo vệ những giá trị truyền thống của cá nhân, vì đồng tiền đang làm mất phẩm giá của con người, phá vỡ nền tảng đạo đức, làm rối loạn các mối quan hệ xã hội. Con người được sống no đủ, trong tiện nghi mà vẫn đối địch với nó, muốn thoát ly khỏi nó vì không được thoả mãn những nhu cầu về tinh thần. Ta hay lấy những chuyện đó để làm chứng một cách hả hê cho sự tha hoá của con người sống dưới chế độ tư bản.”

 

Thực ra “Những cái giá trị cá nhân chỉ được nhìn nhận, được tôn vinh ở những xã hội tương đối tự do, các mối quan hệ giữa người với người tương đối tốt đẹp.” và xã hội đó không ở đâu khác chính là xã hội tư bản.

 

Thế còn xã hội cộng sản thì sao ?

 

Đáng sợ nhất là con người lúc nào cũng bị rình rập , bị sẵn sàng kiểm điểm  phê bình, giáo dục chính trị tư tưởng :

 

“Vậy các công dân của chế độ xã hội chủ nghĩa thì sao?”

 

“Cuộc sống tập thể đã nhấn chìm cuộc sống cá nhân, cuộc sống trong chiến tranh đã xoá nhoà mọi thói quen của cuộc sống thời bình. Lúc nào cũng có kẻ thù rình rập đâu đó để tìm cớ lật đổ chế độ bằng vũ trang, hay bằng diễn biến hoà bình. Lúc nào cũng được đồng chí trong chi bộ, bàn bè cơ quan giám sát mọi tư tưởng và hành vi để ngăn chặn mọi biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân của mỗi thành viên.”

 

 Cái điều kinh khủng nhất là Đảng luôn luôn gieo giắc sự nghi kỵ trong toàn dân để rồi người với người luôn luôn phải dè chừng, đối phó nhau cho dù phương châm cao nhất về quan hệ xã hội lúc nào cũng đề cao “ người với người là bạn “ (!) :

 

“Lúc nào cũng phải đề phòng, phải đề cao cảnh giác cách mạng, không tin cậy bất cứ ai, kể cả bạn bè.”

 

Ngẫm nghĩ thân phận mình, thân phận của những đồng nghiệp cầm bút, Nguyễn Khải phải kêu lên :”

 

“Chỉ có một điều lạ, là trong hoàn cảnh sống không có một tí tự do nào cho cá nhân mà chúng tôi vẫn sống được, lại còn viết  văn làm thơ được!”

 

Ông nhà văn quên béng một điều : đúng là “không có tý tự do nào mà chúng tôi vẫn viết văn làm thơ được ” nhưng mà là thứ văn thơ xu thời, thứ văn thơ phục vụ chính trị, thứ văn thơ dối trá kích động con người thực hiện những mục tiêu đầy tham vọng coi rẻ tính mạng con người của Đảng, thứ văn chương “minh hoạ” mà nhà văn Nguyễn Minh Châu đã “đọc lời ai điếu cho nó”.

 

Mặc dầu bộ máy tuyên truyền của Đảng ra sức bôi xấu “80 năm thuộc địa của Pháp” nhưng Nguyễn Khải lại nhìn nhận đó mới chính là giai đoạn chói sáng của văn học nghệ thuật :

 

“Suốt 80 năm sống dưới ách đô hộ của Pháp, chúng ta vẫn đặt được những viên gạch đầu tiên cho nền văn xuôi Việt Nam. Những truyện ngắn, tiểu thuyết, phóng sự, tuỳ bút của thời ấy được in trên các tuần báo hoặc xuất bản thành sách nay đọc lại vẫn thích thú, vẫn làm ta cảm động. Nhiều truyện được đọc từ tuổi niên thiếu vẫn ám ảnh ta tới tận lúc tuổi già, và một loạt các nhà thơ, nhà phê bình văn học của cái thời gọi là thuộc địa đã trở thành những tên tuổi lớn tồn tại mãi mãi trong lòng nhiều thế hệ bạn đọc. Làm thân nô lệ mà vẫn trỗi lên thành những tài năng lớn là sao? Không chỉ trong văn chương mà còn cả trong mỹ thuật, trong kịch nghệ. Không chỉ trong văn nghệ mà trong cả khoa học, giáo dục, trong kinh doanh theo kiểu tư bản và trong nhiều nghề truyền thống. Tất cả đều được bắt đầu từ những năm đầu thế kỷ, được phát sáng, được bộc lộ mạnh mẽ các tài năng cá nhân và họ đã trở thành người khai sáng, người mở đường, thành tổ nghề, không chỉ có tài lớn mà còn có đức lớn, là những nhân cách kiểu mẫu cho con cháu, cho giống nòi, đều là chuyện có thật cả, không thể bóp méo hoặc bác bỏ. »

 

Và ông nhà văn phải đau đớn thốt lên câu hỏi không chỉ dành riêng cho Đảng mà cho cả giới văn nghệ sĩ :

 

« Làm thân nô lệ ( thời pháp thuộc) mà vẫn trỗi lên thành những tài năng lớn là sao ? »

 

Và đến khi chuyển sang « đời ta có Đảng » thì các « tài năng lớn » đều bị thui chột. Vậy là sao ?


 

Đó chính vì khi « đời ta có Đảng » xã hội chuyển sang thời kỳ tăm tối còn hơn cả phong kiến :

 

« Còn thời bây giờ là một xã hội mạnh ai nấy lo, người người lấn chen nhau, tranh cướp nhau vì những tham vọng không được kìm nén, kỷ cương cũ bị xoá bỏ, kỷ cương mới chưa kịp hình thành, mọi sự đều phải làm lại từ đầu từ quốc kỳ, quốc ca, quân kỳ… Nhưng xem ra chả có mấy ai than thở về hiện trạng hỗn loại, họ cảm thấy thoải mái, bằng lòng với cuộc sống đầy bất trắc của hiện tại vì lần đầu tiên họ được lựa chọn cách sống của mình, thắng thua tự mình gánh chịu, cũng là lần đầu họ biết nhận ra cái “bản lai diện mục” của chính họ. »

 

Nhà văn Nguyễn Khải cả gan ca ngợi xã hội tư bản là mảnh đất ươm những tài năng :

 

« Cách tổ chức xã hội của giai cấp tư sản dẫu có xấu xa tới tận đâu cũng vẫn tạo được những môi trường tự do và dân chủ hơn, mở ra những cơ hội mới cho sự phát triển tài năng của mọi cá nhân và của cả cộng động. »

 

Còn xã hội « xã hội chủ nghĩa », chẳng hạn như Liên xô, lại là mảnh đất chết tiêu diệt tài năng vì tính chất « trại tập trung » của nó :

 

« Lại lấy thêm một ví dụ về nước Nga trong non một thế kỷ qua. Dưới chế độ Xô Viết, người dân Nga được nhà nước chăm lo hoàn toàn từ khi sinh đến khi chết, nhưng họ vẫn không thích, vẫn thấy ngột ngạt vì đó là cuộc sống không phải lo nghĩ của một trại tập trung, con người bị đánh số, bị xếp theo khuôn, theo hàng, chỉ nhìn thấy đám đông chứ không thể nhìn ra từng con người riêng biệt, kể cả trong triết học và văn chương. »

 

Đó là một bước tiến lớn trong hành trình tư tưởng của Nguyễn Khải. Ong đã nhìn ra được cái cốt lõi của chủ nghĩa cộng sản : « đánh đồng mọi giá trị « , trộn lẫn cái cao thượng với cái ti tiện, đồng mẫu số chung toàn bộ xã hội khiến cái « cá nhân » bị tiêu diệt chỉ còn lại bản mặt của đám đông.

 

Trong một xã hội như thế chẳng riêng gì văn chương mà các ngành nghệ thuật, khoa học khác cũng đều ngắc ngoải hoặc biến thành dị dạng . Từ đó ông công nhận những mặt sáng của chế độ thực dân :

 

« Chế độ thực dân tuy tàn bạo nhưng nó là sản phẩm của thời đại này nên nó vẫn có khả năng ươm cấy nhiều nhân tố tích cực, có giá trị bền vững cho những xứ sở nó đô hộ.

 

Những nhân tố tích cực , những « giá trị bền vững » đó chính là những thành tựu văn hoá nghệ thuật và khoa học kỹ thuật đã được « ươm cấy » trong lòng xã hội thực dân.

Tiếp tục nhận diện cái xã hội « xã hội chủ nghĩa » nơi ông lớn lên và đang sống, Nguyễn Khải vạch ra cái bản chất « toàn trị », « chuyên chế » của nó :

 

« Bất cứ nhà nước nào lấy học thuyết xã hội hoặc tôn giáo thay cho hiến pháp thì trước sau sẽ chuyển đổi thành nhà nước chuyên chế. « 

 

Tại sao như vậy ? Chính là vì trong toàn xã hội không phải ai cũng đồng thuận với cái « học thuyết » đó. Và ý chí phản kháng, tất nhiên bị đàn áp – đó là bi kịch trước hết của trí thức :

 

« Vì trong hàng triệu công dân sẽ có nhiều nhóm người không cùng lòng tin, không cùng tín ngưỡng với nhà cầm quyền. Họ trở thành những cộng đồng đáng ngờ, sẽ bị phân biệt đối xử, trước hết là mất quyền tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tự do xuất bản. Đó là nói về tầng lớp trí thức. « 

 

Thế còn thường dân ? Họ cũng bị tước đoạt « kiểu sống » của họ để nhét chung vào một rọ « cách sống kiểu mẫu chung của xã hội » :

 

« Còn những người làm các nghề khác, chả dính dáng gì đến sách vở cũng sẽ cảm thấy bị tước đoạt nhiều quyền tự do, như quyền tự do lựa chọn cách sống của riêng mình chẳng hạn. Đã độc quyền về tư tưởng tất nhiên sẽ độc quyền cả về cách sống, vì mỗi học thuyết đều có phần đạo lý của nó, nó cần tiêu chuẩn làm người đã được lý tưởng hoá của nó để làm khuôn mẫu cho tu sĩ và tín đồ. »

 

Đó là tình trạng hiện nay của xã hội Việt Nam khi « toàn Đảng toàn dân » được phát động học tập theo « gương đạo đức của bác Hồ », còn trước đây là « sống học tập theo hình mẫu con người mới xã hội chủ nghĩa ».

 

Trí thức và thường dân đã vậy, thế còn các nhà văn – tín đồ trung thành của Đảng , họ sống và viết ra sao trong xã hội « chuyên chế » đó :

 

« Lại nói về những tín đồ trung thành của chủ nghĩa Mác, những chiến sĩ theo cách mạng từ thuở mới lập nước là đám văn nghệ sĩ chúng tôi cũng “sống không dễ” trong sự viết lách. Viết đúng luật lệ thì chỉ có hai chủ đề: căm thù và hy sinh. Cũng chỉ có ba loại người được tôn vinh: công, nông, binh. Cái thế giới mênh mông, nhiều màu sắc ngày một thu hẹp và chỉ có hai màu: đỏ là quân ta, đen là quân địch. « 

 

Cái bi kịch lớn nhất của người cầm bút là sự thắt buộc, xét nét trong sáng tác , giản lược hoá đời sống thành những sơ đồ cứng nhắc và đơn điệu :

 

« Văn chương cách mạng thoạt đầu cũng lạ so với văn chương thời trước nên được bạn đọc trẻ hoan nghênh. Nhưng cứ phải đọc mãi một vài đề tài quen thuộc, một vài loại người quen thuộc và những tâm trạng rất quen thuộc ngay những bạn đọc trung thành cũng phải chán. Chính chúng tôi cũng tự chán mình. Tài đã kém lại bị bó chặt từ đầu tới chân, xoay tới xoay lui cũng chỉ có một vòng quay, ú ớ một cách nói, càng viết càng nhảm cũng là phải. « 

 

« Xoay tới xoay lui cũng chỉ một vòng quay, ú ớ một cách nói » - nhà văn khác nào nghệ sĩ múa ballet bị đẩy ra sân khấu mà lại bị buộc hai chân với nhau chỉ bằng một đoạn giây. Vậy sao mà nhảy ?

 

Trong giới cầm bút, chắc không ai thấm thía cho bằng Nguyễn Khải cái ê chề, nhục nhã của một nhà văn bị buộc phải viết theo « yêu cầu chính trị » :

 

« Một nền văn nghệ phải phục vụ chính trị (mà chính trị thì sớm nắng chiều mưa) là đã mất một nửa tự do rồi, lại phải phục chính trị theo nghĩa các chủ trương, chính sách của từng thời kỳ thì còn gì là tự do nữa. Ấy là chưa nói mỗi cấp cầm quyền lại có những yêu cầu riêng, những cách đối xử riêng, lúc nhu lúc cương, cái thằng nghệ sĩ chả còn biết lối nào mà lần. « 

 

Tất nhiên chạy theo những yêu cầu nhất thời của chính trị, văn chương làm sao có được nhưng tác phẩm để đời. Chính vì vậy Nguyễn Khải riễu cợt các thứ giải thưởng văn chương trong chế độ cộng sản :

 

« Văn chương đã đến nông nỗi ấy mà vẫn có giải thưởng quốc gia, nhưng những tác phẩm được giải thưởng Lenin, Stalin liệu có còn cuốn nào được người Nga hôm nay muốn đọc lại. Tôi cũng được giải thưởng văn chương cao nhất cấp quốc gia, nhưng tôi biết chỉ mươi năm nữa, thời thế đổi thay chắc chả còn ai nhớ tới mình nữa. « 

 

Hơn ai hết, Nguyễn Khải tự biết tác phẩm « phục vụ chính trị của ông » rồi đây sẽ « tung toé « hết và ông chỉ là nhà văn của một thời :

 

« Tôi là nhà văn của một thời, thời hết thì văn phải chết, tuyển tập, toàn tập thành giấy lộn cho con cháu bán cân. Buồn nhỉ? Nghĩ lại cũng chả có gì phải buồn, con người vốn sống trong những chiều kích hữu hạn lại mơ tưởng những gì do con người làm ra sẽ thuộc về vĩnh viễn, có hoạ rồ! Tất nhiên vẫn có nhiều công trình của trí tuệ thuộc về cõi bất tử nhưng là của các thiên tài. Với bộ não con sâu cái kiến, ngước nhìn những cái đầu khổng lồ ấy làm gì cho thêm buồn ra. Hãy viết những gì trong cái tầm nhìn tầm nghĩ của con sâu cái kiến vậy. Một cách nghĩ thiếu “tự hào dân tộc” nhưng chắc chắn là một cách nghĩ đúng. Đã từng có những quốc gia từng nghĩ từng viết rất tự hào, rất kiêu hãnh rằng dân tộc họ đã sải bước trước nhân loại cả trăm năm, sắp chạm tay vào cánh cửa thiên đàng rồi! Mà rồi sao nhỉ? Là như mỗi chúng ta đều đã được chứng kiến trong suốt mấy chục năm nay đấy! »

 

Đúng là nỗi buồn đến ê chề của một nhà văn biết rằng mình trắng tay đi sang thế giới bên kia sau cả một đời cầm bút tận tụy phục vụ Đảng.


 

Khi Nguyễn Khải viết « đã từng có những quốc gia từng nghĩ từng viết rất tự hào, rất kiêu hãnh rằng dân tộc họ đã sải bước trước nhân loại cả trăm năm, sắp chạm tay vào cánh cửa thiên đàng rồi! « thì tức là ông nhắm tới Liên xô và các nước trong phe xã hội chủ nghĩa mà máu « thỏ đế » vẫn còn cho tới nhắm mắt xuôi tay nên không dám nói toạc ra.

Liên xô và phe XHCN xưa nay vẫn là mẫu mực trương lên trước mũi dân tộc như một tương lai xán lạn Đảng dẫn dắt toàn dân đạt tới, là thành trì vững chãi làm chỗ dựa cho lý thuyết xây dựng chủ nghĩa xã hội .

 

Than ôi, như sét đánh giữa trời quang, can qua nổi lên chỉ ngày trước ngày sau cả Liên xô lẫn thành trì phe xã hội chủ nghĩa sụp đổ tan tành. Biến cố huy hoàng và vĩ đại từ độ ấy mà mãi nhắm mắt, Nguyễn Khải mới dám nhìn nhận nó :

 

« Trong những năm 90 của thế kỷ 20 nhiều vị lão thành cách mạng Việt Nam lấy làm kinh ngạc và đau đớn trước sự tiêu vong quá nhanh của một siêu cường mà chân móng của nó đã ăn sâu trong mảnh đất Nga non một thế kỷ. « 

 

Và lần đầu tiên ông nhà văn dám đặt bút lý giải sự sụp đổ có tính cách biểu tượng của chủ nghĩa cộng sản đó :

 

« Thật ra toà lâu đài kiểu mẫu của tương lai ấy không hề có chân móng. Nó được xây trên cát. »

 

Hoá ra vậy , hoá ra lâu nay « Liên xô thành trì vĩ đại » lại là công trình xây trên cát. Đó là sai lầm chết người của hệ thống. Liên xô đã vậy, còn giấc mơ cộng sản của Việt nam được xây trên cái gì ? Ông nhà văn tuy có gan lý giải nhưng chưa dám đi sâu vào cốt lõi :

 

« Mọi thay đổi lớn đều dựa vào phong trào quần chúng được hình thành, được vận động chỉ bằng có tuyên truyền chứ không từ nguồn lực tự thân. Tất cả đều phải ép buộc, đều phải dàn dựng, và phải có các diễn viên chuyên nghiệp trình diễn theo một kịch bản độc nhất. Có hai nhà văn lớn của Châu Âu đều được mời xem màn diễn về một xã hội lý tưởng do người cộng sản lãnh đạo. Ông Romain Rolland thì khen không hết lời, còn ông André Gide thì chê từ đầu đến cuối. Vì một ông chỉ nhìn có cái mặt tiền, cái tổng thể, đến đâu cũng thấy dân chúng ca hát, nhảy múa và vẫy cờ, vẫy hoa. Còn một ông lại chỉ quan sát cái sân sau của chế độ và thân phận của nhiều cá nhân ông có dịp tiếp xúc. Đám đông thường cho ta cái cảm giác sai vì họ không thể giữ được tính độc lập trong tình cảm và phán xét. Còn cá nhân thì cái thân phận riêng tư của họ bao giờ cũng thuộc về nhân loại hôm nay và mai sau. »

 

Ông cho rằng sai lầm của mấy ông lãnh tụ cộng sản là chỉ biết tuyên truyền, tuyên truyền chứ không phải nguồn lực tự thân. Thực ra, sức mạnh của chế độ cộng sản không chỉ là tuyên truyền , sức mạnh của nó nằm trong nền « chuyên chính vô sản ». Nếu không có kìm kẹp, không có đàn áp, không có tù đầy, bắn giết thì « sự tuyên truyền » cũng chẳng có tác dụng gì nhiều . Chính cái nền chuyên chính đó đã tước đi của người công dân những quyền sống cơ bản :

 

« Một xã hội mà công dân không được quyền sống thật, nói thật, nhà văn cũng không được quyền bộc bạch tâm sự riêng tư của mình trên trang giấy là một xã hội không có chân móng. « 

 

Khi Liên bang xô viết tan vỡ, người ta mới thấy sự liên kết giữa các nước trong khối liên bang là một cuộc hôn phối áp đặt chứ chẳng phải dựa trên « tình hữu nghị giữa các dân tộc » và lúc này sự tranh chấp mới nổ ra :

 

« Các quốc gia cùng sống với nhau trong một liên bang, gọi nhau là anh em là đồng chí, nhìn ngoài thấy họ sống cũng yên ấm vui vẻ. Vậy mà khi họ chia tay nhau cũng dửng dưng. Và ngay lập tức họ nhận ra nhiều mối lợi trên đất nước mình đã bị người anh em ruột thịt chia sẻ trong một cuộc đổi chác không công bằng. Thế là bắt đầu những cuộc tranh chấp các đường biên giới, đã có lúc phải dùng đến xe tăng, đại bác để nói chuyện. « 

 

Rồi quan hệ giữa các nước ngày xưa trong liên bang với « phe đế quốc » xem ra lại mặn mà hơn với « các đồng chí trong liên bang cũ » :

 

« Khi Mỹ và NATO muốn đặt căn cứ quân sự trên đất nước họ, nhân danh chống khủng bố họ gật đầu liền đâu biết Mỹ là đối thủ của nước Nga anh em. Yêu Mỹ là tất nhiên vì Mỹ sẽ rót tiền vào những cái két rỗng của họ. Ghét Nga cũng là lẽ đương nhiên vì xưa kia anh bắt nạt tôi, lấn át tôi, xem tôi như chư hầu, như thuộc địa, bây giờ chính là lúc tôi có quyền trả thù. »

 

Tuy nhiên ông nhà văn Nguyễn Khải lại tỏ ra rất ngây thơ và nông cạn khi nghĩ rằng các nước SNG trong Liên bang xô viết cũ mặc dầu đã « chia tay hoàng hôn » nhưng vẫn còn « tình đồng chí « cũ :

 

« Lúc giận nhau thì nghĩ nông cạn thế, còn bình tĩnh lại thì giữa các nước cộng hoà trong liên bang Xô Viết (cũ) vẫn có sự ràng buộc tự nhiên và máu thịt trong lịch sử vì họ đã là người một nhà non một thế kỷ, đã cùng nhau sống chết chống hiểm hoạ phát xít để bảo vệ sự tồn tại của Liên bang cũng như của các nước cộng hoà. Lại đã cùng nhau sinh con đẻ cái, đã pha trộn ngôn ngữ, văn hoá và kỷ niệm. Bây giờ mỗi quốc gia vừa được trở lại là chính mình, vừa có phần đóng góp thêm của các nền văn hoá lân cận, bạn bè, giàu có hơn trước, văn minh hơn trước. Rồi họ cũng sẽ sống với nhau như một cồng đồng của khu vực, nhưng lần này là tự nguyện, là do họ tự chọn một hình thức liên minh bình đẳng, dân chủ và hoàn toàn tự do. Bất cứ một thiết chế xã hội nào nhắm tới dân chủ và tự do, xây một xã hội mở, một liên minh mở sẽ có may mắn tồn tại được lâu dài với sự đồng thuận của mọi người và sự hài lòng của mỗi cá nhân ».

 

Nếu như ông Nguyễn Khải sống đến tận bây giờ để chứng khiến hai người anh em cũ là Nga và Gruzia mang xe tăng đại bác choảng nhau do tranh chấp vùng Nam Ossettia thì hẳn ông không còn có nhận định như trên nữa.

 

Nguyễn Khải cho rằng chỉ cần sống tới 90 tuổi thì sẽ « rất minh mẫn trong cách đối nhân xử thế, vẫn giữ được tính cách riêng mà không làm mất lòng một ai, từ con cháu trong nhà đến các mối quan hệ ngoài xã hội » sẽ « biết mọi bí mật của then máy tạo hoá » để « sẵn sàng tiếp nhận mọi sự khác lạ như bây giờ, kể cả sự phủ định chính mình… »

 

Thực ra chẳng chờ tới năm 90 tuổi, ngay từ năm 70 Nguyễn Khải đã nhận ra bao « sự khác lạ » về chủ nghĩa cộng sản, về lý tưởng của chiếc thẻ Đảng mà ông vẫn cất giữ để mà « phủ định chính mình ».

 

Một điều « khác lạ » mà Nguyễn Khải nhận ra là « quan hệ giữa quần chúng và lãnh tụ ». Trước hết ông « hiểu ra mọi sự rút gọn ở đời đều trái tự nhiên, đều dẫn đến thất bại » để đi đến kết luận mà vào thời Lê Duẩn, Lê Đức Thọ ắt hẳn ông đã bị bỏ tù :

 

« Mọi phong trào thi đua chả có ích lợi gì trong những việc cần nhiều chăm sóc nhẫn nại, bền bỉ, bắt đầu từ các cá nhân chứ không phải từ các đám đông với những khẩu hiệu, cờ quạt, kèn trống, diễn văn và đáp từ, vỗ tay và tặng hoa. Đám đông không thể đứng mãi dưới nắng để nghe lãnh tụ diễn thuyết. Họ luôn mong đợi được giải tán để về nhà. Con người ở nhà vẫn cũ kỹ nhưng là người thật chứ không phải là sự nhập đồng chốc lát khi đứng trong đám đông. Tôi thật lòng yêu mến, ngưỡng mộ Fidel, một nhà yêu nước kiên cường, một nhân vật đã thuộc về lịch sử của Cuba. Ông là một trí thức lớn, bạn tâm giao của Marquez, nghe nói trong túi lúc nào cũng có một cuốn tiểu thuyết đang đọc dở. Bởi vậy tôi mới lấy làm lạ khi ông buộc dân chúng phải đứng hàng nửa ngày dưới nắng để nghe ông cao đàm khoát luận về đủ mọi vấn đề. Lúc cách mạng mới thành công nói dài thế vì người dân còn đang háo hức với cuộc sống mới và các ngôn từ cách mạng cũng rất mới. Như một cặp tình nhân đang yêu nhau, đang cần nhau, nói với nhau đủ thứ chuyện vớ vẩn nhưng chả ai thấy thời gian là dài. Còn đã thành vợ thành chồng thì chỉ cần nói ít thôi, chỉ nói những việc cần làm thôi, chứ cần gì những thuyết lý dông dài. Mao Trạch Đông cũng thế, ông là một nhà chính trị thông kim bác cổ, quanh nơi ông làm việc và cả nơi ông nghỉ ngơi sách đang đọc xếp từng chồng, nhưng xem ra cũng chả hiểu đồng bào ông bao nhiêu. « 

 

Dám nói lãnh tụ là chẳng hiểu gì dân chúng thì quả liều mạng.

 


 Đó là viết về lãnh tụ, thế còn « quần chúng nhân dân ».

 

Xã hội miền Bắc vào những thập kỷ 60 luôn luôn náo động bởi những đợt « học tập chính trị » . Nào « chỉnh huấn mùa xuân…mùa thu… » nào « tình hình nhiệm vụ mới » trong đó Đảng luôn luôn không để cho dân chúng được yên mà thông qua những đợt « vận động « đó để kiểm soát, rèn giũa tư tưởng sao cho toàn xã hội không còn le lói một tia sáng « phản loạn ». Nhận định về thời kỳ đó, Nguyễn Khải viết :

 

« Người dân ở đâu cũng thế, đều muốn có một cuộc sống bình yên, được tính việc cá nhân và gia đình trong một khoảng thời gian dài, một trăm năm chẳng hạn, không có những thay đổi lớn trong lối sống, trong công ăn việc làm, trong các giá trị, đặt biệt là giá trị của đồng tiền. Chứ cứ phải sống mãi từ năm này qua năm khác trong các phong trào cách mạng, lúc chống tả lúc chống hữu, những hội nghị toàn quốc và địa phương nối nhau không dứt, những hô hào la hét từ trong nhà ra ngoài đường như một lũ hoá rồ, các quan hệ xã hội và các giá trị thay đổi soành soạch thì còn biết đằng nào mà sống... »

 

Những « phong trào cách mạng », « những hội nghị toàn quốc », « những hô hào la hét ..như một lũ hoá rồ » …chính là những « liệu pháp » kích động cơn lên đồng tập thể của quần chúng để tập trung vào những mục tiêu mà Đảng dẫn dắt toàn xã hội phải chú ý tới. Chính vì vậy không còn « khoảng trời riêng » cho cá nhân, không còn « giây phút tĩnh lặng » để ngắm một bức tranh tĩnh vật. Dường như « âm thanh và cuồng nộ » là đặc trưng cơ bản nhất của một xã hội cộng sản nhất vào thời chiến tranh mà chiến tranh thì kéo dài liên miên khiến trong vòng nửa thế kỷ nó trở thành « vật bất ly thân » của xã hội đó.

 

Trong suốt cuộc đời Nguyễn Khải, dường như ông viết văn dưới sự cưỡng ép của những quan điểm văn học của Đảng, về cuối đời chưa giải thoát được nó trong sáng tác, thì ông rũ bỏ nó bằng tuyên ngôn . Trước hết ông vạch trần sai lầm của lý thuyết mác xít ảo tưởng « cải tạo con người « :

 

« Do không hiểu con người cá nhân, hoặc chỉ hiểu theo những phân tích máy móc, nông cạn của chủ nghĩa duy vật cơ giới của thế kỷ 19, nên các nước xã hội chủ nghĩa mới dám đặt ra những mục tiêu huênh hoang nhằm cải tạo con người trong vài thập kỷ nếu môi trường xã hội thay đổi »

 

Théo Nguyễn Khải, tất cả những thứ « cải tạo » đó là vô bổ, bởi lẽ :

 

« Về cái thế giới tinh thần của mỗi cá nhân hãy để cho mỗi cá nhân tự lo liệu lấy, nó không thích người khác can thiệp bằng bất cứ cách nào. « 

 

Chính vì quan niệm cần và có thể cải tạo được con người , Đảng đã chất lên vai nhà văn cái danh hiệu « kỹ sư tâm hồn », coi nhà văn như nhà giáo :

 

« Nên mới gọi nhà văn là “kỹ sư tâm hồn”…Cái mục đích “tải đạo”, “giáo dục” của văn chương không bao giờ lộ liễu, lộ liễu là văn chương tồi. « 

 

Nguyễn Khải cãi lại Đảng bằng những lời thật hào sảng :

 

« Vả lại chính người viết cũng không có ý định ấy, họ viết bằng tâm sự thành thật của mình, những trải nghiệm đau đớn của mình, họ viết cho họ trước rồi cho độc giả sau, có khi họ cũng chả nghĩ đến những người sẽ đọc họ, viết mà chơi thôi, viết để giải sầu rồi tự mình ngậm ngùi với mình, ứa lệ với riêng mình. Chả trách ai cả, chả giận ai cả, cũng chả lên án một ai. Vì không có vật cản nào nảy sinh trong ta khi đọc nên chữ nghĩa của tác phẩm cứ mặc nhiên trôi vào tận những kẽ ngách trong cái tâm sự u uẩn, những khát vọng thầm kín của riêng ta, đọng lại trong ấy, rồi cứ thẩm thấu dần dần vào cái thế giới tinh thần của ta một cách vô thức, giúp ta nhận ra một vùng sáng mới lạ nào đó, gột rửa một vài thành kiến, thay đổi một vài quan niệm, và ta vẫn nghĩ một cách khoan khoái là chính tự ta đã chủ động thay đổi, tuyệt nhiên không theo lời chỉ bảo của một ai cả, của một học thuyết nào cả, hoặc nhập vào một cách bất chợt một phong trào thời thượng nào cả. Bất cứ cái gì xa lạ với bản tính của mình, với thói quen của mình, nói một câu, với những gì làm nên lai lịch của mình, chả sớm thì muộn đều bị đào thải để mình lại được trở về với cái nguyên gốc. .. « 

 

Than ôi, lẽ ra trong sáng tác, Nguyễn Khải « tuyệt nhiên không theo lời chỉ bảo của một ai cả, của một học thuyết nào cả, hoặc nhập vào một cách bất chợt một phong trào thời thượng nào cả » như ông đang tuyên ngôn tiếc thay mọi việc đã diễn ra theo chiều ngược lại, ông đã tự cầm tù trong dòng « văn chương phải đạo », viết ra hàng loạt, hàng loạt những tiểu thuyết truyện ngắn mà bây giờ chế độ cộng sản tuy còn đó mà văn chương xu phụ nó đã bị quăng vào sọt rác của lịch sử. Lẽ ra bằng tài năng, ông có thể viết ra một thứ văn chương để đời :

 

« Văn chương do con người làm ra để trao tặng cho con người một cách tự do nhất, ít bị ép buộc nhất. Chỉ có văn chương mới tôn trọng mọi giá trị của cá nhân, tôn trọng mọi lựa chọn của cá nhân kể cả những thành kiến phi lý của họ. Họ có quyền yêu mình hoặc ghét mình , tôn vinh mình hoặc nguyền rủa mình, chả sao cả. Người viết cứ viết người ghét cứ ghét kể cả cái quyền ném sách vào lửa. « 

 

Đó là thứ văn chương « tôn trọng mọi giá trị của cá nhân » chứ không phải thứ văn chương « phục vụ chính trị », « phục vụ kịp thời » như Nguyễn Khải đã để lại cho người đời sau. Và cuối đời nhìn lại, so sánh với các nhà văn trong « thế giới tự do », Nguyễn Khải đã thấy xót xa trong lòng :

 

« Năm đất nước mới thống nhất vào Sài Gòn được gặp gỡ các nhà văn nhà báo, các nghệ sĩ của chế độ cũ mà thèm. Họ sống thoải mái quá, nói năng hoạt bát, cử chỉ khoáng đạt, như chưa từng biết sợ ai. Còn mình thì đủ thứ sợ, sợ gặp người thân vì chưa rõ họ có liên quan gì với Mỹ nguỵ? Nói cũng sợ vì nói thế là đúng hay sai? Đến vẻ mặt của mình cũng phải canh chừng, vui quá sợ mất cảnh giác, khen quá có thể đã ăn phải bả của nền kinh tế tư bản. Người lúc nào cũng căng cứng, nói năng gióng một nên bị bà con trong này chê là quê, nhà văn nhà báo gì mà “quê một cục” (…). Tôi còn sợ rồi sẽ có ngày lịch sử sẽ trừng phạt mình vì cái tội muốn khôn hơn lịch sử, muốn đánh lừa lịch sử! »

 

Tiếc thay , lời « phản tỉnh » này được nói ra ngay tại Sàigòn vào tháng 4 năm 1975 thì sự hoà hợp giữa các nhà văn của hai miền đã thành tựu được một bước khá dài. Cái thân phận « nhà văn cách mạng » được Nguyễn Khải nhớ lại nghĩ thật là thảm :

 

 « Trong nửa thế kỷ sống dưới sự lãnh đạo của một Đảng theo học thuyết Mác Lê, tôi luôn luôn được nhắc nhở phải tôn trọng quần chúng, sức mạnh của quần chúng có thể thay đổi dòng chảy của lịch sử và số phận của nhiều cá nhân(…). Một xã hội có hàng triệu cá nhân không được đếm xỉa, không được tôn trọng nhưng một nhúm cá nhân lại được tôn vinh hết mức và được được hoàn toàn thoả mãn trong mọi nhu cầu là cái xã hội gì đây, là xã hội kiểu mẫu cho nhân loài tương lai ư?! Nói miệng mấy chuyện kỳ cục này đã khó nghe, lại còn viết thành văn mà các nhà văn không thấy ngượng sao? Ngượng thì vẫn ngượng nhưng chả lẻ lại gác bút, gác bút thì nuôi vợ con bằng gì? Nghĩ tới miếng ăn lại phải quên hết để sự bán mình cho quyền lực được hoàn toàn. « 

 

Nhưng « bút ký chính trị » của Nguyễn Khải còn đi xa hơn chuyện văn chương.


 

Có thể nói không ngoa Nguyễn Khải là nhà văn Việt Nam đầu tiên lôi chủ nghĩa cộng sản ở Việt nam ra pháp trường lần lượt nhằm bắn vào những yếu huyệt . Một mặt cái chủ nghĩa này chủ trương « đấu tranh giữa các mặt đối lập là động cơ của tiến hoá « mặt khác trong « nội bộ Đảng » họ lại hạ xuống một cấp , không còn là « đấu tranh giữa các mặt đối lập nữa » mà chỉ còn là … »phê bình và tự phê bình ».

Nguyễn Khải thẳng thắn vạch ra cái trò « phê và tự phê » đó là giả dối, vô tích sự :

« Các đảng cộng sản đều coi phê bình và tự phê bình là cách giải quyết mâu thuẫn nội bộ hữu hiệu nhất. Sự vật vận động sẽ sinh mâu thuẫn, giải quyết được mâu thuẫn sự vật mới có cơ hội phát triển, tiến lên. Phủ định và phủ định của phủ định, nghe vừa khoa học vừa huyền bí, như câu thần chú: “Vừng ơi, mở cửa ra!”, cứ đọc to lên là cánh cửa vào tương lai sẽ mở toang.(…). Nếu tin vào câu thần chú ấy thì Mao Trạch Đông đã không bày ra tấn tuồng “cách mạng văn hoá” để tiêu diệt mọi kẻ dám can ngăn những chủ trương đầy tính phiêu lưu của ông. Ấy là nói về những người nắm quyền lực cao nhất, còn những người nắm những cơ quan quyền lực thấp hơn cũng chả bao giờ họ tin vào cái phương pháp lãng mạn đó cả. Trong các cấp uỷ họ vẫn tự phê bình và phê bình nhau một cách sốt sắng giả dối. … »

Chính vì toàn thể cán bộ đảng viên cho tới nay vẫn đồng lòng và được phép diễn cái trò dối trá này nên cái xấu không hề bị tiêu diệt và cái ác ngày càng nảy sinh :

« Và ai nấy đều tự bằng lòng hơn sau những lễ xưng tội giải tội hết sức vui vẻ này. Và mọi thói xấu, kể cả tội ác nữa, vẫn nghiễm nhiên tồn tại như trước đây, vẫn là những vùng cấm chỉ những kẻ quá chán đời mới dám đơn độc xông vào (…). Đó là một màn diễn khổng lồ, rất tốn kém, chả đem lại bất cứ kết quả nào. Vì chỉ là diễn thôi, người cũ kẻ mới đều vào vai rất thành thạo. Rút cuộc kẻ có tội vẫn ngày càng hung hãn, càng tự tin, còn người tố tội càng lúc càng dè dặt, hãi sợ. Kỳ quái nhỉ? »

Bởi lẽ định nghĩa con người là « tổng hoà các mối quan hệ xã hội » nên những người cộng sản bỏ qua cái phần sâu thẳm, cái phần mù mờ, « những tiếng thì thầm rất nhỏ mỗi đêm trong chính mình » :
« Con người có 2 mắt đều hướng ra cái thế giới vật chất bên ngoài, không có con mắt nào hướng vào trong để ngắm nghía, kiểm soát cái thế giới tinh thần của nó nên nó bị mù một nửa, cũng như nó không có cái tai bên trong nên không thể nghe được những tiếng thì thầm rất nhỏ mỗi đêm trong chính mình. Hai cái khuyết tật bẩm sinh ấy đã làm con người thiếu hoàn chỉnh, là nguyên do mọi đổ vỡ của nhiều danh nhân dũng tướng vào những năm cuối đời. Nhưng cũng có một số ít người có khả năng nhìn được sự vận động cả trong lẫn ngoài, nghe được những tiếng động rất nhỏ cả ngoài lẫn trong. Họ không có cấu tạo vật chất đặc biệt nào mà chỉ bằng cái năng lực tinh thần rất mạnh đã bù đắp được những khiếm khuyết bẩm sinh. « 

Mất cái khả năng « lắng nghe chính mình » hoặc không được phép thăm dò vào những vùng cấm đó, ngay đến các lãnh tụ cộng sản khi viết hồi ký cũng chỉ toàn một màu anh hùng :

« Nhiều tập hồi ký của các danh nhân cả chính trị lẫn văn hoá đều thiếu cái phần còn nhày nhụa của họ, cái phần thú vật của con người nơi sản sinh ra những tội ác chưa hình thành, cái què quặt, cái buồn cười đã được kiềm chế đúng lúc, đã được giấu nhẹm, cái phần họ muốn quên đi và rất dễ trở thành lang sói với đồng loại nếu trong đồng chí, đồng nghiệp còn có người biết đến và nhớ tới. Cuộc chiến đấu lớn, có tính bi kịch giữa mình với mình bao giờ cũng hoành tráng, cũng đẹp, rực rỡ những màu sắc đối nghịch vì nó đã bộc lộ đầy đủ nhất cái phẩm chất LÀM NGƯỜI trong mỗi CON NGƯỜI. Không phải bất cứ ai cũng tạo ra được trận chiến thần thánh ấy, vì chiến trường ở ngay trong lòng mình, mình vừa là kẻ thách đấu vừa là kẻ dám nhận đấu, dẫu thua cũng là cái thua của thần thánh. Một công việc trang trọng đến thế, hùng tráng đến thế mà lại dám nghĩ là công việc của số đông, của những người chưa hề chuẩn bị một cái nhìn bên trong, một cái nghe bên trong cho riêng mình, cả đời họ sống trong tự mãn, trong u mê, bất thần mời gọi hãy nhìn lại mình, hãy nhìn lại người để có được những phán xét và điều chỉnh chuẩn xác! (…). »

Mất cải khả năng ‘tự vấn », mất cái khả năng « tự nhận thức », « tự tra vấn mình », các lãnh tụ cộng sản chỉ còn tìm tới những cái gây thích thú ở nơi  đám đống. Đó là những cái mà Nguyễn Khải vạch ra sơ sơ đã thấy hãi hùng :

« Không có mùi vị của thuốc súng, của máu người và những tiếng la hét cuồng nộ của đám đông thì người cầm quyền biết thở bằng gì! »

Vậy chẳng hóa ra những người cầm quyền là những con thú say máu hít thở bằng tiếng « cuồng nộ của đám quần chúng » và bằng máu người. Nguyễn Khải quả thực đã rất « nhà văn » khi đi tới cùng việc vạch trần bộ mặt giả nhân giả nghĩa của những người thành thạo thích kích động quần chúng để được nghe tiếng la hét cuồng nộ của đám đông.

 Thoát khỏi vòng kim cô của Đảng bắt ne bắt nét nhà văn phải viết thế này phải viết thế kia, Nguyễn Khải định vị lại cho chỗ đứng và bản chất của văn chương : 

»Tập thể không làm ra văn chương vì nó không có cảm nghĩ riêng, tâm sự riêng, tính cách riêng. Nó là vô danh. Một tâm sự mãn nguyện, những tiếng cười hoan lạc, một kiếp người quá đầy đủ cũng không thể có chỗ đứng trong văn chương. Vì văn chương bao giờ cũng thuộc về những tiếng kêu của con người để đòi lại những gì còn thiếu: thiếu tự do, thiếu công bằng, thiếu hạnh phúc… »

Vậy là văn chương tuyệt nhiên không thể là tiếng kèn xung trận các nhà văn thổi lên thật to để giúp Đảng đốc thúc , cưỡng ép hàng triệu, hàng triệu con người đi vào chiến tranh giành giật quyền thống trị trên cả nước . Ngược lại, văn chương phải là « những tiếng kêu than của con người ».

Thực sự, Nguyễn Khải đã điểm đúng huyệt :

« Đời người là bể khổ, những khao khát về tinh thần của con người là vô cùng nên mới cần có văn chương và nghệ thuật để bù lại. Còn mọi thứ đều được biết, đều đầy đủ, đều mãn nguyện thì tôn giáo không còn, triết học không còn, và tất nhiên văn chương cũng không thể còn. Nó sẽ chết vì bị ngạt, vì không còn những khoảng trống huyền bí để suy nghĩ, để mơ mộng và để thở. Những gì mà chủ nghĩa cộng sản hứa sẽ thành hiện thực trong tương lai thì cái hiện thực ấy sẽ giết chết cả loài người. Vì thượng đế đâu cần những con dòi béo quay lúc nhúc dưới chân Ngài. « 

Khi hứa hẹn một xã hội « làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu », một xã hội « thiên đàng » thì họ đâu có biết họ đã giết chết con người .

« Cũng may đó chỉ là những lời nói dối, tự dối mình và dối người của những con người đã phải sống nhiều trăm năm trong cùng khổ, trong tuyệt vọng. Còn hướng tới thiên đàng ư ? Là thiên đàng trần gian hay thiên đàng thượng giới cũng không một ai có thể sống nổi. Sống không lo nghĩ, không mong muốn, không đấu tranh là kiếp sống con dòi rồi. Chả lẽ những con dòi cũng có thể cất cao những cái đầu múp míp của chúng để làm ra triết học và thơ ca! »

Vậy thì cái « thiên đàng vẫy gọi « kia chỉ đáng giành cho đám giòi bọ. Một sự « tỉnh thức vĩ đại » của Nguyễn Khải không chỉ bằng sách vở, tư biện mà chính là ông đã « nghiệm sinh » trong đời sống :

« Những điều viết trên đây không do tôi tưởng tượng ra mà do những trải nghiệm bản thân mà có. Những năm còn trẻ cả vợ lẫn chồng đều ăn lương quân đội, lại phải nuôi dưỡng những bốn đứa con, nhà ở ven bãi sông năm nào cũng phải chạy lụt, lại quá chật có 15 mét vuông. Ăn thì mì hai phần gạo một phần, gạo phải nhặt sạn cả buổi mới dám nấu thành cơm.

Còn thức ăn ư? Chả nói nữa ai cũng ăn như thế, ăn dưa ăn mắm suốt mấy chục năm đã hoá quen. Cả nhà chỉ có hai cái giường, một cái bàn, hai cái ghế, tiếp khách ở đấy, mời cơm khách ở đấy, con học bài cũng ở đấy, và ông bố viết văn cũng chỉ có cái bàn ấy. Đêm đêm nằm cạnh hai thằng con trai lớn đạp ngang, quẫy dọc, rắm đánh thối um, vừa quạt cho hai thằng con ngủ tôi vừa mơ mộng đến một ngày nào đó, các con đã trưởng thành, tôi có được một phòng riêng để viết và tiếp bạn, mỗi bữa cơm đều có cá hoặc thịt, có cả chút rượu nữa càng hay.

Tôi không phải lo nuôi con, không phải lo cả trăm thứ vặt vãnh để tồn tại, chỉ có đọc sách, ngẫm nghĩ, đi chơi đây đó với bạn bè và viết, ắt hẳn tôi sẽ viết được một hai cuốn sách để đời. Bây giờ tôi đã ngoài bảy chục tuổi, đã có đầy đủ những gì tôi khao khát, có thể nói còn hơn cả khao khát. Tôi đã sống đầy đủ, sang trọng nữa, hơn nhiều nhà văn tôi được biết ở các nước Đông Âu. Và tôi đã nghĩ nếu chủ nghĩa cộng sản thành công ở Việt Nam thì cũng chỉ cho được tôi đến thế. Khốn nỗi, lúc này tôi đâu còn năng lực làm việc bằng trí tuệ nữa mà cũng chả có nhu cầu nào phải đòi hỏi. Cuộc sống được vỗ béo của một kẻ ăn không ngồi rồi đã giết chết mọi tư tưởng ở trong tôi, rồi giết luôn đến đội quân chữ nghĩa, chúng đã hoá ra rỗng tuếch, vô hồn. Nhà văn mà hết chữ thì chỉ là cái xác chết. Xác chết con người với xác chết con dòi có gì là khác mà phải phân biệt ! »

Đó thực sự là những sám hối chân thực , dũng cảm và đanh thép.
Sau khi sổ toẹt bằng hết những luận điểm cơ bản của Mác- Leênin , Nguyễn Khải nhìn thẳng vào nhưng vấn đề cốt lõi, những vấn nạn hàng đâu của xã hội Việt Nam. Ngòi bút của ông như lưỡi dao sắc bén mổ phanh những ung nhọt mà cả bộ máy tuyên truyền của đảng ra sức bưng bít.

Đại thắng mùa Xuân được ra rả tụng ca trong suốt 30 năm bằng những ngôn từ sáo rỗng được Nguyễn Khải đặt câu hỏi sinh tử : bằng những hy sinh mất mát của cả triệu con người , nó mang gì tới cho dân tộc . Và ông huỵch toẹt :

“Một nửa nước đã được độc lập nhưng lòng người tan nát vì tài sản một đời chắt chiu của họ đã bị nhà nước tịch thu hoặc trưng thu khiến họ trở thành những người vô sản bất đắc dĩ. “

Lòng người tan nát không chỉ vì tài sản một đời đã bị tịch thu mà còn vì những chịu đựng mất mát khác khó nói cho hết thành lời. Riêng với giới trí thức thì :

“Tầng lớp trí thức chả có tài sản gì ngoài cái đầu được tư duy tự do, thì cái đầu cũng bị nhà nước trưng thu luôn, vì từ nay họ chỉ được nghĩ được viết theo sự chỉ dẫn của một học thuyết, của một đường lối nếu họ không muốn giẫm vào vết chân của nhóm “Nhân Văn Giai Phẩm”. “

Nhìn lại tình cảnh dân tộc sau ngày thống nhất hai miền Nam Bắc, ông nhà văn thẳng thừng :

“ Một dân tộc đã làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ mà mặt người dân nám đen, mắt nhìn ngơ ngác, đi đứng long rom như một kẻ bại trận. Quả thật dân tộc Việt Nam đã thắng lớn trong phong trào chiến tranh giải nhưng lại thua đậm trong công cuộc xây dựng một xã hội tự do và dân chủ…”

Vì sao, vì sao dân tộc lại đâm đầu vào thảm trạng đó, Nguyễn Khải đã phải kêu lên đau đớn :

Thoát ách nô lệ của thực dân lại tự nguyện tròng vào cổ cái ách của một học thuyết đã mất hết sức sống. Dân mình sao lại phải chịu một số phận nghiệt ngã đến vậy!”

Tuy nhiên, vì sao “cái ách của một học thuyết đã mất hết sức sống” tròng vào cổ dân ta lâu đến như vậy, lâu cho tới tận bây giờ và chưa biết bao giờ mới chấm dứt và trách nhiệm về những ai thì Nguyễn Khải chưa trả lời được , ông chỉ nhắc nhở giới nhà văn :

“ Một xã hội tan nát, lòng người chĩu nặng những phiền muộn ưu tư, mà là những người đã hết lòng hết sức với kháng chiến bằng cách này hay cách khác. Vậy nhà văn phải viết như thế nào, phải viết cái gì để tạo được một hiện thực tràn đầy hy vọng như các nhà lãnh đạo cách mạng yêu cầu.”

Đó là một công việc bất khả, nếu nhà văn không thét lên được những âm thanh cuồng nộ thì dù có thốt lên những tụng ca trơ trẽn, vô liêm sỉ như lãnh đạo yêu cầu, thì chúng cũng bị mau chóng sổ toẹt bằng sự thờ ơ của công chúng.

Về trách nhiệm nhà văn, Nguyễn Khải đau đớn sám hối “

“ Về già tôi mới nhận ra nhà văn phải nghe theo tiếng gọi của tình cảm, của trái tim, của cái phần thiện lương trong con người mình. Nó đã bảo sai là sai, không có thứ lý luận nào chống đỡ nổi. Vả lại văn chương bao giờ cũng đồng cảm với nỗi đau của con người, những bất hạnh của con người. Chưa bao giờ vì sự mãn nguyện, sự thành công của con người mà cất lên tiếng hát ca ngợi cả. Ở các thể loại nghệ thuật ngôn từ con người phải chống chọi với mọi cảnh ngộ trái ngược chiếm gần hết các trang viết, các màn diễn, còn khi người nghèo đã thành giầu, người hèn được bước vào thế giới phú quý, trai gái phải chịu nhiều năm chia lìa tới lúc tái hợp là cuốn sách, vở diễn phải chấm hết ngay. Nó đã kết thúc cái phần nghệ thuật để bắt đầu sang phần tụng ca là cái thế giới của mãn nguyện của buồn chán, là cái phần phi nghệ thuật. “

Như vậy, văn chương chỉ có thể là tiếng nói khốn khó, uất hận trước mọi trà đạp lên con người, là những giọt nước mắt rơi trên những số phận bi thảm chứ không phải là sự reo vui, hồ hởi . Cố tình bỏ qua những đặc tính cốt lõi, những đặc điểm bản thể của văn chương, người cộng sản lại dùng nó như tiếng kèn thúc trận :

“ Nhưng người lãnh đạo lại chỉ thích cái phần không phải là nghệ thuật, tặng giải thưởng, trao huân chương cho các tác giả chỉ để tưởng thưởng cái phần nhạt nhẽo vô vị ấy mà thôi. Cái cách cảm nhận hiện thực đầy tính lãng mạn ấy đã làm lệch lạc cách xem xét, cách ứng xử của nhiều thế hệ bạn đọc, nhất là bạn đọc ở tuổi mới trưởng thành, trước những biến hoá muôn mặt của cuộc sống. Họ chỉ có mỗi khả năng làm người phê bình văn học theo đường lối chính trị chính thống, tại sao cuộc sống đẹp như thế mà nhà văn lại miêu tả nó xấu đến thế. Làm sao dám cãi, hãy để cho những trải nghiệm của chính họ qua năm tháng sẽ âm thầm biện hộ giúp mình thôi.”

Nguyễn Khải phát hiện ra một kẻ phá hoại giấu mặt trong xã hội : ngôn từ :

“Một xã hội không tự hiểu mình, mỗi cá nhân cũng không tự hiểu mình, vàng thau, phải trái, cao quí ti tiện lẫn lộn, các giá trị lẫn lộn bắt đầu từ sự không chuẩn xác của ngôn từ. Câu mở đầu kinh thánh Cựu ước “ Thoạt Tiên Là Ngôn Ngữ…” (Au conmmencement était le Verbe).

Nhưng ngôn ngữ trong xã hội ta hiện nay thật đáng kinh hoàng , nó được dùng như phương tiện để che đậy, dối trá :

“Vậy mà ngôn từ lại là cái mặt yếu nhất trong các lãnh vực thuộc thượng tầng kiến trúc ở các nước xã hội chủ nghĩa. Công dân của các nước ấy dùng ngôn từ để che đậy chứ không nhằm giao tiếp, hoặc giao tiếp bằng cách che đậy, “ nói vậy mà không phải vậy”! Nó là cái vỏ cứng để bảo vệ mọi sự bất trắc, chống lại thói quen hay xét nét lời ăn tiếng nói của công dân của mọi chính quyền chuyên chế.

Cái bệnh “xảo ngôn”, tiếc thay lại rõ rệt nhất, nặng nề nhất ở cấp lãnh đạo :

“Cái cách tự bảo vệ ấy lại càng rõ rệt ở cấp lãnh đạo và các viên chức nhà nước làm việc ở các cơ quan quyền lực. Họ nói bằng thứ ngôn ngữ khô cứng đã mất hết sinh khí, một thứ ngôn ngữ chết, ngôn ngữ “gỗ”, nói cả buổi mà người nghe vẫn không thể nhặt ra một chút thông tin mới nào. Các buổi trả lời phỏng vấn báo chí, diễn văn tại các buổi lễ kỷ niệm, báo cáo của Đảng, của chính phủ, của quốc hội, tất cả đều dùng các từ rất mơ hồ, ít cá tính và ít trách nhiệm nhất. Người cầm quyền cấp cao nhất và cấp thấp nhất đều biết cách nói mơ hồ, càng nói mơ hồ càng được đánh giá là chín chắn. Và nói dối, nói dối hiển nhiên, không cần che đậy.”

Những kẻ nói dối không cần che đậy phần lớn lại là những kẻ dân gian đã tổng kết “ trông mặt, tắt tivi” :

“ Vẫn biết rằng nói dối như thế sẽ không thay đổi được gì vì không một ai tin nhưng vẫn cứ nói. Nói đủ thứ chuyện, nói về dân chủ và tự do, về tập trung và dân chủ, về nhân dân là người chủ của đất nước còn người cầm quyền chỉ là nô bộc của nhân dân. Rồi nói về cần, kiện liêm chính, về chí công vô tư, về lý tưởng và cả quyết tâm đưa đất nước tiến lên chủ nghĩa cộng sản. Nói dối lem lém, nói dối lì lợm, nói không biết xấu hổ, không biết run sợ vì người nghe không có thói quen hỏi lại, không có thói quen lưu giữ các lời giải thích và lời hứa để kiểm tra.

Những kẻ nói dối biết là mình nói dối không hề thấy xấu hổi, bởi lẽ họ thừa biết :

“ Hoặc giả hỏi lại và kiểm tra là không được phép, là tối kỵ, dễ gặp tai hoạ nên không hỏi gì cũng là một phép giữ mình. Người nói nói trong cái trống không, người nghe tuy có mặt đấy nhưng cũng chỉ nghe có những tiếng vang của cái trống không. Nói để giao tiếp đã trở thành nói để không giao tiếp gì hết, nói để mà nói, chả lẽ làm người lại không nói.

Thật ra như trong cái trò “vua cởi truồng” , cả hoàng đế và dân đen đều hiểu cả nhưng dao kề cổ nên vẫn phải “diễn” :

“ Thật ra nói thế mà vẫn hiểu nhau cả. Người cầm quyền thì biết là nhân dân đang rất bất bình về nhiều chuyện, nhân dân thì biết người cầm quyền đang nói dối, nhìn vào thực tiễn là biết ngay họ đang nói dối. Nhưng hãy mặc họ với những lời lẽ dối trá của họ, còn mình là dân chả nên hỏi lại [rằng] nói thế là thật hay không thật. Mình cứ làm theo ý mình và mình cũng sẽ nói dối, nói che đậy nếu như có dịp được người cầm quyền hỏi.”

Chính vì những nhu cầu chính trị của đảng, tài sản tinh thần của dân tộc cứ ngày càng mai một:

“ Cái thời mở nước, giữ nước chỉ còn lưu lại những cột mốc của các chiến công, còn cuộc chiến thầm lặng đã làm tan nát nhiều con người để con người được là chính mình, được là một thực thể thiêng liêng, đền đài lưu giữ muôn thuở cái tài sản tinh thần của một dân tộc, một dòng họ mãi mãi được vun xới, được phát triển tương ứng với sự phát triển của dân tộc, của thời đại thì chưa được văn thơ nói đến, triết học nói đến, các ngành khoa học nhân văn nói đến.”

Tuy nhiên, Nguyễn Khải vẫn kỳ vọng :

“ Dầu không nói đến, không được phép nói đến thì cái dòng chảy vĩnh cửu ấy vẫn được nhiều triệu người âm thầm khai thông, bồi đắp để các nhân tài Việt Nam không ngừng xuất hiện lúc ở lãnh vực này, lúc ở lãnh vực khác.”

Và ông cảnh báo :

“ Một đất nước không có những cá nhân kiệt xuất, tài ba làm chân dung đại diện trong cộng đồng nhân loại thì đó là một bất hạnh cho dân tộc, tạo ra một khoảng trống tiếp nối trong lịch sử sinh tồn của mỗi cá nhân. Rồi các thế hệ đến sau phải nối lại bằng cách nào vì vẫn phải bắt đầu từ môi trường chính trị, xã hội, từ một xã hội vừa truyền thống vừa văn minh, những mục tiêu nhắm tới vừa là phát triển cái riêng biệt, vừa là sự hòa nhập vào nền văn minh của khu vực và thế giới. “

Quả thực nhìn vào sự tiếp nối các thế hệ cầm bút, người ta không khỏi lo ngại về sự ngày càng khô kiệt những tài năng. Và Nguyễn Khải vạch mặt thủ phạm đích danh của bi kịch đó chính là : quyền lực toàn trị.

“Một nền văn minh riêng lẻ, với những mục tiêu hoang tưởng, một môi trường xã hội ngột ngạt vì cái bóng quyền lực phủ lên tất cả, quyết định tất cả thì số phận những cá nhân sẽ ra sao?

Kết thúc tùy bút chính trị “Đi tìm cái tôi đã mất”, Nguyễn Khải không đưa ra được tiên trị, dự báo nào về sự sụp đổ của quyền lực toàn trị , ông chỉ răn đe và cảnh báo :

“ Một chế độ độc tài khi phải đối mặt với những biến động lớn thường rễ bị nứt rạn, từ nứt rạn đến tiêu vong, thời gian diễn ra rất nhanh vì nó chỉ có trụ đỡ là quyền lực của một phe đảng, không có trụ đỡ về tinh thần của cả dân tộc. Một chế độ chính trị tồn tại tới non một thế kỷ hay một nửa thế kỷ cũng là lâu lắm, đã tạo ra mấy thế hệ ăn chung ở chung với nó, sinh con đẻ cái với nó mà khi nó chết không ai nhỏ được một giọt nước mắt, có người còn nhẫn tâm đạp lên cái vừa chết đó rồi mới tiếp tục bước đi, đủ biết người ta đã xem nó như vật bất tường, là quái thai, là tai hoạ, thời thế đã bất thần xoá bỏ nó một cách êm dịu, không phải tốn đến máu cũng là một may mắn phi thường. Có thể kết luận, một chế độ chính trị được xem là văn minh hay lạc hậu, là sẽ tồn tại lâu dài hay chỉ có mặt trong khoảng khắc của lịch sử là tuỳ thuộc vào cương lĩnh chính trị của Đảng cầm quyền có thật sự tôn trọng những quyền của con người hay không, các cá nhân với những khác biệt, những phản ứng, những bất tuân của nó có được đặt ở vị trí trang trọng trong hiến pháp hay không? “

Với lời Nguyễn Khải đã hẹn tôi năm 1978 “tao sẽ vót nhọn gươm đâm một cú cuối cùng”, thì quả thực Nguyễn Khải đã vung một đường gươm xuất sắc . Tiếc thay ông thực hiện vào lúc ..đã muộn. Vào năm 2006 khi ông viết xong tùy bút chính trị này, những vấn đề của chủ nghĩa Mác, những lý thuyết chủ nghĩa cộng sản đã không còn là những bức xúc xã hội nữa, ngoài một vài nhà hoạt động dân chủ còn bàn tới “ dân chủ và tập trung”, tới “ vô sản chuyên chính”, tới “đấu tranh giai cấp”, hầu như đại đa số bàn dân thiên hạ , kể cả giới trí thức chẳng còn tâm thế đâu đoái hoài tới nó. Liên xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu đã sụp đổ từ lâu, chủ nghĩa cộng sản đã bị cộng đồng châu Âu đặt ra ngoài vòng pháp luật, những lý thuyết của nó hiển nhiên đã bị lãng quên. Bởi vậy khi xuất hiện, bút ký của Nguyễn khải cũng chỉ được một bộ phận trí thức tìm đọc, cũng chỉ gây nên một luồng dư luận thoáng chốc rồi tan nhanh trong những vấn đề nóng bỏng khác của dân tộc và đất nước.

Lời than vãn của Nguyễn Khải có tính cách tiên tri :” Thôi chết, tung tóe mẹ nó hết rồi Tuấn ạ…”, ngày nay những truyện ngắn, ký sự, tiểu thuyết của ông chỉ còn lại trong thư viện và trong các giáo trình của nền giáo dục xã hội chủ nghĩa. Vậy nhưng Nguyễn Khải vẫn là nhà văn được yêu mến trong lòng bạn đọc. Bằng lương tri nhà văn, lương tâm người cầm bút, cuối đời ông đã nhận ra bi kịch của đời ông và đã viết một tác phẩm cuối cùng, chỉ tiếc nó không phải là sáng tác văn học mà là tùy bút, một tùy bút chính trị…

Hai ta từng là ...con cái Chúa
(Nhân bài viết của nhà thơ Trần Mạnh Hảo)

 



Trần Mạnh Hảo


Chẳng biết mai sau, khi dắt tay nhau vào cõi vô cùng, hai ông có hoan hỉ :” Hai ta từng là ...con cái Chúa “ ? Chứ bây giờ, ông nhà thơ Trần Mạnh Hảo vẽ chân dung ông nhà văn Nguyễn Khải trong bài “ Mùa Xuân thăm nhà văn Nguyễn Khảinhư tranh biếm họa bất chấp hai ông cùng xuất thân na ná nhau. 


Một ông thủa bé “chăn trâu cắt cỏ”, tối tối vào nhà thờ nghe giảng kinh, một ông lớn lên trong gia đình quan lại, trí thức Thiên chúa giáo, hai ông chỉ giống nhau một điều là khi cách mạng về, cùng... bán Chúatheo đảng. Và quả thực cái sự bán chác này đã đem lại lời vô kể. Chưa kể mỗi ông có cái nhà to vật ngay giữa Sàigòn, cả hai đều có cái danh rất oách. Một ông là nhà văn cách mạng được Nhà nước gắn huân chương, một ông là nhà thơ nổi đình nổi đám và cả hai đều chễm chệ chiếu trên trong làng .

 

 Mở đầu bài viết, mới tới cổng nhà bác NK, thi sĩ TMH đã tả hai cây cau như hai anh lính gác cổng :

 

 “ được trồng trong một chỗ chính ra để còi đi, lùn xuống, trồng trong chỗ kẹt, chỗ ép, chỗ tù túng sát sàn sạt bức tường, như được dính vào gạch, phải toát mồ hôi mọc cật lực trên nền xi măng...”

 

 Viết vậy thì đúng với … cả hai bác chứ chẳng riêng gì bác NK. Tài năng văn chương của hai bác, mấy chục năm qua chẳng được trồng vào chỗ kẹt, chỗ ép, chỗ tù túng mà hai bác phải “ toát mồ hôi, cật lực” mới mọc được trên “nền ximăng” đó ư ? Rồi chẳng ai khảo mà xưng, bác nhà văn thú nhận :

 

 “... nói giấu gì ông em, nó chẳng đực cũng chẳng cái, chẳng phải ta mà cũng chẳng phải tây; nó là cau hoàn cảnh, cau chơi, cau mẽ đã kế hoạch hoá gia đình từ kiếp trước. Tôi vô ý buột miệng may quá, nó không có quả, nên giời không ban cho nó giầu, với lại "được mùa cau đau mùa lúa". Nhỡ hốt nhiên nó tức khí ra quả ồ ạt, e ảnh hưởng ít nhiều đến những mùa bội thu lúa má văn chương của chủ nhân chăng ? “

 

Nếu phải dựng chân dung văn thi sĩ thời nay quả thực khó kiếm hình ảnh nào hay hơn thế. Chẳng đực cũng chẳng cái, chẳng phải ta cũng chẳng phải tây, nó là thứ ...văn chơi, văn cảnh, văn mẽ đã được...kế hoạch hoá gia đình. Thảo nào vào thời được “cởi trói”, một ông nhà văn đã la lên rằng “ nền văn học của chúng ta là một nền văn học bị...thiến”. Ôi chao ôi, chẳng đực cũng chẳng cái nên mới đẻ ra cái thứ văn chơi, văn mẽ như thế đó. TMH lại viết tiếp :

 

 “Gớm, ngồi một tẹo, anh em mới trà thuốc tí ta tí tách bác bác, chú chú, lúc lại ông ông, tôi tôi chưa ngấm câu chuyện, mà hai anh lính cau ngoài cửa cứ quạt phành phạch, sốt cả ruột; giời mới thương khuất nẻo cho tí gió máy đã cuống cả lên, đã sướng run lên cầm cập, rối rít đập vầng lá xanh um vào tường như cũng muốn đòi vào nhà hóng hớt chuyện văn chương.”

 

 Viết như thế khác nào TMH xỏ “cả làng văn chương” mỗi khi được Đảng cho chút bổng lộc - nào phân nhà, đi nước ngoài , tài trợ sáng tác...là anh nào anh nấy đã sướng run cầm cập, hoa bút múa giấy, rối rít ca ngợi công ơn . Vậy rồi cũng chưa hết cái thân phận “anh cau”, TMH còn nhấn thêm :

 

 “Cái giống cau trông vậy mà tham, ưa bất tử để đời, chết xuống rồi, tàu cau rụng cái ạch xuống đất rồi vẫn cứ cố sống lại cho kỳ được, sống làm cái thân quạt mo, làm dâu trăm họ, rơi vào tay anh Bờm mà bỡn cợt phú ông. Bác Khải lại cả cười, ấy vậy nó mới là cau cảnh, người cảnh, văn cảnh.”

 

  Chẳng phải tưởng tượng nhiều ta cũng thấy vào một buổi sáng ở nhà bác NK, ngoài cổng có hai cây cau, trong nhà có hai nhà văn “nhớn” hí hửng tự nhận cái “phận cau” , cam chịu làm cái thân quạt mo cho ...Đảng mà bỡn cợt cái tụi...tư bản, nhà giàu. Và rồi hai bác còn hả hê “ấy vậy mới là người cảnh, văn cảnh”. Thật không có lời sám hối nào thành thật hơn thế nữa. Chính vì “cảnh” vậy, TMH mới nhận xét :

 

 “Bản thảo của bác Khải với lối chữ đi ra đi vào la đà con cà con kê, túc tắc như thím gà mái kiếm mồi, dòng chữ cao to mà ẻo lả, lênh láng mà thẳng thớm, kiểu chữ thời ba mươi bốn lăm xưa lắm.”

 

 về văn chương của NK thì :

 

 “ Văn ông nhìn chung là thứ văn hoạt, thông minh, ranh mãnh, sắc như nước, lại dây dưa thừng chão, có mỏ có ngạnh mà cũng có vây có cánh, có gai có góc mà cũng chồng nụ chồng hoa, có nghịch phá dung dăng dung dẻ mà cũng cứ nền nã, con nhà, vẫn gia phong, gia giảm, gia công, gia dụng, gia năng, gia giáo...Văn ông vượng về khí, ăn về hơi, giỏi về chữ, mạnh về hoành mà hãm về tung, hút bởi tán mà hụt hẫng khi tụ, mặn việc đạo nhưng nhãng sự đời, đi đường triết nhân hơn đường văn nhân. “

 

 Tưởng là khen đấy mà hoá ra xỏ đấy, “mạnh về hoành mà hãm về tung” chẳng qua là bốc phét một tấc đến giời, thùng gỗ kêu to chứ còn cái chiều “tung” – cái chiều “sự thực ở đời” , cái thế sự ngổn ngang “khổ dân, sướng quan” thì bác NK lờ tịt, tức cái sự “nói thực” trong văn chương thì còn...”hãm” lắm. Làm thân quạt mo phẩy mát cho Đảng lại còn muốn lưu tiếng thơm muôn thủa thì văn chương cần phải “ hoạt, thông minh, sắc như nước” , tưởng là “ nghịch phá dung dăng dung dẻ” mà thực ra “nền nã, gia giảm, gia công, gia dụng, gia năng, gia giáo” là đúng quá rồi. Đây chính là “cẩm nang sáng tác” chẳng riêng gì của nhà văn NK mà phàm là hội viên Hội nhà văn muốn in bài trên báo Văn Nghệ thì đều phải thuộc nằm lòng. Nếu không thì :

 

 “ muốn biểu tượng hai mặt à, mượn cau kiếc nói cạnh khoé nhà văn chúng anh à ?...Không sợ có ai rách việc mới hắng giọng ho lên, doạ rằng anh biểu tượng hai mặt đấy là co vòi, co rút bút lên với nhau, ngồi run như giẽ cả một lượt, thật chả còn ra làm sao....”

 

 Đúng như thế, nhà văn ta thật “ chẳng còn ra làm sao”, Đảng mới hắng giọng ho lên một tiếng đã co vòi, rút bút, ngồi run như giẽ cả một lượt...”. Hết nhận mình là “cau” , rồi lại là “giẽ”, cái phần tự bạch của hai nhà văn lớn quả thực không thua gì các bản “phản tỉnh” của các nhà văn Nguyễn Tuân, Tô Hoài, Nguyễn Huy Tưởng ... hồi học tập “ Đề cương văn học Diên An” của đồng chí Chủ tịch Mao Trạch Đông kính mến. Thế rồi sau khi tâng bốc NK lên mây xanh :

 

 “Ông là nhà văn lớn thời nay, một trong những con chim đầu đàn của nền văn nghệ cách mạng và kháng chiến.”

 

 Ông bạn vàng TMH lại giở giọng xỏ xiên :

 

 “ Nguyễn Khải họp chợ trong tiểu thuyết chỉ có một mình, hàng trăm nhân vật nhưng hầu như chỉ có độc một mình ông tự thân chia ra mấy mươi phần trăm đối tác mà khóc cười rôm rả. Ông lặn xuống bề sâu từng nhân vật mà hoá thân chúng vào mình, thành ra tưởng đông lắm, nghìn nghịt lắm, tập thể lắm mà hoá ra vắng hoe như chùa Bà Đanh, chỉ một cá thể, một mình ông sắm đủ các vai tuồng trên sân khấu chữ nghĩa.”

 

 Hoá ra bao nhiêu nhân vật trong văn chương NK đều là “tào lao’, vẽ vời, ba xạo ...chỉ còn lại duy nhất một người cầm bút :

 

 “lượn lờ đi lại, nói năng, giận hờn, buồn vui, ngơ ngác, vờ vịt, chân thành, khiếp sợ, dũng mãnh, cuồng si... mà hơn nửa thế kỷ chữ nghĩa văn chương cứ rào rào như tằm ăn rỗi, cứ cuồn cuộn hàng mấy chục đầu sách làm ồn ào lênh láng cả văn đàn,”

 

 Cái mẹo vừa đấm vừa xoa, vừa khen vừa chửi...vốn là “nghề của chàng” , vừa chửi “vờ vịt”, tiếp ngay đó lại khen “chân thành”, vừa chê “ khiếp sợ” lại bốc ngay “dũng mãnh” rồi sau cùng mới huỵch toẹt :

 

 “Nguyễn Khải cứ ngồi một chỗ ru rú trong xó nhà mà nhặt được toàn bộ rác rưởi đời sống. Ông có biệt tài lượm ve chai trên ti-vi..., trên báo, lượm phế thải nơi những tâm hồn ủ ê néo hánh ù lì thấp thoáng quanh đời ông.”

 

 Nhận định này trùng với nhà thơ Xuân Sách làm thơ chân dung Nguyễn Khải :

 

 “ Cồn Cỏ nào ở đâu xa

 Cồn Cỏ là ở ...ngay nhà đó em...”.

 

 Và sau cùng cái “triết lý con lươn” mà NK vẫn hãnh diện khoe khoang với bạn bè – cái triết lý khi bị Đảng bắt giò, phải tiết ngay “chất nhờn” mà lủi đi, cũng được TMH khẳng định trong câu :

 

 “May mà ông còn một con cáy trong người để bảo hiểm cho văn mình ...”

 

 Và cũng còn may, trong con người TMH cũng còn “một con cáy”, chứ không thì …chưa biết sẽ đi về đâu ?

 

 Nghe nói đọc xong bài viết của TMH, Nguyễn Khải chỉ cười nhạt. Tuy nhiên, cầm chắc một điều, mai sau có về nước Chúa, dứt khoát hai ông không dắt tay nhau mà rằng : “ hai ta đã từng là con cái Chúa”.

 

 Nhật Tuấn

07-2012


 


*tiền dùng để cầu nguyện cho linh hồn người đã qua đời

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn