BÀI ĐỌC NHIỀU NHẤT
(Xem: 73356)
(Xem: 62245)
(Xem: 39432)
(Xem: 31177)
SỐ LƯỢT XEM TRANG
0

Chân dung hay chân tướng nhà văn : Nguyễn Đình Thi - Hạt bụi lấp lánh ánh sáng của đảng (!)

16 Tháng Chín 201312:00 SA(Xem: 1200)
Chân dung hay chân tướng nhà văn : Nguyễn Đình Thi - Hạt bụi lấp lánh ánh sáng của đảng (!)
52Vote
40Vote
30Vote
20Vote
10Vote
52

















Ông hưởng lộc quan từ rất sớm, năm 21 tuổi đã là Tổng thư ký Hội văn hoá cứu quốc, đại biểu Quốc hội khoá đầu tiên của Nhà nước VN DCCH, và cũng hưởng rất lâu, năm ông mất, 79 tuổi, ông vẫn còn là Chủ tịch Chủ tịch đoàn Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Nhà nước CHXHCN VN.

 

Trên thế giới, hiếm có nhà văn nào làm quan suốt 60 năm, làm quan tới hơi thở cuối cùng như ông, chỉ lạ một điều, sao người ta chưa đưa ông vào Guiness. Ở nước ta, leo lên quan đầu ngành đã khó, giữ được ghế càng khó hơn , bởi thế không ai ngạc nhiên khi đứng giữa bàn dân thiên hạ, trên tivi vào dịp Đại hội nhà văn Việt Nam lần thứ 3, ông trịnh trọng tuyên bố :

 

” Các nhà văn chúng ta…là những hạt bụi lấp lánh ánh sáng của Đảng.

 

Thật không có một câu “văn bia” nào diễn tả thân phận văn nô hay hơn thế. Lập tức nó được các “hạt bụi” vỗ tay vỡ hội trường và “bảo hiểm” cho ông ngồi ghế quan đến trọn đời.

 

Chắc ai cũng biết, tác giả câu nói đáng ghi vào sử sách đó chính là nhà văn, nhà thơ, nhà sáng tác ca khúc …Nguyễn Đình Thi.

 

Khác với mấy “anh tiền chiến” sau cách mạng mới chịu theo đảng lên rừng, năm 18 tuổi NĐT đã bị đi tù vì hoạt động cách mạng, đã viết báo, viết văn tuyên truyền chủ nghĩa cộng sản, tuy nhiên theo nhận định của hai nhà nghiên cứu quốc doanh gạo cội Phan Cự Đệ – Hà Minh Đức, phải đợi tới “ngọn lửa kháng chiến chống Pháp hun đúc, tài năng văn học của Nguyễn Đình Thi thực sự mới hình thành”.

 

Vậy thử coi “tài năng văn học “ trong kháng chiến chống Pháp của Nguyễn Đình Thi lớn cỡ nào ?

 

Trong tuyển tập Truyện ngắn ViệtNam(1945-1954) của NXB Đại học, cũng do hai ông Giáo sư gạo cội Phan Cự Đệ ~ Hà Minh Đức biên soạn cho sinh viên học có tới 2 truyện ngắn của Nguyễn Đình Thi được đưa vào “bia đá”.

 

Truyện ngắn “Anh hùng cứ điểm” kể chuyện đồng chí Còm, đại đội trưởng đại đội 112 trong trận đánh một cứ điểm Tây ở mặt trận đông bắc. Trong đêm trước trận đánh, anh Còm tâm sự với anh Đăng, đại đội phó :” Đời mình không vui lắm. Vợ con mất cả từ ngày đói bốn nhăm. Hồi ấy mình lang thang ở mỏ. Lúc khởi nghĩa xong , vào bộ đội, đánh tây liên miên”.

 

Vậy là không lọt ra ngoài “phép nước”, ông nhà văn phải chọn một anh “thành phần giai cấp công nhân” làm nhân vật anh hùng cho dù hồi mới kháng chiến, hàng ngũ cán bộ đại đội phần lớn là dân…”tạch tạch sè”, “đêm mơ Hà  Nội dáng kiều thơm” ( thơ Quang Dũng), có văn hoá, có tâm hồn lãng mạn và toàn xuất thân thành thị. Bởi thế đặt chân lên đò qua sông xung phong vào đồn địch, trong đầu anh Còm chẳng có “dáng Kiều” nào hết, anh chỉ nghĩ đến ‘tương lai tươi sáng của dân tộc” :” Sau này kháng chiến thành công, thế nào mình cũng phải qua bên Lào hay bên Tây Nguyên một phen…”.

 

Thử hỏi tại sao khi đó anh không nghĩ tới chuyện về thăm bến Sáu Kho Hải Phòng quê hương anh ?

 

Xin thưa ngày đó tư tưởng giải phóng cả “Việt-Miên-Lào” thành lập Liên bang Đông Dương hãy còn sâu đậm lắm trong cán bộ đảng ta. Và ông nhà văn NĐT cũng không quên điều đó khi mô tả người anh hùng, nhất là tránh xa “con người chung chung” hướng tới “con người chính trị” mới đúng lập trường văn học cách mạng.

 

Khi xung phong tới gần cứ điểm, theo đúng kế hoạch lẽ ra đại bác phải bắn yểm trợ, rủi thay súng lại hỏng, cả đại đội của Còm vấp phải 8 khẩu “đui sết” của Pháp cứ nằm chết gí bên bờ ruộng. Thế là đồng chí Còm xông lên diệt ổ trung liên của địch cho toàn đại đội mở hàng rào. “Bỗng một phát đại bác nổ như xé tai, Còm đứng sững lại, bơi bơi hai tay trong không khí rồi ngã vật ra…”. Trước khi hy sinh, Còm còn thều thào hỏi : ”Vào đến đâu rồi ?” và tháo cái đồng hồ đeo tay tặng chú giao liên rồi mới…chết.

 

Cũng na ná như nhà thơ Tố Hữu mô tả cái chết của anh Nguyễn Văn Trỗi :” Trước khi đi anh gọi Bác ba lần”, chẳng hiểu sao các văn thi sĩ cách mạng cứ buộc người ta lúc chết phải nghĩ tới chiến thắng, tới lý tưởng, tới đồng đội mà không nhớ tới vợ con, gia đình ruột thịt ? Thực sự những người lính lúc chết ra sao, có gọi Bác ba lần, có hỏi “quân ta vào tới đâu” không ? Hình như chưa nhà văn cách mạng nào nói đúng được về họ. Bởi lẽ đó là yêu cầu chính trị. 

 

Trận đánh kết thúc, quân ta đương nhiên là thắng quân nó, cứ điểm địch đương nhiên là bị nhổ bỏ và người anh hùng nằm xuống đương nhiên là được ca ngợi :” Đời anh Còm sống chiến đấu lặng lẽ, chết hy sinh lặng lẽ…”.

 

Truyện ngắn “ Người anh hùng cứ điểm” được vào bia đá “văn học cách mạng” xem ra cũng chỉ là một bài ký sự “ người tốt việc tốt” với mạch kể chuyện đơn giản, tuần tự, lười nhác cả trong xây dựng nhân vật lẫn kết cấu truyện. Đó là cái giá phải trả cho việc hưởng ứng chủ trương “sáng tác kịp thời ” của Đảng chăng ?

 

Sang truyện ngắn “ Người tù binh da đen” , tác phẩm “tuyển” thứ hai của NĐT xem ra còn…”kịp thời” hơn nữa.

 

Người tù binh da đen đó là lính hầu của tù binh da trắng Thiếu tướng Đờ Cát, Tư lệnh mặt trận Điện Biên Phủ mà chẳng hiểu sao ông nhà văn lại cho rằng “Mỹ” phong cho ông mới lạ chứ . Có lẽ vì vậy mà Đờ Cát được NĐT gọi bằng “tên”, “nó”. “ Trong đoàn tù binh, giữa hai người lính hầu lúc nào cũng theo hầu hai bên nó như hai cái bóng, tên tướng Pháp cầm cái gậy ngắn của sĩ quan, vừa hút thuốc lá vừa lòng khòng đi, cái mũi dài xuống …”, “Tên Đờ Cát ngồi một mình trong cái lán, chống tay lên cái bàn nứa.Nó lột cái mũ ca lô đỏ xuống , cầm mân mê, mắt tư lự nhìn ngôi sao thiếu tướng mới đính trên cái mũ ấy, đôi môi mỏng nhếch ra một nụ cười trầm ngâm…” .

 

Có lẽ thấy đánh “người ngã ngựa” chẳng “quân tử” chút nào nên NĐT “tha cho” “tên Đờ cát” mà quay sang người lính hầu da đen của ông ta.

 

Dọc đường đi, anh tù binh trẻ luôn đeo cái ba lô thật nặng cho ông tướng bị các bạn tù khác “ném đá” và “chế giễu” nên đã trốn mất tiêu, trao nó lại cho người tù già. Bác này lại “è cổ đeo cái ba lô nặng lù lù và cuộn chăn len dầy đi sau tướng Đờ Cát về tới trạm tù binh”.

 

 Khi “Đờ Cát được gọi đi, người lính hầu lại đeo vội cái ba lô lên vai” , nhưng lúc này anh lính ViệtNam ngứa mắt quá bèn ra lệnh cho viên tướng phải tự đeo ba lô.

 

Đờ Cát leo đến nơi, hai chân lẩy bẩy . Nó bĩu môi, vứt phịch cái ba lô xuống” .

 

Khi anh lính VN ra lệnh cho viên tướng Pháp mở ba lô, người tù binh da đen mới thấy rõ mình đã è cổ cõng toàn những thứ “phục vụ cho ông tướng “ :“ mấy tút thuốc lá Camen, hai chai rươự Huýt ki, ba cái bút máy Pác ke vàng , bốn năm bộ quần áo Gabácđin, ảnh của tướng Tatsinhi, một gói bạc Đông Dương dày cộm, một gói tiền vàng và nhẫn vàng, hai cái đồng hồ vàng….và nhiều thứ khác nữa…”. 

 

Chính điều đó làm người tù binh già “giác ngộ” chính nghĩa thuộc “ bên nào ”, đêm đó ông tìm tới các chiến sĩ Việt Nam. Họ vui vẻ hỏi :

 

Phini balô, phini ba lô?”.

 

Rồi họ lại hỏi :

 

” Sao anh tóc đã hoa râm thế còn đi lính cho Pháp ?” .

 

Người tù binh da đen cảm động chảy nước mắt kể chuyện đời mình. “ Anh là người Maroc, làm thợ mộc ở một làng vùng núi. Nhà có một mẹ già , hai anh em. Pháp đến bắt lính. Người em bỏ trốn vào rừng…Những hình ảnh quê hương xa xôi hiện lên dồn dập như gọi anh trở về nguồn gốc cũ…”.

 

Truyện ngắn ‘ Người tù binh da đen “ của NĐT được xếp hạng trong văn học cách mạng gói gọn chỉ có thế. Nó như một bản phác hoạ chân dung sơ sài, nặng về thiên kiến chính trị mà tính chân thực của nó còn phải chờ ý kiến xác minh của chính nhân vật trong truyện :” Tướng De Castrie”.

 

Vậy mà nó vẫn được khen là tìm được một “lối khác” trong sáng tác văn học đề tài ca ngợi “chiến thắng Điện Biên Phủ vĩ đại của Đảng và nhân dân ta” và là một gợi ý cho bà nguyên Cục phó Cục Điện ảnh Nguyễn thị Hồng Ngát viết nên kịch bản “Người hàng binh” tức “Ký ức Điện Biên” làm thiên hạ om sòm bàn tán vì tiêu tốn của Nhà nước cả triệu đô la mà trong dịp kỷ niệm “ chiến thắng Điện Biên Phủ ” tháng 5-2004 số người tới rạp trong mỗi buổi chiếu đếm được chưa hết mười đầu ngón tay. Tất nhiên, thất thu đó không thuộc lỗi nhà văn Nguyễn Đình Thi…


 

Tuy nhiên, tác phẩm xuất sắc nhất trong thời kỳ chống Pháp, làm NĐT có thể rung đùi yên trí “ hoàn thành chỉ tiêu sáng tác” trên “mặt trận cầm bút” theo đúng yêu cầu của “ bác Hồ” “mỗi nhà văn cũng là một chiến sĩ” lại là một “tiểu thuyết” đã được đưa vào sách giáo khoa cho không biết bao nhiêu thế hệ con em chúng ta ngồi trên ghế nhà trường phải phân tích và bình luận nhằm bồi bổ chủ nghĩa anh hùng cách mạng của cả nhân vật trong truyện lẫn người viết ra nó.

 

Đó là “tiểu thuyết” “ Xung kích” – một trong những tác phẩm đưa NĐT lên bục nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh, viết vào năm 1951 sau khi đã được “quán triệt” sâu sắc “đề cương văn học Diên An” của Mao, tức những quy phạm ngặt nghèo của chủ nghĩa hiện thực XHCN phục vụ công nông binh đã hằn sâu trong quả tim và cả khối óc của nhà văn.

 

Gọi là “tiểu thuyết” nhưng cũng chỉ vỏn vẹn hơn 100 trang in, trong đó chương mở đầu “tường thuật” dân công, bộ đội hành quân tới cái cầu qua suối nhỏ bị sập giữa trời rét cắt thịt. Không lẽ nằm chờ công binh tới bắc cầu như chị em dân công; bộ đội nảy sáng kiến “chuổng cời” lội suối , nước dâng ngang ngực, nhờ vậy đến được điểm tập kết đúng thời hạn. Chuyện có vậy thôi mà ông nhà văn “cà kê” mất gần chục trang. 

 

Rồi trước lúc vào trận, bộ đội tập trung nghe thư “bác Hồ”, ông nhà văn cũng bê nguyên si thư Bác :

 

Chiến dịch này là lần đầu tiên đánh đồng bằng mà địch có chuẩn bị. Chính vì lẽ đó mà ta quyết phải thắng ...Nào đơn vị nào hứa với Bác và Chính phủ sẽ lập nhiều công nhất nào ? Chính phủ, đoàn thể và Bác đang chuẩn bị sẵn sàng thưởng cho những chiến sĩ, cán bộ và đơn vị lập công to nhất…”

 

Tất nhiên tiếng “xin hứa, xin hứa” phải vang như sấm. Chỉ có điều sao trong thư , “bác” không viết “ Đảng , Chính phủ, và Bác” mà lại viết :” Chính phủ, đoàn thể và Bác” ? Đó là vì lúc này Đảng rút vào “bí mật” , tuyên bố giải tán, thành lập “Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác” nên khi nói tới lãnh đạo, phải đưa “chính phủ lên trước” rồi mới đến “đoàn thể” chứ chữ “đảng “ chưa được công khai nhắc tới như bây giờ.

 

Sau phần động viên "trong nước”, tới phần “quốc tế “ :

 

Tiếng anh trung đoàn trưởng vang lên :

 

“ Tôi báo tin để các đồng chí biết. Bên Triều Tiên, các bạn chúng ta vừa mở cuộc tấn công mới, làm cho quân Mỹ lao đao. Chúng ta hứa với Bác thi đua với chiến sĩ Triều Tiên, đánh thật mạnh để hưởng ứng với các bạn chúng ta. Chúng ta hứa với Bác hôm nay không thắng không về…”

 

Cứ như vậy, người đọc ngỡ ông nhà văn viết “báo cáo chiến dịch” chứ chẳng phải tiểu thuyết. Tuy thế, trong “Xung kích” NĐT cũng “sáng tác” ra nhiều nhân vật “anh hùng thời đại” để gắn nhãn “tiểu thuyết” cho nó.

 

Trước tiên là chú bé giao liên đại đội tên Luỹ, khi máy bay Pháp tới ném bom, “ chú đứng bên cạnh bến nước , nhìn về mé có tiếng bom, hai tay đút túi quần :

“ Ăn thua mẹ gì . Chỉ chết mấy con ngan là cùng. Rời thằng Mỹ ra thì ông bóp mũi…”

 

Ghê gớm chưa, chú bé Việt Nam của NĐT xem ra thấm nhuần chính trị tới mức lúc nói chơi cũng vạch rõ được “âm mưu can thiệp Mỹ”.

 

Giống như nhân vật chú nhóc Gavroche của văn hào Pháp Victor Hugo trong Les miséables , “bóng loắt choắt của chú bé liên lạc vẫn thoăn thoắt chạy đi giữa những tràng đạn lửa ngoằn ngoèo…Luỹ đã chạy qua hết sân đồn, bỗng đứng lại . Một thằng quan hai đang giơ tay từ một cái ngách nhỏ chui ra . Luỹ thét “ra nhanh” . Thằng quan hai bỗng hạ tay xuống, sau lưng nó , một tràng tiểu liên bắn ra. Bóng chú liên lạc lăn xuống đống gạch vụn…giữa trán nó , một lỗ thủng sâu hoắm rỉ máu…” 

 

Người “tây học” như NĐT chắc đã đọc “Les misérables” và chú bé giao liên Lũy hẳn đã được gợi ra từ chú nhóc Gavroche .

 

Một trong những nhân vật trung tâm cuốn tiểu thuyết là đại đội trưởng Kha. Anh này chắc không xuất thân “bần cố nông” vì trong người có chút máu tạch-tạch-sè (tiểu tư sản) nên trước khi ra trận còn muốn … diện đồ mới :

 

Anh mở ba lô, tìm bộ quần áo mới, vải thơm sạch, thay vào bộ nâu vẫn còn mặc trên người…Kha nghĩ :” Có chết mình cũng chết cho đẹp..”.

 

Mải mê khắc hoạ “nhân vật” cho có “cá tính” độc đáo, ông nhà văn quên bẵng “cái chết đẹp” hiểu theo lập trường cách mạng chỉ mang ý nghĩa “hy sinh cho Chính phủ, cho đoàn thể và cho bác Hồ” chứ không phải quần áo đẹp, hình như sợ cấp trên quở, ông vội vàng “sửa sai” :

 

Cầm cái áo lên , anh bỗng nhìn thấy cái huy hiệu Thanh niên dân chủ quốc tế…”

 

Và anh đại đội trưởng vừa sa đà chút xíu vào “ cá nhân chủ nghĩa” vội vàng củng cố ngay lập trường cách mạng :

 

Kha tháo huy hiệu xem kỹ : một quả địa cầu và mặt ba người thanh niên trắng đen vàng. Chiều hôm nay ở đây sẽ lại có những người thanh niên Việt Nam chết cho thực hiện cái cảnh hoà bình thân ái ghi trên tấm huy hiệu này…”

 

Tuy nhiên phải đợi tới giai đoạn 2 của chiến dịch, vào một trận tấn công cứ điểm Pháp trên đồi, Kha mới chứng nghiệm dự cảm về cái chết của mình. Trong trận đó, anh dẫn đầu đại đội tràn lên đánh địch .

 

Một tiếng xoẹt , Kha nằm nấp xuống hố đạn. Đất xới lên lấp chân Kha. Qua rồi, Kha nhảy lên miệng hố. Kha hét :” Xung pho…ong …”. Kha bỗng choáng óc như bị một nhát búa. Đất lạo xạo đầy mồm. Tiếng trung liên tắc tắc. Kha thấy mình nằm úp mặt xuống đất…”

 

Bị trúng đạn rồi, Kha vẫn :

 

“ Tay nắm chặt súng lục, Kha cố đứng dậy đưa tay trái sang tìm vết thương. Sờ đến bả vai, thấy những ngón tay dính nháp nong nóng. “À đây, máu chảy nhiều.”…Luồng đạn qua mặt mát lạnh, Kha như ra khỏi sương mù. “ Không thể lui xuống lúc này được. Phải lên ngay cho kịp anh em. “ Kha cắn răng chạy lên…’

 

Thế rồi Kha lại nhận thêm một viên đạn vào cánh tay , anh vẫn “ quên hết hai vết thương ở vai và ở tay chỉ còn một ý nghĩ “ Chạy thẳng lên đồi giết hết, giết hết…”.

 

Rồi anh lại bị một quả đạn cháy “khắp bên trái người cháy bỏng , anh khuỵ xuống, ngáp ngáp cố thở . Kha vẫn không chịu ngất đi , tự bảo “cố lên, cố lên…”.

 

Chỉ đến khi anh bị tiếp một quả đạn cháy thứ hai “cả người Kha xèo xèo, Kha giãy giụa hai ba cái trong đám lửa…” , anh mới chịu gục ngã.

 

Tuy nhiên, ông nhà văn vẫn chưa cho phép nhân vật được chết. Người anh hùng không thể chết câm lặng vậy được, cái chết đó phải được nhấn mạnh góp phần đắc lực cho công tác giáo dục chính trị tư tưởng. Kha được khiêng về trạm quân y chờ chính trị viên tới thăm .

 

Trong đám sương mù liên miên, trí khôn đã lạc lõng của Kha bỗng nghe thấy xa tít có tiếng gọi. “ Kha ơi, Sản đây-Sản đây…” ( Sản là chính trị viên) “ Kha cuống quýt …mấp máy cặp môi phồng rộp, tưởng mình đang kêu to mừng rỡ . Hai lòng trắng mắt động đậy. Bàn tay Kha giơ lên quờ quờ :” Ồ đồng chí Sản, sao bây giờ anh mới tới ? Ồ Sản, Thế nào ? Tối hôm ấy thế nào ?”. Sản nói to :” Ta tiêu diêu diệt được toàn bộ quân địch ở dãy đồi. Tiêu diệt toàn bộ quân đội…”

 

Vậy là phút giây thiêng, anh đại đội trưởng Kha vẫn chờ tin thắng trận, giống y chang anh đại đội trưởng trong truyện ngắn “ Anh hùng cứ điểm”, Nguyễn Đình Thi lại cũng viết :” trước khi hy sinh, Còm còn thều thào hỏi : ”Vào đến đâu rồi ?” .

 

Hơn hẳn anh đại đội trưởng Còm, sau khi nghe tin chiến thắng, “ Kha cười :” Tao lo quá mày ạ. Mày mà đổ thì cả chi bộ và đại đội lao đao…”. Rồi Kha căn dặn người ở lại :” Đồng chí Na phải đề nghị huân chương chiến sĩ hạng nhất mới xứng đáng. Nhấc lên làm trung đội phó…”. Vậy là tới lúc chết , người anh hùng vẫn chưa được nghỉ ngơi, vẫn lo công việc tới hơi thở cuối cùng. Cho tới khi chính trị viên ghé tai hỏi :

 

” Anh có điều gì dặn lại không ?”

 

Kha vội lắm, Anh còn ít thời gian lắm :

 

“ Chào Đảng, các đồng chí..chi bộ…”

 

Vậy là làm xong nhiệm vụ đảng viên trước khi chết rồi, Kha mới dặn dò riêng tư :

 

“ Sản nhớ cho Lý cái bật lửa…Hết”

 

Chẳng hiểu sao, cứ trước lúc chết, các nhân vật anh hùng của Nguyễn Đình Thi cứ phải tặng ai một kỷ vật gì đó , anh Còm thì gửi lại cho chú giao liên chiếc đồng hồ đeo tay, anh Kha cũng gửi cái hộp quẹt cho cô bạn cũ gặp lại trên đường hành quân. Có lẽ ông nhà văn muốn có thêm chút ít ‘chất người “ cho nhân vật, nếu không cứ dặn dò, cứ hô khẩu hiệu trước khi chết thì “ khô khan, người máy” quá chăng ? Có điều ngay cả những chi tiết ‘tình người” đó cũng khó xúc động lòng người vì sự khiên cưỡng và lặp lại .

 

Ở đại đội, “thủ trưởng quân sự “ tức đại đội trưởng vẫn dưới quyền “thủ trưởng chính trị” tức chính trị viên kiêm bí thư chi bộ. Đánh đấm ra sao, tư tưởng thế nào, tuốt tuột thuộc quyền “quản lý” và quyết định của anh chính trị viên. Bởi thế nhân vật quan trọng nhất trong “Xung kích “ của Nguyễn Đình Thi lại là anh chính trị viên tên Sản (chắc gợi từ “cộng Sản”).

 

Sản “nắm” cán bộ chiến sĩ, “nắm” chủ trương chiến dịch, chiến thuật, “nắm” lương thảo, vũ khí, “nắm” địa phương nơi đóng quân… Để thực hiện chế độ ‘toàn trị’ của Đảng trong quân đội, Sản phải nắm đủ thứ trên đời. Chính vì vậy trong lưng Sản lúc nào cũng kè kè cuốn sổ ghi chép và họp hành liên miên :

 

“ Mới mờ sáng, tới vị trí trú quân, Sản đã triệu tập các chi uỷ viên tới hội ý….”.

 

Hiền, một anh đại đội phó tố cáo :

 

Tôi xin nhắc đồng chí bí thư vấn đề tiểu đội trưởng Tá…Càng về gần dưới này , tinh thần càng xuống. Anh ta có lúc nhắc tới chuyện giải ngũ…”

 

Sản cúi ghi trên sổ tay “ Chú ý công tác cậu Tá…”

 

Người bị tố cáo phải vào sổ đã đành, ngay cả người đứng ra tố cáo cũng không thoát :

 

Sản nghĩ :”Đồng chí Hiền cũng cần được theo dõi và giúp đỡ hơn nữa. Còn hay dễ làm khó bỏ…”

 

Có người nhắc :

 

Đồng chí bí thư chưa bàn vấn đề tiền ăn…”

 

Sản bỏ bút nhìn lên :

 

“ Tôi ghi cả đây. Giải quyết sau. Bây giờ tôi nhắc các đồng chí mấy điểm…Phải chuẩn bị ngay tinh thần cho bộ đội. Mọi việc phải gấp gáp lên. Còn vấn đề bí mật…nhiều cậu phất phơ ngoài chỗ trú quân, diện quần áo Mỹ giữa ban ngày, mua bán lung tung..Ngay cán bộ cũng coi thường bí mật. Đồng chí Hiền sao không nguỵ trang ? Đồng chí muốn bộ đội ăn bom dây à ? Các đồng chí phải về họp tổ mà chấn chỉnh ngay đi…”

 

Cứ vậy, cái gì Sản cũng phải ghi, phải để mắt tới và phải huấn thị quần chúng mới tròn nhiệm vụ chính trị viên .

 

“ Sản ngồi với cuốn sổ tay đặt giữa đầu gối. Hai vai anh cúi ép xuống lồng ngực. Những con số, những dòng chữ đầy mãi trang giấy…”

 

Một chị cán bộ mới gặp thoáng trên đường cũng đã phải nhận xét về chính trị viên Sản :

 

“ Ông này chắc bộ đội khó giấu được ông ấy cái gì ?”

 

Giấu sao được, giấu là chết. Ngoài chuyện ghi chép tỉ mỉ, dọc đường hành quân, Sản còn phải tranh thủ giáo dục tinh thần cách mạng thường trực cho bộ đội :

 

“ Anh chính trị viên giơ cái ống tay áo cụt chỉ những đồi cỏ lau rậm rạp dưới ánh trăng, nói với mấy anh cán bộ trung đội :

 

“ Vùng này là chỗ “căng” ngày xưa Pháp đem đầy các đồng chí mình đây…”

 

Khi ra trận, Sản phải lo sao cho bộ đội người nào cũng “có thư Bác cài trên mũ”, phải dặn dò đủ thứ :

 

Các đồng chí xông lên đồn còn là dễ, mà làm thế nào đủ điều kiện xông lên đồn mới là khó. Phải chú ý từ cái quai dép dây giày, túi cơm, cái giẻ lau, cái hộp mỡ, từ cái nan tre làm thang…”

 

phải nêu cao tinh thần “quyết đánh” cho bộ đội, dù có thiếu đạn dược vẫn cứ đánh :

 

Phải làm cho tất cả anh em trong đại đội có tinh thần như chúng ta (đảng viên.) . Là vì sẽ gay go, mệt, đói, vội, có thể thiếu cả vũ khí. Không biết chừng không kịp có bộc phá. Không có, vẫn phải đánh được.Không kịp nghiên cứu kỹ sa bàn, cũng phải đánh được…”

 

Vậy là cứ có ý chí là đánh được tuốt, người lính cứ thế mà xông lên bất chấp mạng sống của mình. Sau cùng , Sản còn phải thể hiện rõ vai trò gương mẫu bằng thề thốt :

 

“ Đảng đã dậy chúng ta : người đảng viên bao giờ lời nói cũng đi đôi với việc làm. Tôi xin hứa với chi bộ, nếu tôi không tròn nhiệm vụ trong trận này, tôi sẽ không đem cái mặt nhọ mà về trước đoàn thể…”

 

Thủ trưởng chính trị” bao giờ cũng to hơn “thủ trưởng quân sự”. Khi lâm trận, anh đại đội trưởng muốn ra cái lệnh gì cũng phải nhất nhất thông qua chính trị viên :

 

Đánh thế nào ? Kha (đại đội trưởng) nhìn bức tường dựng đứng . Ít ra là tám chín thước cao. Cho là ba tầng nhà. Phải chập thang, chồng người mà lên. Rồi từ lô cốt đã chiếm đánh toả ra. Kha quay lại Sản :” Bây giờ cho hai trung đội chiếm trên mái?” Sản gật.”

 

Sản gật rồi Kha mới được phép thực hiện. Vậy là ngay cả trong chiến đấu, mọi mệnh lệnh phải được đại diện Đảng thông qua rồi mới được phát ra. Chính trị viên quyền lớn , trách nhiệm cao như thế nên ắt phải là con người….đặc biệt . Bởi thế đại đội trưởng Kha đã nhận xét về chính trị viên Sản :

 

Ai được như nó ? Có lẽ nó chưa biết tuổi trẻ là gì ? Lúc sáng, ở trung đoàn về nhìn thấy Sản ngủ, mặt hóp lại , mắt nhắm im. Kha giật mình. Nó mở hai mắt đờ ra nhìn Kha mấy giây như nhận không ra rồi mới chớp chớp mấy cái…”

 

 

Hoá ra ngay trong giấc ngủ, anh chính trị viên cũng vẫn phải làm công tác “nắm tình hình”.

 

Trong lịch sử loài người, xuất hiện sớm nhất là thày tu và cô điếm rồi sau mới đến các loại phù thủy, nhà hiền triết, thợ thủ công, nông dân…Tuy nhiên phải đợi đến khi chủ nghĩa cộng sản xuất hiện, dùng bạo lực cướp chính quyền, nhân vật “chính ủy” mới ra đời trước hết ở Liên xô, Trung Quốc, Bắc Triều Tiên rồi Việt Nam. Đó thực sự là hạt nhân của các đảng cộng sản nắm súng đạn, nắm quần chúng huy động nhân tài vật lực vào bạo lực cách mạng cướp quyền dân.

 

Mang vai trò và phẩm chất đặc biệt như vậy, “chính ủy” về lý thuyết phải xuất thân công nhân thì mới “ có ý thức tổ chức, có tinh thần kỷ luật” . Nắm vững yêu cầu đó, Nguyễn Đinh Thi đã không chọn nông dân hoặc tiểu tư sản mà chọn công nhân mỏ làm thành phần xuất thân cho chính trị viên Sản đúng y chang đường lối giai cấp trong xây dựng quân đội của Đảng. Bởi thế cái tâm niệm “người vô sản vùng lên tranh đấu chỉ mất có gông xiềng mà được cả thế giới “ đã ăn vào cả trong giấc mơ của anh chính trị viên :

 

“ Ngày nào được đánh về vùng mỏ, gặp chúng nó (bạn bè công nhân cũ) thì sướng đến thế nào. Tương lai kháng chiến thành công rồi, chắc đoàn thể lại cho Sản về một nhà máy, nhà máy bấy giờ sẽ là của ta , Sản chỉ ao ước có thế …”

 

Hoá ra “người nô lệ vùng lên tranh đấu” “ chỉ ao ước có thế. ”, mai kia giành thắng lợi, chẳng cần tới cả thế giới, chỉ mong có trong tay một nhà máy làm chủ thoả nỗi khổ nhục làm công nhân ngày xưa. “Người anh hùng “ dù cho được vẽ vời cao đẹp đến mấy, vẫn thò ra cái đuôi hám chức quyền.

 

Chính trị viên đại đội đã như một “thượng đế toàn năng”, vậy còn lính tráng thì sao ?

 

Cho dù bộ đội đã được tổ chức thành trung đội, tiểu đội nhưng để việc ‘quản lý” thêm chặt chẽ, Đảng đã thiết lập “tổ 3 người” theo chế độ “tam tam chế” của bác Mao để “quản lý” và “dò xét “ lẫn nhau.

 

Trong “ Xung kích”, tổ tam tam tiêu biểu là Thông, Cốc và Mẫn – 3 anh lính cấp chót bét trong đại đội thường xuyên “để ý “ và “ bắt bẻ” nhau .

 

“Thông quay lại Mẫn :

 

“Cậu công tử lắm. Bớt ngắm vuốt đi. Soi gương luôn trông sốt ruột lắm . Mà có được thấy đàn bà con gái đếch đâu mà diện. Ban đêm thì đi như gió. Ngày lại rúc vào bụi rậm. Cái áo Mỹ ấy cũng đừng vác ra ban ngày nữa. Dân làng người ta trông thấy còn đếch đâu là bí mật….”

 

Rồi “Thông bảo Cốc :

 

“ Thằng Mẫn phải để ý thế nào mới được . Có lẽ cậu phải gần nó, nói chuyện luôn, giác ngộ cho nó…”

 

Trong sinh hoạt ngày thường, “tổ tam tam” tăng cường “giám sát” nhau :

 

Thông vừa mài dao vừa liếc mắt nhìn Mẫn . Biết ngay là cậu ta đang muốn nhớ nhà. Hé ra một câu là cu cậu cắn ngay. Chưa về quê được cậu ơi. Còn là đánh…”

 

Trong tổ tam tam, còn gọi là “tổ keo sơn” Thông là người “vững lập trường nhất”. Ngay cả cái “tàu điện của Tây” anh cũng dè bỉu :

 

“ Nước mẹ gì, nó lại cho vài cái đầu tàu điện thải ở cái xó nào bên Tây chứù gì ?”

 

Và anh mơ ước :

 

Sau này Hà Nội thể nào chả có tàu điện. Mình làm ngầm dưới đất theo lối Liên xô kia chứ ? Đánh Tây đánh tiếc xong chỉ xin đoàn thể cho về Hà Nội lái tàu điện ngầm là sướng nhất…”

 

Ước mơ về thiên đường cộng sản ghê gớm chưa ? Chỉ có điều vĩnh viễn cái tàu điện ngầm “theo kiểu Liên xô” ấy sẽ chẳng còn có cơ hội xây dựng ở Hà Nội.

 

Nhân vật thứ hai trong tổ tam tam là Cốc, “bồ côi từ nhỏ, lớn lên là đứa trẻ ăn mày ăn xin đầu làng cuối chợ…Những ngày cách mạng tháng Tám, Cốc sướng nhất , Cốc được vào thanh niên…tập tự vệ rồi đi bộ đội…”. Còn lại là Mẫn , em út trong tổ 3 người thường bị “uốn nắn” cũng lại xuất thân từ một làng quê bên bờ sông Thao.

 

Vậy là từ sĩ quan tới lính tráng trong “Xung kích” của Nguyễn Đinh Thi đều là những nông dân, công nhân nghèo khổ bị phong kiến và đế quốc bóc lột tới tận xương tuỷ. Thế còn những học sinh, sinh viên, công chức, những trí thức thành thị đã tham gia bộ đội đã đóng góp rất lớn ngay từ những ngày đầu đánh Pháp đâu cả rồi ?

 

Chắc chắn không phải ông Nguyễn Đinh Thi vô tình quên họ mà ông tâm niệm “quân đội ta” phải là “nông dân mặc áo lính” – muốn văn vẻ ra sao, ông không được quên nguyên tắc đó khi viết tiểu thuyết đề tài bộ đội như “Xung kích” cho dù ông đã cướp công của bao nhiêu sinh viên, học sinh, con em các gia đình khá giả ở Hànội đã vì lòng yêu nước chống ngoại xâm mà đổ máu trên các chiến trường.

 


 Nhân vật trong Xung kích của Nguyễn Đình Thi đều có mẫu số chung là căm thù giặc Pháp, dũng cảm chiến đấu, tình cảm riêng tư hầu như số không và đời sống tính dục hoàn toàn bị loại bỏ . Cứ như bao nhiêu nhân vật đàn ông dũng mãnh trong truyện đều bị “thiến bỏ” hết phần “bản năng tính dục” , khiến họ toàn tâm toàn ý tập trung giết quân thù.

 

Giá trị của “Xung kích” không nằm ở văn chương, không nằm trong phản ánh thân phận con người trong chiến tranh, mà chính là đã nêu được một hình mẫu tổ chức quân đội, từ chế độ chính trị viên toàn trị cho tới các tổ 3 người kiểm soát lẫn nhau, từ cung cách quản lý tư tưởng cho tới quản lý sinh hoạt …tất thảy đều nhằm biến một đơn vị quân đội trở thành một cỗ máy chỉ biết xông lên chém giết quân thù.

 

Và phải chăng cái “sức mạnh quân đội đã làm nên nhiều chiến thắng thần kỳ” như người ta vẫn ca ngợi là do sự tinh vi về tổ chức, sự hà khắc về tư tưởng và sự tiêu diệt mọi màu sắc cá nhân. Bởi thế, cái hình mẫu tổ chức quân đội đó chẳng nơi nào trên trái đất này có được, nó chỉ thực hiện được ở các nước cộng sản.

 

Trong sự nghiệp văn chương NĐT, những “Nhận đường”, “ Anh hùng cứ điểm”, “ Xung kích” chỉ là những phác hoạ chân dung để sau này ông viết nên một pho tiểu thuyết đồ sộ : Vỡ bờ 1 dầy 500 trang , Vỡ bờ 2 trên 700 trang.

 

Như cái tên của nó, NĐT muốn dựng lại cả một thời kỳ lịch sử vào lúc dân ViệtNam dường như không chịu nổi ách áp bức của cả Pháp và Nhật nên đã “tức nước vỡ bờ”, bung ra làm cách mạng.

 

Xoay quanh nhiều nhân vật trí thức, “Vỡ bờ” dường như muốn tìm cách trả lời câu hỏi vì sao đại đa số trí thức ViệtNam đi theo cộng sản làm cách mạng ? Cho tới tận bây giờ, vấn đề này vẫn được nhiều người quan tâm và vẫn chưa được trả lời một cách thoả đáng, liệu Nguyễn Đình Thi qua bộ trường thiên tiểu thuyết này có đóng góp gì hơn ?

 

Mở đầu thiên tiểu thuyết, NĐT cho “ra tuồng” cùng lúc hai nhân vật trí thức tham gia cách mạng.

 

Một là Hội, có vợ con ở làng Chẩm , lên Hà Nội dạy học. Hội của NĐT gợi đến khá rõ nhân vật Thứ trong “Sống mòn” của Nam Cao chỉ khác Hội đã tìm được tới cách mạng còn Thứ thì chưa .

 

Thứ hai là Khắc, con trai cụ tú Nguyễn Mai, hoạt động Đông Kinh Nghĩa Thục và bị bắt đầy đi Côn Lôn rồi chết ở ngoài đảo. Cụ Tú mất đi nhưng truyền lại được cái chí của mình cho con : “Năm ba mươi , Khác bị bắt về tội cộng sản, Toà đề hình xử án 20 năm tù và Khắc cũng lại đi Côn Đảo…đến hồi chính phủ bình dân Pháp lên , Khắc được tha về nhưng hai lá phổi của anh đã bị vi trùng lao đục ruỗng…”.

 

Từ Hà Nội về làng chuyến này, Hội có trách nhiệm báo động cho Khắc đi trốn vì sắp có đợt khủng bố mới. Hai trí thức cách mạng gặp nhau, tất nhiên chuyện “cách mạng” phải nở như bắp rang.

 

“Khắc nhận định :

 

“ Bây giờ không phải lúc Mặt trận Bình dân cầm quyền bên Pháp nữa. Chiến tranh đã nổ ra. Từ nay đã sang một thời kỳ khác rồi…”

 

Rồi ông chính trị phạm Khắc giải thích cho anh thanh niên Hội, cách mạng tay mơ vì sao “ông Xtalin lại bắt tay ông Hitle” để ký hoà ước Xô- Đức, vạch mặt bọn trôtskit ở Hà Nội nhân vụ này đã la to :” vĩnh biệt Mạc Tư Khoa”…

 

Công tác giáo dục chính trị tư tưởng của Khắc tỏ ra rất hiệu quả, Hội nghe xong nắm cánh tay Khắc :

 

“Cứ nghe anh, tôi lại thấy vui một tý , tôi lại muốn vật lộn, xem cái xã hội này xoay vần đến đâu . Chứ còn nhìn vào sự thật hàng ngày thì lắm lúc tôi chỉ muốn buông xuôi hết. Dân mình không biết bao giờ mới cách mạng được . Cái nọc độc nô lệ nó đã ăn quá sâu vào xương tuỷ chúng ta rồi…”

 

Tất nhiên, Hội được Khắc đả thông ngay :

 

“ Anh nói thế không đúng đâu. Tôi thì tôi cho rằng anh vẫn chưa thực thấy cách mạng là cần thiết. Đến lúc thực không thể sống thế này được nữa , thì anh sẽ có gan và có sức mạnh…”

 

Nhưng rồi Hội cũng thấy ngay dự định của anh thật viển vông, cách mạng đòi hỏi phải lao vào hoạt động không ngại tù đầy bắt bớ, phải đặt nhiệm vụ tổ chức giao cho cao hơn là việc kiếm tiền nuôi vợ con. Đó là một tương lai rất khó khăn đối với Hội, bởi lẽ anh là người nhút nhát, mật vụ mới chỉ lùng sục bắt bớ trên Hà Nội, anh đã mang bao nhiêu báo chí bí mật của cách mạng “nhờ cụ vua bếp giải thoát đi cho…”

 

Đối lập với trí thức cách mạng là tầng lớp “thượng lưu quý tộc” những năm 1940-1945 được Nguyễn Đình Thi mô tả khác xa so với các nhà văn cùng thời như nhóm Tự lực văn đoàn, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan…

 

Trước hết, Nghị Khanh là một tên đại địa chủ gian ác “ngày nào , ngoài cổng nhà Hai Khanh cũng có hàng dẫy người chầu chực xin vào gặp quan chủ để vay mượn, cầm cố. “Quan” cứ trông giỏ bỏ thóc, nhằm nhà nào có mảnh ruộng miếng đất mới bỏ tiền cho vay, với lãi cắt cổ. Qua vài vụ thì ruộng đã về tay quan…”.

 

Vợ Hai Khanh được ông nhà văn mô tả :

 

cặp mắt bà Nghị mở ra trắng dã …một làn phấn mỏng làm cho nước da đen và dày bì bì của bà thành một màu khó tả. Mỗi khi bà nghị chú ý nhìn ai, hai con mắt long sòng sọc ấy như muốn nuốt chửng người ta …”

 

Hai vợ chồng Nghị Khanh cho anh nông dân Bào cấy rẽ có mẫu hai lại ăn gian thành mẫu rưỡi và ông nhà văn ra sức bôi đen gương mặt giới điền chủ :

 

“ Anh Bảo cố nén uất ức :

 

“ Bẩm bà lớn nhà con cấy có mẫu hai thôi ạ…

 

Mụ nghị như chồm lên trên cái bàn giấy :

 

“ Tiên nhân bố mày, bà thèm ăn không của mày mấy thùng thóc à …”

 

Anh Bảo tức đầy ruột đâm liều :

 

“ Bà lớn ức tôi quá. Tôi cày ruộng nộp đủ thuế thì thôi…’

 

Nghị Khanh vừa ở nhà trên đi xuống. Cặp môi mỏng và đỏ tía của lão mím lại dưới hàng ria đen. Lão cầm ba toong bằng song quất thẳng vào mặt anh Bào đánh chát một tiếng.

 

“ Đồ khốn nạn. Ai cho mày đến đây làm loạn. Anh Long đứng đấy làm gì , sao để nó láo với bà lớn ? Giần xác nó ra …”

 

Vậy là anh nông dân đã bị “địa chủ, phong kiến” bóp cổ lè lưỡi đến gần chết, phải vùng dậy đi theo Đảng làm cách mạng thôi.

 

Bám vào cái chủ đề “ vỡ bờ” đã được đặt trước cho cuốn sách , ông Nguyễn Đình Thi phải ra sức “ép” cho “tức nước” nghĩa là phải mô tả “thằng địa chủ, thằng tư sản” phải thật xấu xa, thật độc ác , người nông dân phải thật nghèo khó, thật khổ sở , và rồi ách áp bức của “tư sản, địa chủ” choàng lên đầu lên cổ nông dân đã khắc nghiệt tới mức họ không chịu nổi và Đảng đã phát động họ vùng dậy làm cách mạng tháng Tám.

 

Vậy là khi bỏ công sức ra viết cả ngàn trang tiểu thuyết “Vỡ bờ”, Nguyễn Đình Thi không làm cái công việc ghi chép một cách chân thực diện mạo xã hội - thiên chức của người cầm bút, “người thư ký thời đại” mà lại nhào nặn đời sống để minh hoạ cho những nhận định của Đảng về sự tất yếu phải nổ ra cuộc “cách mạng dân tộc, dân chủ” do Đảng lãnh đạo.


 

Cùng hội cùng thuyền Hai Khanh, tầng lớp “ thống trị” có quan huyện Môn từng tâm sự :

 

Cái nghề làm quan bây giờ có phải dễ kiếm như vậy đâu . Xoay được của thằng dân đen vài chục bạc thì có khi vã mồ hôi trán ra . Nhất là ở huyện ông trị nhậm, mấy năm vừa rồi , được thế mặt trận bình dân , cộng sản nó mọc lên như rươi . Những thằng khố rách áo ôm cũng doạ biểu tình và giở lý sự ra với quan. Làm quan bây giờ khó, khó lắm. Thật ra là trên đe dưới búa…”

 

Vậy sợ chưa đủ xấu, ông nhà văn diễn tả cả cái nỗi bực của quan vì vợ mình không …chịu “hiến thân “ cho Tây :

 

Nỗi bực của ông huyện lại kéo đến. Phượng (bà huyện) chỉ cười với quan công sứ một tí thôi , tiếp người ta một tí thì mình chẳng phải lẹt đẹt mãi thế này. Ngay cả quan công sứ Hải Dương từ lần gặp Phượng ngày tết tây trên tỉnh cứ hỏi thăm bà huyện luôn.Giả thử Phượng chiều lão ta một lần đi nữa cũng có mất mát gì . Miễn là chồng bằng lòng thì thôi chứ…”

 

Các “quan” đã xấu vậy, vợ các “quan” làm sao tốt ?

 

 Bà huyện Môn thì “dâm ngầm” :

"Mắt và môi bà lúc nào cũng hơi ướt, đôi mắt mơ màng có khi bất thình lình nhìn thẳng vào một người đàn ông như hơi chế riễu và hỏi :” Ông hãy nhìn kỹ đi, có phải tôi đẹp mê hồn không ?”.

 
Bà tuần Vi thì lại :

 
“ngực đét như một con mắm, cái mặt luôn luôn hơi vênh lên. Tướng bà có chỗ khác người nhất là hai cái tai to tuớng chừng gần chấm xuống đến vai . Kẻ xấu miệng thì bảo bà có tính ngồi đâu cũng làm như mẹ người ta…”.

 
Còn bà Phán Đệ :

 “béo nục nạc, vừa rút một cái gương con trong túi ra. Bà quay vội đi xoa thêm ít son đỏ lên cặp môi rồi lại quay trở lại nói the thé…”

 

Tất nhiên, con cái nhà quan cũng xấu xa không thua gì bố mẹ :

“Cậu Tường, con trai ông nghị, hai mắt cậu như bị thôi miên bởi vẻ đẹp rực rỡ của bà huyện…”, rồi đến tối khuya, cậu rình con ở tắm để làm bậy. “ Xoan lên bờ đang mặc áo thì một cái gì ở đằng sau chồm lên vồ lấy nó…Hơi rượu phả ra nồng nặc, hai cánh tay ôm chặt lấy nó. – Im, tao bảo…Tiếng “cậu Tú” Tường lào phào , hơi rượu còn sặc sụa, tay sờ soạng ghì lấy người con gái…”

 

Tầng lớp “thượng lưu” càng xấu xa, độc ác, bỉ ổi bao nhiêu thì tầng lớp “ bình dân”, ngược lại , càng tốt đẹp, cao thượng, tình người bấy nhiêu.

Nhà Xoan đi ở đợ và mẹ là Mùi giống y hệt nhà chị Dậu trong “Tắt đèn” của Nguyễn Công Hoan, trong khi đám địa chủ đối xử với họ độc ác quá cầm thú thì những người cùng khổ lại yêu thương, đùm bọc lẫn nhau theo đúng “tinh thần hữu ái giai cấp”.

 

Tất cả nhân vật từ giới thượng lưu tới đám dân đen trong Vỡ bờ của Nguyễn Đình Thi đều được phát triển theo một công thức cứng nhắc đó, tuyệt nhiên không có ngoại lệ.

 

Bởi lẽ nếu nhà văn để cậu tú Tường , con địa chủ Hai Khanh không ức hiếp con ở, không bóc lột người cấy rẽ…thì tức đã thừa nhận ngoài tính giai cấp ra, con người còn có một ‘tính chung” nữa – đó là “nhân tính”.

 

Suốt mấy chục năm lịch sử của phương pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa, cái phạm trù nhân tính này đã gây ra biết bao “tai nạn lao động” cho các nhà văn, nhà thơ, nhà kịch, nhà nghệ sĩ tạo hình…

 

“ Anh đã chót yêu con địa chủ

Quá yêu rồi biết bỏ sao đành…:”

 

Đó là cái phần “nhân tính” đã nổi lên, cần phải diệt trừ nó , bởi lẽ cách mạng tuyệt đối không thừa nhận “nhân tính”. Nhân vật của Nguyễn Đinh Thi cũng vậy, nó được quy định chặt chẽ bằng “giai cấp tính” – đã là con địa chủ hoặc tư sản phải có máu “hưởng thụ và bóc lột” , đã là con nhà công nhân nhất định phải có gien “tổ chức và kỷ luật”, con nhà nông dân thoát sao được đầu óc tư hữu, tiểu nông, con nhà tiểu tư sản thì bấp bênh, dao động…

 

Quy phạm về con người trong văn chương hiện thực xã hội chủ nghĩa rõ ràng vậy, các ông nhà văn chỉ còn có mỗi việc “sáng tạo” gia giảm liều lượng mà thôi, ông nào say sưa, quá đà để nhân vật mon men đến chỗ dính nhân tính , thế nào cũng mắc “tai nạn nghề nghiệp” .

 

Nguyễn Đình Thi là người đầu tiên đưa “các đồng chí đảng viên cộng sản” vào tiểu thuyết ViệtNam.

 

Tất nhiên trước hết là những con người vô cùng dũng cảm, sẵn sàng chết cho lý tưởng cộng sản , lúc nào cũng lo làm cách mạng :

 

Ừ, thằng Se suốt năm ở hầm xay lúa như trâu, thằng Đàm loẻo khoẻo mỗi lần đấu tranh cứ xông ra chịu đòn cho anh em khi cai ngục, mã tà vào banh nện dùi cui như mưa rào, thằng Chấn anh em gọi đùa nó là Giáo sư đỏ, bị bệnh lở tuột cả da từ thắt lưng trở xuống, nhiều hôm cứ ở truồng như nhộng, thịt đỏ hon hỏn ngồi xổm giảng biện chứng duy vật…”.

 

Trên cái nền đỏ chói ngời “khí tiết cộng sản” đó, Nguyễn Đinh Thi đã dụng công dựng nên chân dung một lãnh tụ cộng sản tất nhiên là theo chiều hướng thổi lên tận mây xanh…

 

Các nhà văn trong nước thường được dậy dỗ cách xây dựng nhân vật gọi là “điển hình hoá”, trong đó theo nhà văn Lỗ Tấn “ lấy cái tai của người Sơn Đông, cái mắt người Sơn Tây , cái mũi người Sơn Nam…” mà ghép lại thành nhân vật.

 

Khi xây dựng “hình tượng nhân vật” là lãnh tụ cộng sản, Nguyễn Đình Thi cũng theo phương pháp này, bởi thế anh Khắc trong truyện “ Vỡ bờ” phảng phất lý lịch mấy ông Trần Phú, Nguyễn Ái Quốc, Lề Hồng Phong …mỗi ông một cái “tai”, cái “mắt”, cái “mũi” mà kết thành.

 

"Đồng chí" Khắc xuất thân gia đình tham gia Cần Vương, bố bị Pháp bắt tù, mới ngoài 20 tuổi Khắc đã bị đi đầy Côn Đảo, hết tù trở về hoạt động trong phong trào công nhân xi măng Hải Phòng… Thật là một lý lịch lý tưởng cho một ông lãnh tụ cộng sản.

Tuy nhiên loại nhân vật này rất hiếm hoi, các ông phần lớn “nằm vùng”, hoạt động trong bóng tối, con người thực của mấy ông kín như bưng, ít người được biết tới, ngay đến nhà văn cách mạng Nguyễn Đình Thi cũng ít cơ hội gần gũi mấy ông, bởi thế xây dựng nhân vật này rất khó mà hoá dễ.

Khó vì sự cách bức trên mọi phương diện, cơ hội được gặp lãnh tụ đã hiếm hoi, gặp được rồi lại chỉ toàn nghe ý kiến chỉ đạo, răn dậy hoặc giảng đạo chứ mấy khi bắt gặp được “con người thực ” của mấy ổng. 

Dễ là vì đó là những bậc “thánh thần” cứ tha hồ mà bốc lên mây xanh không sợ cấp trên thổi còi, bạn đọc cũng không phản đối vì thực hư có hay biết gì đâu ?

 

Có lẽ vì sự hiếm hoi của các chi tiết nhân vật, ông nhà văn bê nguyên xi cả văn bản nghị quyết vào mô tả hai nhân vật “lãnh đạo cộng sản” là đồng chí Lê – xứ uỷ và đồng chí Khắc – thành uỷ :

 

“Bước đường sinh tồn của dân tộc Đông Dương không có con đường nào khác hơn là con đường đánh đổ đế quốc Pháp, chống tất cả mọi ách ngoại xâm, vô luận da trắng hay da vàng để giành lấy giải phóng dân tộc…” Khi Lê đọc xong, họ cùng im lặng mấy phút. Những lời trong bản nghị quyết như còn bỏng lửa trong đầu óc họ…”

 

Nhà văn Nguyễn Đình Thi bộc lộ rõ một điều, cả Lê và cả Khắc dù là trí thức, nhưng những gì đã thành Nghị quyết Đảng đều là chân lý tuyệt đối không được mảy may nghi ngờ.

Nghe xong nghị quyết, họ chỉ thấy nóng bỏng đầu óc tìm cách thực hiện , tuyệt nhiên không nghĩ tại sao bước đường sinh tồn của các dân tộc Đông Dương lại chỉ có mỗi một con đường đánh đổ đế quốc Pháp, phong kiến và mọi ách ngoại xâm bất kỳ da trắng hay da vàng ? Tại sao các nước như Thái Lan,Singapore,Indonesia…không đi theo con đường đó mà dân tộc họ vẫn sinh tồn và phát triển lại tránh được núi xương sông máu ?

 

Cái hạt nhân “hiện thực” nhà văn NĐT vô tình để lại trong xây dựng nhân vật lãnh đạo cộng sản là sự tuân phục răm rắp những gì cấp trên đã răn dậy, đã trở thành nghị quyết, tuyệt đối không xét lại, không bàn luận chỉ có nhắm mắt chấp hành và chấp hành .

Ý thức tuân phục chẳng những là “cố tật” của lãnh đạo cộng sản mà tràn lan sang cả những trí thức , tự nguyện thiến bỏ phẩm chất cốt lõi nhất của họ – đó là sự “ngờ vực” để tự biến thành một thành phần “trang nghiêm” trong đàn cừu .

 

 Cho mãi tới tận ngày nay, cái khả năng “ngờ vực” ấy xem ra vẫn chưa được hồi phục trong những người được gọi là “ trí thức trong nước “ bởi lẽ mọi suy nghĩ của họ xem ra vẫn ” nghĩ trong những điều Đảng nghĩ” và như thế liệu họ có đáng được gọi là trí thức không ?”

 

Một khi chỉ cần tới những người chỉ biết “tuân phục”, tự cắt bỏ khả năng “ngờ vực” thì suy cho cùng cách mạng đâu cần tới trí thức ? Đó là căn nguyên rốt ráo vì sao mới ra đời, còn trứng nước, Đảng đã đòi “ đào tận gốc, trốc tận rễ” các tầng lớp “ trí phú địa hào” – trong đó anh “trí thức ” là đối tượng số 1, vì sao lãnh tụ cộng sản Mao Trạch Đông lại coi trí thức không bằng “cục cứt”.

 


 

Vậy cốt lõi, nhân vật Khắc, lãnh đạo cộng sản ,tuy NĐT đã dày công tô vẽ ,cũng không phải trí thức, ông ta chỉ là người thừa hành, tổ chức các hoạt động theo chủ trương trên đưa xuống.

 

Lúc này thành uỷ Hải Phòng bị bắt gần hết, cán bộ cấp dưới có thể phản bội, trong tình hình thoái trào đó, Khắc được “trung ương” cử về Hải Phòng xây dựng lai thành uỷ và tổ chức bộ não lãnh đạo cho cả khu Bê gồm Kiến An, Quảng Yên và Hải Phòng.

 

Vừa đặt chân xuống Hải Phòng, Khắc đã lộ ngay cái máu “căm ghét tiện nghi, căm ghét văn minh” vốn là bản tính ghen tị sẵn có với đời sống người thành phố của mấy bác nhà quê theo Đảng đi làm cách mạng, lấy nông thôn “bao vây và tiêu diệt” văn minh đô thị.

 

Khi nhìn thấy phố xá thắp đèn điện, đồng chí Khắc căm tức :

 

Những cái nơi đèn sáng lộng lẫy kia không toả sáng và sự văn minh ra xung quanh. Trái lại mỗi ngọn đèn điện bật sáng ở đây là hút đi tất cả ánh sáng của hàng chục hàng trăm mái nhà tranh trong những làng xóm tối mù mịt. Chung quanh một vài thành phố có đèn điện , cứ đêm đến khi mặt trời tắt là tất cả đồng ruộng sông núi chìm vào bóng tối mênh mông như biển. Ở nông thôn hầu hết mọi nhà đều không có tiền mua dầu để thắp đèn, đêm đến người ta ăn mò , làm mò, lụi hụi trong bóng tối hoặc chung quanh một ngọn đèn leo lét như thời cổ xưa…”

 

Tâm lý bài xích “văn minh đô thị” của ông lãnh đão cộng sản, về gây dựng Hải Phòng được huỵch toẹt :

 

“Cái đời sống văn minh ở một vài thành phố chỉ là do hút hết máu mủ của các làng xóm cùng cực , lạc hậu, đem về đốt lên thành đèn điện, thành sự xa hoa truỵ lạc ngày càng thối nát thêm mãi.Mấy cái thành phố lớn khác nào những cái nhọt đỏ bầm , càng tấy lên càng làm cho đau đớn nhức nhối, tê liệt cả cái cơ thể Việt Nam đã bị vắt máu đến kiệt quệ …”.

 

70 năm sau, thật chẳng ngờ những suy gẫm của Nguyễn Đình Thi về các thành phố thời “ phong kiến đế quốc” lại trở thành hiện thực trên đất nước Việt Nam , đúng y chang tới từng câu, tùng chữ một cách lạ lùng. Nào “ hút máu mủ các làng xóm cùng cực lạc hậu đem đốt lên thành sự sa hoa truỵ lạc…”, nào mấy “cái thành phố lớn khác nào ung nhọt , tấy lên làm tê liệt cả cái cơ thể Việt nam bị vắt máu đến kiệt quệ..”.

 

Còn đoạn văn nào mô tả thực trạng các thành phố lớn ở Việt nam ngày nay chính xác hơn, sinh động hơn đoạn văn của Nguyễn Đình Thi viết về Hải Phòng 70 năm trước ?

 

Khả năng “thấu thị”, dự báo, “tiên tri” của nhà văn thật chẳng ngờ lại "chơi ngược" lại chính ông . Hoàn toàn không nhìn thấy mặt tích cực của những thành tựu văn minh công nghiệp người Pháp mang tới Việt Nam, ông lãnh đạo cộng sản mà Nguyễn Dình Thi hoá thân vào đó nhìn đâu cũng chỉ thấy biểu tượng của sự bóc lột, hút máu hút mủ :

 

“ ..trước mắt Khắc, nơi con sông Tam Bạc đổ vào Cửa Cấm , sừng sững nổi lên những khoảng tường , mái, nặng nề , chồng chất lên nhau tâng tầng lớp lớp như những bức thành cao ngất đến lưng trời. Quả thật đấy là một cái thành trì to lớn của tư bản Pháp ở Việt Nam : khu nhà máy xi măng Hải Phòng. Trên nền trời bầm tím, hai cái tháp lò đồ sộ phun lên hai cột khói trắng toát. Hai cột khói im lìm như hai cái cây kỳ lạ mọc thẳng lên đến những khoảng mây mù mịt trên trời sâu thẳm…”

 

Hằn học ánh sáng đô thị, thù ghét văn minh công nghiệp, liệu những lãnh tụ cộng sản như Khắc của Nguyễn Đình Thi sẽ dẫn dắt dân tộc này đi tới đâu ? 

 Đưa dân tộc tới một ngày mai ra sao, trong đầu Khắc chưa hình dung được gì ngoài hình ảnh “thiên đường cộng sản” mờ mờ nhân ảnh, chỉ biết lúc này, trong huyết quản ông, sôi sục máu nóng muốn đập bỏ cái con quái vật - “nhà máy xi măng” - bên bờ sông Tam Bạc , Hải Phòng .

 

Ở đó “ dưới vòm trời âm u khói, dòng người xám xịt im lặng chảy đi . Những bộ mặt gày còm lấm nhơ dầu máy hoặc bê bết than đá và bụi đất , đều lộ vẻ mệt mỏi , khác nào vừa bị rút kiệt sức lực trong cái âm phủ đầy lửa cháy và đầy bụi nóng ngột ngạt.” …ở đó “ Chân người ta bủn rủn , bụng đói như cào . Gió đầu mùa đông thổi tới , những manh áo xanh, áo nâu không làm sao chống nổi với gió lạnh . Mọi người đều im lặng bước đi , chỉ nghe thấy tiếng guốc, tiếng giày vải , tiếng chân không bước lệt xệt trên mặt đường …”

 

Những đoạn văn mô tả “nhà máy của tụi tư bản bóc lột công nhân ” này cũng có thể tìm thấy trong tiểu thuyết cùng đề tài của các nhà văn mác xít đầu thế kỷ 20 như “Người mẹ” của Maxime Gorki. “Thép đã tôi thế đấy” của Nicola Ostrosvki, hoặc truyện ngắn “Người đàn bà tàu “ của Nguyên Hồng. Chúng giống nhau đến độ có thể tráo đổi cho nhau mà không ảnh hưởng tới cục diện chung của tiểu thuyết bới lẽ chúng có chung một cảm hứng chủ đạo là coi “nhà máy tư bản bóc lột công nhân “ giống như “con quái vật hút máu mủ người làm thuê ” như “âm phủ đầy lửa cháy và bụi nóng”.

 

Tiếc thay, “cảm hứng chủ đạo” đó không hẳn đã được các nhà văn “nghiệm sinh” từ thực tế đời sống mà là sản phẩm của trí tuệ sau khi đã được nhồi nhét một cách sơ lược và sống sít những luận điểm của chủ nghĩa Mác. 

Và khi đi dưới “tấm biển chỉ đường” đó, ông nhà văn buộc phải chấp nhận sức mạnh đập chết con quái vật, đánh sập “âm phủ” phải là cái năng lượng tiềm ẩn của đám đông :

 

“Một ngọn đèn điện vàng khè đã thắp lên, dòng người rét và đói vẫn cuồn cuộn , lầm lì đi trên đường . Cái quang cảnh ấy có một sức mạnh riêng , nó có cái vẻ oai nghiêm của nó. Giả thử đầu đám người ấy nổi lên một lá cờ đỏ , và tất cả dòng người lầm lì kia mỗi người giơ lên một nắm tay và reo lên một tiếng thì cả con đường bờ sông này sẽ rung chuyển hết , biến thành một dòng thác dữ và mấy nghìn con người mệt đói bủn rủn kia đã thành một đạo quân ghê gớm rồi…”

 

Chỉ bằng một đoạn văn ngắn, Nguyễn Đình Thi đã vô tình bộc lộ ngoài ý muốn cái cốt lõi của “chủ nghĩa nhân đạo cộng sản”. Đó là một cái nhìn thuần “lý tính”, nhảy qua mọi khốn khó của quần chúng , nhằm ngay tới sự đánh thức sức mạnh mù quáng của nó, “biến khổ đau thành hành động”, biến biển nước mắt của chúng sinh thành sức mạnh đập phá.

 

Đặt chân tới Hải Phòng, Khắc gặp vô vàn khó khăn khi phong trào cách mạng bị đánh phá tơi bời. Cơ sở cách mạng đầu tiên Khắc được giới thiệu móc nối là anh trí thức Tuyển.

 

Chưa đọc tiếp, cũng có thể đoán chàng “trí thức tiểu tư sản” này gặp thoái trào sẽ dao động, từ bỏ hàng ngũ cách mạng làm một anh “trí thức trùm chăn”. Đó là “tính giai cấp” quy định tính cách nhân vật mà.

 

Quả nhiên Khắc tìm tới Tuyển thì anh ta lại vờ vịt :

 

”Ông có việc gì đấy ạ…”..

 

Sau cùng anh ta huỵch toẹt :

 

Anh cũng hiểu …lòng tôi vẫn trước sau như một …nhưng cảnh nhà tôi anh thấy đấy , còn năm đứa con nhỏ, tôi không thể như các anh được…”

 

Đúng như bác Mao nói :” trí thức không bằng cục phân”, nhất trí thức tiểu tư sản hay dao động, sợ thay đổi, sợ khó sợ khổ…Nguyễn Đình Thi quả đã vẽ chân dung anh trí thức Tuyển đúng hệt với sự phân tích giai cấp của Đảng đối với loại nhân vật này.


 

Trong lúc cách mạng khó khăn, mấy anh tiểu tư sản đã chạy làng , đảng chỉ tìm được chỗ dựa ở công nhân thôi.

 

 Nhân vật thứ hai Khắc được xứ uỷ cho móc nối là chị Gái, công nhân xi măng . Đã là công nhân thì không thể có chuyện dao động, ngại khó, ngại nguy hiểm . Quả nhiên Khắc tới, chị Gái mừng lắm, bố trí nơi ở an toàn cho anh và hẹn :

Tôi đã báo tin anh về cho các đồng chí ở xi măng rồi . Các anh ấy mừng lắm và muốn gặp anh ngay…”

 

Thế là như cá trở lại nước, đồng chí phái viên xứ uỷ đã tìm được cơ sở đảng và bắt tay vào hành động. Lực lượng trung kiên của Đảng còn lại gồm toàn công nhân. Trí thức tiểu tư sản đố anh nào chen vào được . Đó không phải thực tế như vậy mà chính là “thực tại trong tiểu thuyết “ bị đòi hỏi phải như thế. Giữa cái “ đang là” và cái “phải là” , tất nhiên ông nhà văn chọn cái “phải là” thì mới thể hiện được tính đảng và tính giai cấp .

 

Uốn nắn “thực tại ” theo quy luật vận động của “cuộc cách mạng vô sản”, Nguyễn Đình Thi cố gán ghép “động lực cách mạng Việt Nam” cho mấy anh thợ xi măng, thợ mỏ thực ra là sai bét. 


Giai cấp công nhân Việt Nam ốm yếu ra sao, có thực sự hợp thành một giai cấp như định nghĩa kinh điển của Mác không, nhà lý luận mác xít Trần văn Giàu đã chỉ ra rất rõ trong công trình nghiên cứu của ông. Sự thực, lực lượng xách động và tổ chức quần chúng nổi dậy mùa Thu năm 45 phần lớn là trí thức tiểu tư sản hoặc trí thức quan lại đã bị chói loà bởi “thời cơ giải phóng dân tộc” và “sổ tay hướng dẫn làm cách mạng” được các học viên Đại học Phương Đông từ Liên xô đất nước của đồng chí Xít-ta-lin vĩ đại mang về làm cẩm nang hành động chứ chẳng phải do sức mạnh tự thân, “quật khởi” của giai cấp công nhân Hải Phòng, Hòn Gay .

 

Nhân vật điển hình cho lãnh đạo có rồi, vậy còn quần chúng cách mạng ? 

Theo đúng bài bản “ giai cấp công nhân hình thành phần lớn là do nông dân bị phong kiến bóc lột, bần cùng hoá phải lên thành phố kiếm sống mà trở thành công nhân, đội ngũ tiên phong của cách mạng..”, Nguyễn Đình Thi cũng đưa ra một nhân vật đúng khuôn mẫu như vậy. Đó là anh nông dân tên Côi, sống ở quê rất nghèo, yêu chị Quế, gái goá . Anh Côi phải đi phu 3 tháng rồi bỏ về Hải Phòng kiếm sống. Khi đã có một món tiền rồi, Côi trở về làng cưới chị Quế và nếu diễn tiến tiểu thuyết y như thế thì làm gì có anh Côi sau này thành cán bộ hoạt động trên thành phố. Chính vì vậy nhà văn đã phải cho chị Quế…chết đi bằng nguyên nhân ngớ ngẩn là đi mò cua giẫm mảnh sành về ốm mà chết. Vậy là anh Côi không còn cớ gì ở lại quê nữa, phải lên thành phố thành công nhân cách mạng thôi.

 

“Quế thì đã chết rồi. Thôi, Côi không thể ở lại đây được nữa. Côi nhớ lại bao nhiêu chuyện anh đã thấy ở Hải Phòng , những chuyện làm cho anh và Mầm nhiều đêm nằm rì rầm bàn với nhau không sao ngủ được. Chưa biết phải đi đâu , nhưng Côi phải đi thôi . Đi để tìm một cái gì , chưa biết, nhưng hình như phải tìm thấy một cái gì , Côi mới sống được …”

 

Cái gì – đó chính là cách mạng. Là cái ông nhà văn dụng công dàn dựng để tất cả những ai nghèo khổ, nhưng ai bị áp bức trên thế gian này, đều sẽ gặp nó trên đường đời.

 

Tính chân thực, tiêu chuẩn hàng đầu của nghệ thuật đã bị Nguyễn Đình Thi gạt qua bên để xây dựng cho được bức tranh hoành tráng về phong trào cộng sản ở Việt Nam theo một quy tắc nghệ thuật vị chính trị, dẫn tới một hiện thực phi hiện thực. Chính cái sai phạm chết người đó đã làm Nguyễn Đình Thi thật uổng công biết chừng nào khi vắt tâm não lên trên hai ngàn trang tiểu thuyết mà giá trị của nó chẳng được bao nhiêu.

 

Xưa nay người ta vẫn cho rằng Nguyễn Đình Thi là “đứa con Hà Nội” bởi những tác phẩm ông viết về cái “quê hương tinh thần” của trí thức Bắc kỳ này. Ngày nay, mở đầu cuộc họp của các “Hội đồng hương Hà Nội” ở Sàigòn và các thành phố lớn phía Nam, người ta thường đứng cả dậy đồng thanh cất tiếng hát :” Đây hồ Gươm, Hồng hà, hồ Tây…”. “Bài ca người Hà Nội “ của Nguyễn Đình Thi từ lâu đã trở thành bài hát chính thức của các hội đồng hương này.

 

Nhưng đó chỉ là trong âm nhạc hay chính xác hơn trong duy nhất một bài hát. Tiếc thay trong văn chương, hay hẹp hơn, trong tiểu thuyết Vỡ bờ, mặc dầu đổ rất nhiều công sức viết về Hà Nội những năm 1940-45, Hà Nội của những “Hanoiennes”, của Thạch Lam trong “ Hà Nội, 36 phố phường ”, của Vũ Bằng trong “ “Thương nhớ mười hai”…; Nguyễn Đình Thi chỉ dựng được một Hà Nội méo mó bởi thiên kiến chính trị, nhìn đâu cũng thấy sự “phân chia giai cấp”, sự hằn thù thực dân , ý thức đạp đổ tiến lên làm cách mạng…

 

Đọc những chương Nguyễn Đình Thi viết về Hà Nội, người ta nhận thấy ông đã tự giam mình trong những chuẩn mực rất thực dụng của cách mạng, tự ngăn mình không tới được những phong vị đặc trưng rất Hà Nội trong văn hoá, trong cái đẹp thuần khiết; tự biến mình thành một kẻ tục tử chối từ những hương sắc tế vi, vẻ lung linh mà đất kinh kỳ chỉ giành cho những đứa con đích thực của nó như Bùi Xuân Phái trong “phố Phái”, Hoàng Dương , Đoàn Chuẩn, Hoàng Giác …trong những ca khúc “rất Hà Nội.”

 

“ Một tối thứ bảy, nhà hát Tây có buổi biếu diễn long trọng của nữ sinh các trường học ở Hà Nội…” và Nguyễn Đình Thi đã nhìn “những tà áo dài trắng”, những “dáng kiều thơm” không phải vẻ đẹp của họ mà ở…thành phần xuất thân :

 

” Về phía các nữ sinh người Nam thì ở đây cũng đã kén chọn các bậc hoa khôi trong hàng tiểu thư , lệnh ái các quan tuần , quan phủ hoặc các công thương gia , thượng lưu trí thức…”

 

Và ông dè bỉu :

 

Các nhà phê bình nghệ thuật trên mấy tờ báo Curiê hoặc Vôlônggiê cũng như Đông Pháp hay Trung bắc lại bàn nhiều về cuộc thi tài giữa hai trường phái nhạc và múa ở đất Hà thành văn vật : một bên là trường phái của vợ chồng giáo sư Rôbe dạy trường lytxê và bên kia là trường phái của trung tá Phécnăng chỉ huy đội kèn lính khố xanh và giáo sư nhạc trường nữ học An Nam…”

 

Nhà hát lớn thành phố Hà Nội được NĐT mô tả không kém “ riễu cợt ” vì nó là sản phẩm của “thực dân Pháp” :

Cái nhà hát làm theo kiểu thế kỷ 19 ở Pháp, đèn điện thắp sáng choang. Từ ngoài cửa chính vào , đã trải thảm đỏ cho đến tận cầu thang lên tầng giữa . Một xe ô tô đỗ sịch, cửa mở ra , lại có một ông Tây áo đen , nơ đen , một bà đầm mặc váy loà xoà , bước xuống và khoác tay nhau leo lên các bậc thềm , giữa sự chú ý của mọi người…” . 


Những ông tây , bà đầm này, sang thời hiện đại , ngay cả lúc sinh thời Nguyễn Đình Thi đã lại bỏ tiền chỉnh trang Nhà Hát lớn như một công trình văn hoá, một kỷ niệm của nền văn minh Pháp mang tới đất kinh kỳ vào thời người Hà Nội còn chưa nghe nói tới chủ nghĩa Mác và nước Liên xô thành trì của cách mạng thế giới cũng chưa ra đời. Tiếc thay cho ông nhà văn, Liên xô đã tan từ lâu mà cái Nhà Hát lớn thành phố Hà Nội do thực dân Pháp dựng nên, vẫn còn lại mãi.

 

Thế còn “ Khách đi xem hôm nay toàn là các nhà quý phái, bậc thượng lưu của đất Hà Nội “ thì ra sao ?

 

Họ là “Một bà mặc áo nhung đỏ tóc uốn quăn, mặt phấn trắng như bột , đang cười cười và nói tiếng Pháp liến láu, đi sóng đôi với một ông tây to béo , râu mép đen rậm bước lên cầu thang. À…madam Ngọc Oanh đi với ông Giám đốc học chính Đông Dương . Ai không biết rằng bà Ngọc Oanh, bà đốc trường nữ học An Nam. Bạn của bà toàn là các quan tây cả. Đấy , như hôm nay , người An Nam có ai được lên tầng giữa đâu , vậy mà bà vẫn đàng hoàng được mời lên trên ấy.Con mụ có lẽ đã ngủ với gần hết các vị nguyên thủ Bắc kỳ . Lão thống sứ Satiền, nhân tình của mụ, mới về tây có hơn một tháng , bữa nay đã thấy mađam đi với lão này rồi…”

 

Oh Mon Dieu, lậy đức Mẹ Đồng Trinh, một phụ nữ ở cương vị cao quý là hiệu trưởng trường nữ học Hà Nội như trường Trưng Vương, trường Thanh Quan …mà lại phải mang thân đi ngủ với đủ các ông tây thì thử hỏi ở những công sở khác, các quý bà quý cô thời đó có còn ai không phải là điếm ? 

Chẳng hiểu Nguyễn Đình Thi đã lấy nguyên mẫu ở đâu để đẻ ra cái nhân vật “bà đốc trường nữ học An Nam Ngọc Oanh “ này hay chỉ là sự vu cáo bỉ ổi và trắng trợn, sản phẩm của “ con quái thú “ có tên là “tưởng tượng” được nuôi dưỡng bằng lòng căm thù “thực dân Pháp” và ghen ghét trí thức thượng lưu Hà Nội ?


 

Trong đám người đổ tới Nhà hát lớn xem nữ sinh biểu diễn toàn là các “quan tây” với “ các quan ta , áo gấm dài , khăn xếp, các quan bà tuy cao tuổi nhưng đều đánh phấn trắng lốp. Tất nhiên toàn là bọn hút máu mủ dân như “gia đình Nghị Khanh, mụ nghị, mụ tuần Vi, cậu tú Tường, cậu Cử Phát, đủ bộ…” và vợ chồng huyện Môn, được Nguyễn Đình Thi dụng công mô tả nhất . Đưa vợ đi coi hát ở Nhà hát lớn mà quan huyện trẻ, tây học này cứ hậm hực :

 

Giả thử Phượng chiều lão ta một lần đi nữa cũng có mất mát gì…Sao en ngu thế . Nói thế nào cũng không nghe. En ăn cơm của chồng thì cũng phải giúp chồng chứ. Ông huyện Môn cười nhạt. Chẳng qua là vô ơn bạc nghĩa, đồ bạc…bạc…”.

 

Quả thực cái thuật ngữ “bôi đen xã hội” mới xuất hiện thời Nhân văn Giai Phẩm và những năm về sau đã được Nguyễn Đình Thi sử dụng không phải như công cụ phản kháng của các nhà văn với thực tại đang diễn ra mà chính là để hạ thấp xã hội Việt Nam thời “phong kiến - đế quốc” một cách “xuất sắc”.

 

Thế rồi buổi biểu diễn của nữ sinh Hà Nội tại Nhà hát lớn cũng bắt đầu :’Có hai đoàn thiếu nữ Pháp và Nam , các cô gái Pháp mặc váy trắng như bông tuyết, các cô gái nam cũng áo dài trắng, quần trắng . Tất cả đám bông hoa biết nói ấy đã cất tiếng lanh lảnh hát bài Macxâye…” .

 

 Cái thứ nhãn quan nhìn đâu thấy …”chính trị” khổ vậy. Nó làm cho nhà văn chẳng còn nhận ra vẻ hồn nhiên, tươi trẻ, giọng ca thánh thót của các cô gái Hà Nội , mà chỉ nhăm nhăm bôi bác “đám các quan ông, quan bà, các nhà trưởng giả ngồi xem chỉ nghe thấy tính tinh nhí nha nhi nhô, không hiểu gì , nhưng thấy hai cô đánh đàn mặc đẹp thế và uốn các ngón tay trắng muốt cứ cong lên cong xuống như múa trên cái đàn đắt tiền thì hẳn là đàn phải hay lắm…” .

 

Rồi tới màn múa :

 

Các cô mặc váy ngắn cũn cỡn và mỏng tanh, nom thấy thân hình lồ lộ, dón đầu ngón chân chạy đi chạy lại , ngửa người ra uốn éo…”

 

Thì đúng là một cái nhìn khắt khe, đe nẹt của một anh cán bộ văn hoá cấp xã chứ không còn là của một nhà văn lớn với tâm hồn rộng mở đón nhận mọi màu sắc trần gian…

 

Thế còn hình tượng “tiểu thư Hà Nội” - những “dáng kiều thơm”, những “đôi mắt huyền”, “những thiếu nữ buồn không nói”…đã được Nguyễn Đình Thi khắc hoạ như thế nào ?

 

Trong cả cuốn tiểu thuyết, khi viết về loại nhân vật loại này, ngòi bút của nhà văn dường như được “giải toả” khỏi sự lên gân cốt, sự bốc phét trong những trang viết về những nhà cách mạng và quần chúng cách mạng để khoan khoái, thích thú đi sâu vào cái xã hội “xanh xanh đỏ đỏ” tiểu tư sản mà ông phải lên án, cải tạo nó nhưng trong bụng lại ngầm thích thú nó.

 

Phượng đến trước tấm gương lớn . Ngực còn thở mạnh . Phượng đứng ngắm nghía cái cái dáng người trong gương . nàng giơ cánh tay tròn lẳn lên và nghiêng người nhìn những đường cong, rồi bỗng lột cái áo nịt , xem lại ngực của mình. Đôi vú tròn và rắn chắc như của một cô gái mười tám , đôi mươi , người Phượng vẫn trẻ nguyên như hồi chưa chồng, không ai có thể bảo cái tấm thân trong gương kia hai mươi sáu tuổi. …”

 

Ông nhà văn có vẻ thích thú cái giấc ngủ nướng của người đàn bà đẹp đến độ mô tả nó thật tỉ mỉ :

 

Đã trưa lắm rồi thì phải. Qua cửa sổ , ánh sáng như nhức nhối vì không được ùa vào . Phượng cố nằm thêm mấy phút nữa, chăn và gối êm vuốt ve vào da thịt người đàn bà trẻ thoáng rạo rực và tự cười mình. Mình hư lắm, Phượng tự bảo…”

 

Trong đời tình ái của Phượng ít ra là có 3 người đàn ông.

 

Người trước hết là chồng của Phượng, huyện Môn, lấy nhau vì…chàng giàu.

 

Người thứ hai là “người yêu đầu đời”, hoạ sĩ Tư, chia tay nhau vì…chàng nghèo, cả đời không chịu vẽ tranh đàn bà đẹp để bán “Người mẫu của Tư là những em bé ở góc phố, là một người đàn bà bán chuối…bà mẹ bác thợ giặt…”,  ao ước “ vẽ được những bức tranh lớn về đời sống trên sông Hồng Hà “ ( hẳn nhà văn được gợi ý bởi hoạ sĩ Nga Reepin trong tranh lớn “Người kéo thuyền trên sông Vonga ) sau này chắc chắn sẽ thoát ly làm cách mạng.

 

Người thứ ba là hoạ sĩ Thanh Tùng – hoạ sĩ của tầng lớp trưởng giả, “ hầu hết là vẽ những người đàn bà , những thiếu nữ, e lệ, mơ màng, mắt một mí dài và nhỏ kiểu “phương đông” đang xoã tóc ngồi đọc sách chữ nho hoặc đan áo bên một khung cửa sổ tròn hoặc bên một lọ hoa…:” . Tất nhiên tranh của Thanh Tùng bán chạy ào ào, chàng trở nên giàu có, sống sang trọng và chính cái đó đã hút Phượng nhào tới với chàng như con thiêu thân, chỉ trong khoảnh khắc đã ngã vào tay chàng hoạ sĩ trưởng giả cắm sừng lên đầu chồng.

 

Tiểu thư Hà Nội dưới cái nhìn “thiên kiến giai cấp” của Nguyễn Đình Thi trở nên hết sức tầm thường, hám của, dâm đãng, thiếu ý thức làm vợ . Đó là cái nhìn hẹp hòi của một anh chàng nghèo hèn , sống trốn lánh bất hợp pháp vì hoạt động cách mạng , đứng ngoài vỉa hè mà nhìn vào các gia đình gia giáo nên không tránh khỏi tức tối, ghen ghét. Sự thực, những tà áo trắng nữ sinh Hà Nội sống hồn nhiên, trong trắng và tử tế hơn nhiều những gì Nguyễn Đình Thi dụng công viết ra.

 

Như thế liệu ông có đáng là đứa con yêu của người Hà Nội như nhiều người tâng bốc ?

 

Nữ sinh thì như thế, còn các thày cũng được ông nhà văn mô tả chẳng ra cái hồn gì. Trong trường có nhiều học sinh nhặt được truyền đơn của cộng sản và dấu trong người . Viên đốc học người Pháp bắt các thày đi khám :

 

Mấy ông giáo , mặt như chàm đổ đi làm việc của những tên mật thám. Phần đông họ khám qua quýt cho xong chuyện , nhưng cũng có một hai người bắt học trò cởi áo rũ túi cho lão đôc Tây nhìn thấy sự mẫn cán của những tên đầy tớ trung thành…”

 

Các thày An Nam đã “hèn” đến thế, tất nhiên các viên chức Pháp phải hung hăng tàn bạo.

 

Viên giám thị xấn xổ chạy xuống và lồng tới chỗ đám đông. Thấy một cậu học trò tay còn cầm tời giấy, y quát bằng tiếng Pháp :” Cái gì đây ? Mày cầm cái gì đây ? – Một cái tát mạnh làm cậu bé chúi đi. “Tao sẽ đuổi mày ra khỏi trường nghe không ?”…Viên giám thị vẫn mặt đỏ gay , giẫm chân và hoa tay theo đám học trò :” Lũ ăn cắp . Tao sẽ đuổi hết chúng mày ra khỏi đây. Voay-u…”

 

“ Bỗng có tiếng tát đôp đốp . Trong lúc mọi nguời chú ý cả vào cuộc khám thì viên đốc Tây đã ra đứng đằng sau các hàng xem xét và bắt được một học sinh năm thứ ba đang móc túi vứt đi một tờ truyền đơn. Y kéo tai đứa nhỏ lôi đi sênh sệch…”

 

Hiệu trưởng và giám thị kiểu này chắc không phải ở các trường Albert Sarraut, Puginier, Sainte Marie…tại Hà Nội thời đó mà chắc là ở…Nam Vang nơi ông nhà văn đã sinh ra và lớn lên chăng ?


 

Trong giới nghệ sĩ Hà Nội, Nguyễn Đình Thi đưa ra hai nhân vật khá độc đáo. Một chàng nhạc sĩ tên Toàn không rõ vì sao mang tâm trạng :

 

“ Tôi sống trên đất nước tôi mà vẫn là người không có Tổ Quốc . Cho đến nỗi trong âm nhạc, tôi cũng không có quê hương …”

 

“Lưu đầy và quê nhà” là đề tài lớn cả chục năm sau nhà văn Pháp Albert Camus mới đề cập tới, nhưng “ lưu vong ngay trên Tổ quốc mình” lại được ông nhà văn cài vào lời lẽ nhạc sĩ Toàn mà không dẫn dắt từ cảnh ngộ nào đưa tới khiến nhân vật cứ như “nhảy dù “ vào truyện để phát ngôn cho tác giả về nghệ thuật Việt Nam :

 

“ Hàng ngày tôi đánh những bản đàn rất hay , nhưng khong có bản đàn nào mang tâm hồn của quê hương tôi . Tôi muốn viết ra những bản nhạc Việt Nam , nhưng từ ý muốn đến sự thực còn cách xa nhau xa quá. Và trong việc làm này , tôi còn quá lẻ loi, người xung quanh , bạn bè tôi không khuyến khiách mà lại dèm pha tôi nữa. Bao giờ có được một nền nhạc mới của dân tộc tôi…”

 

Một nền nhạc mới” của dân tộc theo ông Nguyễn Đình Thi chắc phải chờ đến sau cách mạng tháng Tám mà thực ra ngay từ 1937 Nguyễn Văn Tuyên đã có “Kiếp hoa” rất Việt Nam, rồi sau đó Nguyễn Văn Thương, Đặng Thế Phhong, Nguyễn Xuât Khoát …đã sáng tác những ca khúc mới rất dân tộc, đã nhanh chóng đi vào và ở lại trong tâm hồn người Việt , có tuổi thọ và miền đất sống không một bài ca cách mạng nào sau này sánh nổi.Tới đây phải mở ngoặc giá như đảng cộng sản cướp được chính quyền từ năm 1930 thì chắc chắn chúng ta không có nhạc tiền chiến, không có "con thuyền không bến", "Giọt mưa thu", "Đêm đông"....May thay, mãi tới 1945 cách mạng mới thành công và mãi năm 1950 văn nghệ Diên An mới nhập khẩu được vào VN để biến văn học nghệ thuật thành một thứ sản phẩm của...công, nông, binh.

 

Chàng nhạc sĩ tên Toàn gặp nhà báo già người Pháp viết báo Tương lai Bắc kỳ, đám người làm trong tiệm rượu thường gọi là “Tây quăng”. Ông Tây này gặp được nhạc sĩ Toàn, chẳng hiểu sao lên cơn “chửi nước Pháp” tàn cơn giá lạnh :

 

” Tất cả tụi chúng nó ( Tây quăng khoát tay chỉ những cái ghế không có người ngồi trong tiệm rượu ) , lúc ấy , chúng nó ở đâu , hà, tôi hỏi anh , bấy giờ chúng nó ở đâu ? …Anh tưởng tôi không thể ăn cắp , buôn culi cao su hay là xin cắm đất làm chủ đồn điền như chúng nó à ? Ai da da…Tong, nước Pháp tong rồi, chúng tôi ở đây cũng tong. Chúng tôi là một nước già rồi , xuống dốc rồi, chúng tôi sướng quá, giàu quá cho nên không thể đánh nhau được…”

 

Cái lối nhìn nước Pháp “tong “ rồi, “xuống dốc “ rồi …chính là nằm trong “giả thuyết mác xít” về sự giãy chết của chủ nghĩa tư bản. Chỉ tiếc Nguyễn Đình Thi không còn sống tới bây giờ để chứng kiến nước Pháp đã "xuống dốc” tới đâu ?

 

Nhạc sĩ Toàn còn một cô bạn nhạc sĩ người Nga Nina lưu lạc từ Nga sang Pháp rồi sang Việt Nam. Cùng cảnh nghèo, cùng kéo đàn trong một tiệm rượu , Toàn và Nina từ tình bạn dần dà dẫn tới tình yêu . Tìm được một nửa đích thực của mình, lẽ ra hai người có thể tạo dựng hạnh phúc chung một sự nghiệp, chung một mái nhà, tiếc thay cái “nhân sinh quan cách mạng” của ông nhà văn không để yên cho người ta sống, cho người ta hưởng hạnh phúc lứa đôi, ông “thổi” vào lòng cô Nina “ngọn lửa của lòng yêu nước” cháy đùng đùng đến độ cô từ bỏ tình yêu, liều mạng “ tìm về Tổ Quốc:

 

“ Không biết tôi có thể được sống mà về thấy lại mảnh đất thiêng liêng của tôi không ? “ .

 

Và hạnh phúc của tình yêu chẳng hiểu sao lại chịu thua cái mong ước “cứ nghĩ là một ngày tôi sẽ lại đưọc đặt chân lên đát Nga, được cúi xuông hôn mảnh đất quê hương thế là tôi lại thấy như cái cây khô đang sống lại khi mùa xuân đến…”.

 

Lòng yêu nước tác giả gán cho cô gái Nga ghê gớm chưa ? Chẳng hiểu sao cái nhà cô Nina này đang yêu và được yêu mà lại như cái cây khô và phải nhờ tới lòng yêu nước mới sống lại. Nhưng liệu cô có biết rằng đất nước Nga lúc đó đang rên xiết dưới chế độ độc tài Staline đã giết chết biết bao nhiêu là văn nghệ sĩ như cô không ? Điều này ông nhà văn biết rõ ; có điều ông phải dấu không cho nhân vật của ông biết để sự tìm về Tổ quốc của cô được hợp lý , nếu không , người ta cười ông bốc phét…

 

Qua những gì mà ông NĐT mô tả giới “thượng lưu trí thức Hà Nội”, người ta có thể thấy những người này khó mà “giác ngộ tư tưởng” đi theo cách mạng. Bởi thế , ông cán bộ cộng sản Khắc chỉ có thể rọi ánh sáng của Đảng vào đám dân lao động vốn dĩ chỉ thiết cốt với miếng cơm manh áo hàng ngày.

 

“Họ từ các làng mạc , các xóm chài chung quanh ven sông, các ngõ phố khu Gia Lạc viên , Hạ Đoan, Máy Tơ, ở một góc ngoại thành lam lũ của Hải Phòng, đêm nay từng nhóm nhỏ, nhóm nọ không biết nhóm kia, nhưng theo một đường dây chỉ có họ biết , cùng kéo nhau ra đây để họp “mét tinh”.

 

Xưa nay sách động quần chúng xuống đường làm cách mạng nhất trong lúc thoái trào, mật thám tăng cường khủng bố , người cán bộ tuyên truyền thường khoét sâu vào những thiệt thòi, bất công gắn trực tiếp với đời sống hàng ngày dễ thấy – ở đây là chuyên tăng ca, tăng kíp, lương thấp, quỵt lương…để khơi gợi lòng bất mãn, căm tức mà vùng lên.

 

Ông cán bộ Khắc không làm được thế , chắc ông chưa đi sâu đi sát vào đời sống công nhân, ông chỉ nói chuyện ngoài xã hội

 

.”Khắc nói về sưu cao thuế nặng…Ngoài ra , tụi Tây cho bọn tay sai đeo cái mặt nạ “ Pháp Việt bác ái hội” bày ra các chợ phiên, chụp ảnh , đá bóng, lạc quyên ở khắp mọi nơi để làm tiền nhân dân ta…” .

 

Rồi ông lại tố cáo tội ác của Pháp với người cách mạng :

 

“Tụi đế quốc Pháp lùng bắt những chiến sĩ cách mạng , chúng nó cấm hết sách báo bênh vực quyền lợi cho nhân dân , chúng nó bắt giải tán các hội ái hữu lao động để giật lại từng quyền tự do nhỏ nhất mà chúng phải nhả ra khi trước…”

 

Tuyên truyền vận động kiểu này là “đánh chưa trúng vào tâm tư nguyện vọng quần chúng”, bởi lẽ những chuyện “chợ phiên, đá banh, lùng bắt chiến sĩ cách mạng, cấm sách báo…” đâu phải là chuyện thiết cốt sinh tử của những người lao động đang ngồi nghe ông cán bộ diễn thuyết.

 

Sau cùng , chưa biết những người nghe đã “thấm nhuần” tới đâu, ông cán bộ Khắc đã vội vàng hô hào :

 

“Không tranh đấu thì chết. Tranh đấu thì may ra mới sống được. Nếu chúng ta đoàn kết , tổ chức nhau lại thì tranh đấu được . Chúng ta cùng cảnh ngộ , người này tranh đấu thì người kia ủng hộ , xưởng này tranh đấu thì xưởng khác ủng hộ, làng này tranh đấu thì làng khác ủng hộ…”

 

Ấy thế, cứ hô hào “tranh đấu”,”đoàn kết” chung chung vậy thì rồi quần chúng biết xoay xở ra sao ? “Đấu tranh với ai ? Đòi cái gì ? Đoàn kết thế nào ?…” – toàn những câu hỏi bức thiết chưa được trả lời mà đã kêu gọi theo kiểu “vô sản thế giới liên hiệp lại”.

 

“ Đừng có để cho tụi đế quốc Pháp nó phỉnh phờ , lừa dối, nhồi sọ mình mãi. Đứng có giúp đỡ cho nó một người lính nào , một đồng xu nào . Rồi đây , khi nào thời cơ đến , thì nhân dân ta sẽ vùng lên , quật đổ chúng nó xuống , giải phóng cho đất nước mình giành lại chính quyền về tay mình không làm nô lệ nữa…Ngày ấy rồi sẽ đến…”

Không hiểu trong thực tế những người cộng sản vận động quần chúng ra , nhưng cái kiểu hô hào “chính trị suông “ như Khắc thật khó có người nghe theo ông :” Anh chị em cố đi tìm Đảng , chỗ nào nghe có Đảng thì tìm đến…”. Trong thực tế, khi đảng hứa hẹn nhiều quyền lợi người ta mới tìm tới, còn mới trứng nước, đầy những hiểm nguy thế này thì “ đảng phải tìm tới dân “ chứ.

 

Với “cán bộ” trong “cơ quan” như chị Gái ( thường được nói tắt là xê quy), Khắc thường xuyên dậy chị “ học đọc, học viết, 4 phép tính” và huấn luyện chính trị :

 

“ Và cứ những tối chị đi giao thông về cơ quan, thì anh lại giảng chính trị cho chị. Học ra vườn tối, có khi ra một cái gò giữa đồng , Khắc ngồi trong tối nói lầm rầm cho chị nghe. Anh nói về chủ nghĩa cộng sản , về Mác Lênin, về chủ nghĩa duy vật , thặng dư giá trị về những nguyên tắc tư tưởng và tổ chức của Đảng…”


 

Trời đất , những lý luận cao siêu này tới ngày nay cũng khó nhét vào đầu một ông bí thư huyện uỷ huống hồ chị đàn bà mù chữ, kiếm sống bằng chân tay.

 

“ Cũng có buổi, anh kể chuyện Liên bang xô viết , cả người kể lẫn người nghe đều thả trí tưởng tượng bay tới cái đất nước xa xôi mà họ chưa từng thấy bao giờ nhưng lúc này lại gần gũi nhất với mơ ước của họ…”

 

Vẽ ra “thiên đàng hạ giới” ở Liên xô xa xôi làm “bánh vẽ” kich động người dân làm cách mạng là một thủ đoạn chính trị” quen thuộc của những người cộng sản từ khi còn trong bóng tối. Và tất nhiên nhắm mắt tin theo dễ dàng chỉ những người “thất học”, đầu óc đơn giản như chị Gái , còn trí thức thành phố thì khó. Quả nhiên “Qua mấy tháng , Khắc định tìm một người giao thông thay chị Gái và giao cho chị nắm hẳn mấy huyện ngoại thành rồi sẽ đưa chị vào thành uỷ…”

 

Nhà văn Nguyễn Đình Thi quả đã dựng nên một chân dung cán bộ vượt cả những hình dung thông thường. Hoá ra để trở thành cán bộ lãnh đạo cỡ thành uỷ, một chị nhà quê thất học chỉ cần tối ra vườn tối cán bộ “lầm rầm” giảng chính trị để rồi vài tháng sau đã lãnh đạo cả mấy huyện ngoại hành .

 

Vậy mới biết “chuyên môn “ làm nghề ‘cách mạng chuyên nghiệp” thực ra chẳng có gì ghê gớm, chỉ qua vài tháng nghe gỉ tai là “nghiệp vụ tay nghề” đã thành thạo. Thực ra vốn liếng kiến thức của mấy ông cán bộ chuyên nghiệp như Khắc , Lê, Cảnh…cũng chỉ sơ sài có thế. Bởi lẽ cái nguồn tri thức để bồi bổ cho học vấn của mấy ông quẩn quanh chỉ vài cuốn sách. Dưới đây là gói sách ông Khắc đã chôn ngoài vườn sau nhà, nay nhờ cô em gái đào lên để đưa cho anh cán bộ tên Cảnh :

 

Lênin : Nhà nước và cách mạng – Lênin : Bệnh ấu trĩ của chủ nghĩa cộng sản . Angghen : Ông Đuyrinh làm đảo lộn khoa học. Mác và Angghen : Tuyên ngôn của Đảng cộng sản - Xtalin : Những nguyên lý của chủ nghĩa Lênin- Các Mác : Tư bản – Quyển thứ nhất- Lênin…Hai chiến thuật…”

 

Tất cả kho lý luận chỉ có thế, toàn những lý thuyết xa của mấy ông rậm râu mãi bên kia bán cầu, xa lạ, chẳng dính dáng gì tới mấy bác nhà quê An Nam ốn bị tây đá đít thì cùng lắm chửi thầm trong bụng. Ây thế nhưng nó lại là của báu, sách gối đầu giường của mấy anh cán bộ cộng sản. 

 

Tay anh cán bộ vẫn giở nhanh những cuốn sách giấy đã vàng và còn ẩm hơi đất. Cánh mũi phập phồng hít cái mùi mốc nhạt nhạt phảng phất từ những trang giấy bay lên. Đôi mắt anh to và sáng ngước nhìn Quyên như thầm thốt lên : Sao ở đây lại có cái kho tàng quý như thế này. Đây là ánh sáng mà bao nhiêu người lần mò trong đêm tối đang đi tìm , đây là cơm là áo, đây là thuốc súng sẽ làm nổ cái xã hội tàn ác và nhơ bẩn này cho mọc lên một cuộc đời mới…”

 

Thật đáng lo những cuốn kinh Coran cách mạng cao siêu này làm sao chui được vào đầu mấy bác nông dân An Nam vốn quen ứng xử bằng những kinh nghiệm thực tiễn qua ca dao tục ngữ lưu truyền đời này sang đời kia chứ chẳng phải do những giáo lý trừu tượng . Chẳng hiểu bằng cách nào những người cộng sản có thể “quán triệt” cho những quần chúng thất học như chị Gái, cô An, cái Xoan, anh Côi…hiểu được thế nào là quy luật tất yếu , là thặng dư giá trị , là chiến lược chiến thuật….những khái niệm cao siêu với ngay bản thân các cán bộ .

 

Vậy các nhà cách mạng mác xít Việt Nam có thực học được và thực hiện được lý thuyết của chủ nghĩa Mác – Lênin , hay chỉ vớt được cái váng của nó qua một số tài liệu biên dịch sơ sài hoặc lược thuật đơn giản cho phù hợp với đại chúng.

 

Và thắng lợi của họ liệu có phải là sự toàn thắng của tư tưởng Mác- Lênine hay chỉ là vận dụng “tài tình” các “thủ đoạn chính trị” trong đó bạo lực là phương tiện hàng đầu để giải quyết mọi vấn nạn trên đời bất chấp sinh mạng cả chục triệu con người, tạo nên một bi kịch vĩ đại là tát cạn biển Đông chỉ nhận được về một…giọt nước mắt. Thay vì đánh thắng “hai đế quốc to”, người Thái Lan đã khôn khéo tránh được hai cuộc chiến, và như vậy phải chăng họ kém “vinh quang” hơn người Việt Nam ? Cái ý nghĩa khách quan của “Vỡ bờ” quả thực đã phản lại chính tác giả trong mưu toan dùng nghệ thuật tiểu thuyết làm sai lệch sự thực của lịch sử .

 

Một trong những hoạt động cốt lõi của ông cán bộ Đảng cao cấp Khắc là in ấn và tán phát tài liệu tuyên truyền cộng sản. Nào “bản Tuyên cáo quốc dân “ của thành uỷ Hải phòng trong một đêm đã được rải và dán ở các khu phố nội thành báo tin cho nhân dân biết Đảng vẫn có mặt và kêu gọi chống phát xít , chống chiến tranh đế quốc …” nào “ tờ báo Tia Lửa cơ quan của Đảng cộng sản vùng biên ra số đặc biệt bốn trang , in 700 số , trên trang nhất có vẽ hình Lênin…” rồi “ những tài liệu nhỏ tóm tắt chủ nghĩa Lênin cùng với mấy nghìn truyền đơn bươm bướm…”

 

Cả một khối lượng tài liệu lớn như vậy một mình Khắc làm sao mà xoay xở ?

 

Trước hết ông “tuyên truyền được một anh thợ in tên Lập”. Thế còn xưởng in ? Câu chuyện ông nhà văn đưa ra có thể coi là là một “huyền thoại” theo kiểu “ tay không bắt giặc, biến không thành có, biến khó thành dễ “ quen thuộc của các nhà tuyên truyền cách mạng.

 

Để tìm địa điểm in, Khắc để ý tới ngôi nhà nhỏ của anh thợ cạo tên Kênh. Thoạt đầu “Khắc bắt đầu chú ý đến Kênh vì thấy ở cái hòm thợ cạo, khi mở ra , bên trong nắp có dán một tấm bản đồ thế giới mà chỗ Liên xô lại tô màu đỏ”. Yêu Liên xô vậy chắc phải là người ủng hộ cộng sản, chắc có thể bắt quen làm người “của mình”.

 

Chỉ một câu ca ngợi đất nước Liên xô, anh thợ cạo đã được cách mạng tin ngay và chọn ngôi nhà nhỏ xíu của anh làm Xưởng in bí mật. Cả xưởng chỉ có anh thợ in tên Lập với “hòn đá, hai cái ru lô, mấy hộp mực in và cả một bát chữ…” Người và phương tiện in ấn chỉ có thế mà in ra nào báo, nào sách, nào truyền đơn thì quả thực chỉ những người cộng sản trong tiểu thuyết Nguyễn Đình Thi mới làm nổi. 

 

Các nhà văn cộng sản thường đối lập tình yêu mà họ coi là “hạnh phúc cá nhân” với “ sự nghiệp cách mạng” và kết cuộc chiến sĩ cộng sản bao giờ cũng hy sinh tình yêu chọn lý tưởng cách mạng. Tuy nhiên cái “đạo đức khắc nghiệt” này chỉ có hiệu lực vào những năm đầu đi theo cách mạng, còn vào thời kỳ những năm 1970 Nguyễn Đình Thi viết “ Vỡ bờ”, nếu “ nhăm nhăm gạt bỏ tình riêng mưu hạnh phúc chung” vậy e rằng bị chê là “công thức”, biến người cộng sản thành người máy không tim, bởi vậy ông nhà văn mới sắp xếp cho anh cán bộ cộng sản Khắc trong một lần gặp gỡ An, em Gái đã không cầm được lòng, đã vượt rào đạo đức cách mạng “ăn nằm với cô trong suốt một ngày”. Rủi thay, ngay sau cái ngày tràn trề hạnh phúc đó, Khắc đi gặp một cơ sở cách mạng, bị chỉ điểm và bị bắt.

 

Tất nhiên để bù lại “khuyết điểm sinh hoạt” hủ hoá với em gái cơ sở cách mạng, ông nhà văn phải đề cao hết mức ý chí bất khuất của Khắc trước mọi đòn tra tấn dã man của mật thám Pháp nhằm làm phong phú và sinh động chân dung người anh hùng cộng sản. Đó là thủ pháp đen trắng (“contrast”) thường thấy trong tiểu thuyết hiện thực xã hội chủ nghĩa; khi muốn làm bật tính cách dũng cảm của nhân vật anh hùng, các nhà văn thường cho anh ta mắc tí tí khuyết điểm trong sinh hoạt như “văng tục”, “nhớ mẹ quá trốn về một buổi”….


 

“ Sau hơn chục trận tra tấn chết đi sống lại , Khắc đã yếu quá, không thể đứng lên được . Hai ngón tay cái bị dây cứa gần đứt hết thịt, vào đến tận xương, sưng tấy lên đau buốt suốt ngày đêm…”

 

Bị tan nát thân thể, thập tử nhất sinh vậy nhưng Khắc nhất định không khai nửa lời thì cũng còn có thể chấp nhận là có thật được, nhưng không hiểu sao khi bị khiêng về xà lim, anh vẫn còn đủ sức “giác ngộ tư tưởng’ cho anh “gác ngục trẻ” thì mới là truyện thần kỳ.

 

“Từ hôm đó anh “xì cút “ cứ đến tua gác đêm là không quên mở cửa xà lim cho Khắc ra ngồi thở chừng mười lăm phút, nửa giờ . Những lúc ấy anh ta thường đứng cạnh nói chuyện với Khắc. Anh ta có vẻ suy nghĩ , những lúc nghe Khắc nói về đời sống ở Côn Đảo hoặc kể lại truyện tiểu thuyết “ Người mẹ” của Gorki…”

 

Chẳng hiểu sao mật thám Pháp độc ác vậy mà lại bố trí lính gác xà lim hiền lành thế, và cũng chẳng hiểu sao Khắc bị đánh , tra điện gần chết như vậy vẫn còn đủ sức kể chuyện tiểu thuyết “Người mẹ” của nhà văn Liên xô mới tài. Rồi một anh bạn tù “ tên là Mầm đưa nắm cơm tù vào , Khắc tranh thủ lên lớp :

 

“Anh bây giờ là đi vào con đường cách mạng rồi chứ còn gì nữa. Muốn làm cách mạng thì phải học. Anh học đọc, học viết đi. Nhờ anh em biết chữ bảo cho. Tối nay , lúc nào anh vào đây, tôi nói chuyện về cách mạng cho mà nghe…”

 

Thật cứ như Khắc có phép thần thông, luyện công trị thương tới mức thượng thừa, chỉ trong khoảnh khắc anh đã từ cõi chết trở về, không những hồi phục sức lực, vượt qua đau đớn mà còn kể chuyện, ca hát và cả lên lớp chính trị nứa.

 

Cứ “bốc phét” như thế ông nhà văn quên bẵng đi rằng tính chân thực mới là giá trị hàng đầu của nghệ thuật của tiểu thuyết .

 

Không giống cán bộ cộng sản sau một thời gian tù đầy đều được trở về và còn sống cho tới tận ngày nay với bao đặc quyền đặc lợi, sau khi bị bắt ở Hải Phòng, Khắc được đưa về Hà Nội tỏ rõ khí phách trước quân thù :

 

“Tôi không có gì để nói thêm với ông cả. Ở hàng ngũ cách mạng , cũng có một vài kẻ hèn nhát hoặc phản bội . Nhưng các ông đừng lầm tưởng như vậy là các ông thắng. Chúng tôi là đảng viên cộng sản, chủ nghĩa chúng tôi cho chúng tôi thấy rõ tương lai. Các ông sẽ không còn , nhưng đất nước chúng tôi sẽ độc lập , chủ nghĩa cộng sản sẽ được thực hiện vì đó là mong muốn của hàng triệu người.”

 

và ông đã hy sinh thật anh dũng :

 

“ Lanéc cúi xuống, bấm đèn phin vào mặt Khắc . Trong vệt sáng, hiện rõ những đám máu ộc từ miệng Khắc chảy vòng quanh đầu anh. Máu đỏ sẫm nóng hổi rỏ giọt từ trên sàn gỗ xuống nền xi măng. Khắc đã tắt thở…”

 

Thật tiếc cho những người đã đổ máu hy sinh cho lý tưởng như Khắc, bởi lẽ nửa thế kỷ sau, “đất nước quả có độc lập” nhưng “chủ nghĩa cộng sản “ thì vĩnh viễn chẳng bao giờ được thực hiện và buồn thay sự rũ ra khỏi nó mới chính là mong muốn của hàng triệu người. Vào những năm 1990 , khi cả khối xã hội chủ nghĩa Liên xô và Đông Aâu đã sụp đổ, “cộng sản chỉ còn như một thiên đàng đã mất” trong con mắt mọi người, kể cả Nguyễn Đình Thi, vậy mà ông nhà văn còn viết được những dòng “tin tưởng” như trên thì quả thực ông tự lừa dối chính ông và lừa dối cả mọi người.

 

Cái còn để lại sau khi Khắc chết không phải là gương hy sinh , bất khuất mà chính là …hòn máu của anh trong bụng An - cô người yêu anh đã chung sống chỉ một lần duy nhất trong đời :

 

“ An tự nhiên sờ lên bụng. Một cái gì rất lạ lẫm. An cảm động, rung hết người. Đúng rồi. Đến hôm nay đã quá ngày gần một tháng rồi. An đã có mang…”

 

Sau cái chết của người cộng sản, phong trào cách mạng cũng như nội dung của cuốn tiểu thuyết chùng hẳn xuống, mất hẳn cái mạch liên tục, sôi nổi trước đó. Một phần năm còn lại của cuốn sách chỉ còn diễn tả những nhân vật “quần chúng” mà trước đó vì mải mê tập trung vào nhân vật cán bộ cộng sản, ông nhà văn đã buông lửng chúng.

 

Trước hết là thầy giáo Hội được nói tới khá nhiều ở đầu truyện. Thày giáo Hội giống y chang thầy giáo Thứ trong “Sống Mòn” của Nam Cao . Cũng mòn mỏi trong một trường tư thục rồi bị thất nghiệp vì chiến tranh xảy tới, cũng nặng gánh vợ con trong thời buổi gạo châu củi quế mà rời tấm bảng đen với cục phấn trắng ra chẳng còn biết làm gì :

 

“Hội biết làm gì để nuôi lấy thân mình, chứ đừng nói gì đến nuôi vợ con . Hội lại sắp ăn bám vào Thảo, Thảo đã khổ đến như vậy rồi, mà sẽ còn phải nhịn ăn nhịn mặc nữa và Thảo với cả con Hiền sẽ lại gò lưng xay lúa, giã gạo, sàng sẩy, chắt bóp bán từng bơ cám, từng nải chuối xanh , từng cây kim sợi chỉ để lo lấy bữa cơm bữa cháo…”

 

Tuy nhiên “giáo Hội” của Nguyễn Đình Thi có khá hơn “giáo Thứ” của Nam Cao đôi chút ở chỗ thất nghiệp trở về làng xoay ra…viết văn :

 

“ Thế là ngày ngày anh ngồi trong cái chái đầu nhà , vừa ôm cái tí Vân, vừa viết giấu giếm. À, nếu như viết như các ông Vichto Huygô hay là Tolstôi thì chẳng dám màng, chứ còn như những chuyện “chàng chàng nàng nàng “ lâm li giả dối và chán ngoét đầy dẫy trên báo sách thì làm gì chàng chẳng viết được ?”

 

Hoá ra cái khả năng tiên tri, thấu thị, dự báo của nhà văn Nguyễn Đình Thi thật đáng nể, bởi lẽ cho tới tận bây giờ, thời đại bùng nổ của cách mạng tin học - cái tình trạng ““ lâm li giả dối và chán ngoét đầy dẫy trên báo sách” vẫn còn tiếp diễn dài dài trên cả nước.

 

Nhân vật tiếp theo được nhắc lại là hoạ sĩ Tư vốn là người yêu của cô Phượng đài các, vợ của tri huyện Môn. Nếu như hoạ sĩ Thanh Tùng hái ra tiền bằng những bức tranh thời thượng thì hoạ sĩ Tư cứ nghèo rớt mồng tơi “hàng ngày phải tính từng hào, từng xu và nhịn tất cả mọi thứ làm thế nào giành giật với cuộc sống từng bữa ăn, từng thức vải, hộp màu để vẽ …”. Người còn quan tâm tới Tư chỉ còn có cô gái điếm tên Bích, mua cốm tới cho anh ăn, có nhạc sĩ Toàn, sau khi cô gái Nga Nina bỏ anh ra đi, anh năng tìm tới hoạ sĩ Tư rủ rê :” Tao chịu mày, không còn biết gì đến chuyện gì ngoài cái giá vẽ của mày. Ngoài phố người ta đã nhớn nhác cả lên. Mày không biết chính phủ Pêtanh vừa ký với Mãtuôka ởTokyomột hiệp ước về Đông Dương rồi à ?”Quân đội Nhật bản ở Quảng Tây bây giờ đang đòi vào bắc kỳ ngay. Có thể nổ súng không chừng…”

 

Nghe lời nhạc sĩ Toàn, hoạ sĩ Tư tạm rời cái giá vẽ để lang thang xuống phố . và thế rồi “ Hình ảnh người đàn bà bế con ngồi trên bọc chăn màn với cô gái đeo cái tay nải nâu ở bến xe điện lại hiện lên trước mặt Tư. Anh phải vẽ bức tranh ấy…”. Sau chuyến “đi thực tế” bến xe, bến tàu, nhà ga….Tư bỗng cảm thấy “Một cái gì đây sẽ đến.. Hôm nay Tư đã thấy phía bên kia (quân Pháp) đang đổ nhào và tan rã như thế nào ?”Quân hồi vô phèng…”- những con mắt len lét và hằn học của đám lính bị thương ở Lạng Sơn về . cái cảnh tây đầm chí choé trên con tàu đi Sàigòn. Một cái gì đây sẽ đến…”

 

Một cái gì sẽ đến , tuy nhà văn không nói toạc ra, nhưng ai cũng hiểu ông muốn nói tới…cách mạng. Một cuộc cách mạng “long trời lở đất” đang tới mà ngay đến anh hoạ sĩ suốt ngày ngơ ngẩn với màu với hình cũng đã cảm nhận thấy.

 

Cái thành phần rồi đây sẽ tan rã khi cách mạng nổ ra – tầng lớp quan lại, địa chủ, tư sản, thượng lưu…cũng được tác giả nhắc tới tất cả những “xấu xa, bệnh tật “ của nó. Nào cậu Tường , con trai nghị Khanh, cậu Thúc , con trai chủ đồn điền cưỡng dâm cô thôn nữ tên Thơm; nào cô Nguyệt , con gái nghị Khanh , bị đám con quan đẩy vào buồng , “đánh táp lô” đến mang bầu phải đi nạo, nào nghị Khanh nẫng vợ bé của ông bạn Quảng Lợi…Cả một xã hội bốc mùi xú uế đang như con cá nằm trên thớt chờ cách mạng tới để được hoá kiếp.


 

Hơn 500 trang “phần một” “Vỡ bờ “, Nguyễn Đình Thi đã dàn ra hàng tá nhân vật từ thượng lưu quý tộc, tư sản - địa chủ như nghị Khanh, vợ chồng huyện Môn, Phượng, Hằng, hoạ sĩ Thanh Tùng…tới giới lao động bình dân như giáo Hội, hoạ sĩ nghèo Tư, làm thuê Gái, An…, các cán bộ hoạt động cách mạng Khắc, Lê, Cảnh… Tuy nhiên, ngoài ông cán bộ cộng sản Khắc đã chết do đòn tra tấn của Pháp , hầu như toàn bộ nhân vật vẫn sống hết ngày dài lại đêm thâu , phận số vẫn vậy , chẳng đổi thay, cứ như bị trưng ra đó mà chẳng biết đưa đi đâu đi về đâu .

 

Cho dù xã hội nảy sinh nhiều sự kiện nóng bỏng, nào Nhật Pháp bắn nhau, nào cách mạng bị đánh phá, thoái trào khắp nơi nơi, nào công nông bị bóc lột và sống lầm than… nhưng vẫn chưa biến cố nào rơi vào mỗi cá nhân tạo nên đột biến để đám nhân vật Nguyễn Đình Thi bày la liệt đó có cơ hội trở thành nhân vật của tiểu thuyết. Hay nói rõ hơn, tiểu thuyết đã “đi” được cả 500 trang mà phần lớn nhân vật vẫn “tại vị”, vẫn chưa bị đẩy vào cảnh ngộ để từ đó bật ra tính cách của riêng nó.

 

Cuối phần một, ông cán bộ thành uỷ Khắc hy sinh, vậy ngay đầu phần hai ông nhà văn phải cho người khác thay thế . Người đó chẳng phải nhân vật mới nhảy vào truyện mà chính là đồng chí bí thư xứ uỷ Lê , thủ trưởng cũ của Khắc.

 

Trong hoàn cảnh khắc nghiệt, người đọc chờ đợi tác giả dẫn dắt họ theo chân cán bộ Đảng len lỏi vào dân, thắp lại lòng tin của quần chúng , xây dựng lại các cơ sở …Tiếc thay ông nhà văn tuyệt nhiên không làm được thế. Ông chỉ đưa ra cảnh ông bí thư xứ uỷ Lê liên lạc với anh cán bộ Cảnh để lên lớp chính trị, truyền đạt chủ trương đường lối…lặp lại y chang cảnh Khắc giáo dục chính trị tư tưởng cho chị Gái ngày trước :

 

“ Cảnh ngồi lặng im nghe giảng giải, nhưng rõ ràng sự thu nhận còn khó khăn , nó vấp phải những cách nghĩ , những tình cảm đã ăn sâu vào tâm trí từ lâu . Lê vẫn nói rủ rỉ nhưng giọng anh đã quả quyết :

 

“ Vấn đề bây giờ là tập trung mọi lực lượng đánh tụi phát xít. Đây cậu nghe lời kêu gọi của đồng chí Nguyễn Ái Quốc từ nước ngoài gửi về.”

 

Và tác giả “chơi” luôn nguyên văn một đoạn lời kêu gọi của đồng chí Nguyễn Ái Quốc . Rồi mượn lời “đồng chí Lê”, Nguyễn Đình Thi tranh thủ ca ngợi “bác Hồ” :

 

Tôi có một lần được xem ảnh đồng chí ấy ở Sở mật thám Sàigòn. Lần ấy thằng  Riu đang hỏi cung mình bỗng nó đưa ra một bức ảnh và bảo :” Mày có biết ai đây không ? Nguyễn Ái Quốc lãnh tụ tối cao của chúng mày ở nước ngoài…” Mình mặc kệ nó nói gì thì nói, xem ảnh cái đã. Đồng chí Nguyễn Ái Quốc đội mũ phớt đen, quàng khăn phu la, mình chỉ còn nhớ đồng chí đội mũ mà vẫn rõ trán rất cao và đôi mắt sáng lắm…”

 

Vậy là mọi chủ trương đường lối, mọi niềm tin vào tương lai của cách mạng vẫn chỉ là chuyện trao đổi giữa mấy ông cán bộ cộng sản với nhau, còn việc đưa nó vào quần chúng, biến nó thành sức mạnh cách mạng thì không nhắc tới. Sau khi kể sơ sài việc gây dựng lại phong trào chỉ qua một buổi hội ý giữa hai ông cán bộ xứ uỷ, ông nhà văn trở lại các nhân vật “quần chúng ”.

 

 Gia đình của Khắc sau cùng đã nhận được tin ông hy sinh. Việc đầu tiên là mẹ ông, bà Tú gieo rắc hận thù vào lòng con trẻ – Thu , con gái Khắc mới có 9 tuổi .

 

“ Lúc Quyên ( em gái của Khắc) đã chít miếng vải trắng lên đầu cái Thu, bà Tú kéo đứa cháu vào lòng nói chuyện với nó :

 

“ Thu, năm nay cháu lên chín rồi, cháu nhớ phải để chở bố cháu ba năm cho trọn đao làm con. Thế là bố cháu đi theo ông rồi đấy. Tây nó đày ông cháu chết ở ngoài đảo Côn Lôn , bây giờ lại đánh cháu chết ở trong tù. Nó ác thế đây cháu ạ…”

 

Tất nhiên, khi lớn lên, những đứa trẻ như Thu ngoài việc “khắc cốt ghi xương” hận thù và theo đảng làm cách mạng đến cùng, còn đầu óc đâu suy nghĩ đến những chuyện tốt đẹp khác trong cuộc sống con người ?

 

Dặn dò cháu rồi, bà Tú, mẹ của Khắc , khấn thầm với chồng :

 

Ông ơi ông thế là con nó đã đi theo ông rồi. Tôi đã nuôi thằng Khắc con Quyên nhớn khôn, chúng nó không làm điều gì nhục cho họ nhà ta. Tôi không làm thế nào giữ cho thằng Khắc còn sống được. Nhưng nó chết cũng là vì nước vì dân, không đến nỗi phải hổ thẹn với ai…”

 

Thật đúng bà mẹ Việt Namanh hùng, không lo dựng vợ gả chồng cho con cái, chỉ lo “ không làm gì nhục cho họ nhà ta” với niềm tự hào có con “chết vì nước vì dân”. Hình ảnh người mẹ của Nguyễn Đình Thi cũng chỉ xào xáo lười nhác hình ảnh “người mẹ” của Gorki, “ Người mẹ cầm súng” của Nguyễn Thi và khẩu hiệu “trung hậu, bất khuất, đảm đang” mà Đảng và Nhà nước phong tặng cho các bà mẹ Việt Nam.

 

Tuy thế, tác giả có vẻ sảng khoái dựng nhân vật gần gũi với ông nhất : anh giáo Hội, thất nghiệp quay sang viết văn. Nhưng anh viết gì được khi anh cho rằng :

 

“ Bọn người viết văn bây giờ chẳng qua là một lũ ô trọc cầm bút . Họ cần gì đến văn chương, họ chỉ cần tiền và họ chạy theo mốt, họ ăn cắp của các nhà văn nước ngoài , họ mạ lại những ý nghĩ của người khác để loè người không biết , họ viết quàng xiên những chuyện bịa đặt quái lạ , lấy sự ly kỳ để câu người xem, chứ không biết nhìn vào sự thật hàng ngày, cái sự thật tầm thường nó đáng nói biết bao…”

 

Nguyễn Đình Thi viết những dòng đầy hứng khởi này mà quên béng mất cái “lũ ô trọc cầm bút” ấy đã tạo ra cả một nền văn xuôi rực rỡ với những tên tuổi lớn Ngô tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Nam Cao, Vũ Trọng Phụng…và nhận định này, kỳ lạ thay lại phù hợp với thời hiện tại, thời “ một lũ ô trọc cầm bút” ở Hội nhà văn VN “viết quàng xiên những chuyện bịa đặt ly kỳ câu người xem chứ không biết nhìn vào sự thật hàng ngày…”

 

Rồi ông nhà văn tên Hội lại than thở :

 

Vì ở nước mình , cái anh viết văn còn có giá trị gì nữa ? Còn được đi đến đâu , trông thấy gì, biết gì nữa ? Thân phận như một thằng ăn xin , sống như một con ốc sên chỉ ru rú trong cái vỏ của mình…Hội cho rằng một xã hội mà để cho những nghệ sĩ của nó chết đói là một xã hội đốn mạt , mà một xã hội nuôi nhà văn và nghệ sĩ như ông hoàng thì cũng nát bét…”

 

.Thật chẳng có lời lẽ nào hay hơn, chính xác hơn để chỉ cái đám giặc già – nói theo kiểu Nguyễn Huy Thiệp – ở Hội nhà văn ViệtNam hiện thời ?

 

Mạt sát nghề cầm bút vậy nhưng Hội cũng kỳ cạch viết xong một cuốn tiểu thuyết có tựa “ Những mối tình sông nước”. Và rồi từ đó ông nhà văn xác định ngay được “hướng đi” trong cái nghề kiếm sống bằng chữ nghĩa :” Anh sẽ cứ viết truyện ngắn cho các báo để kiếm vặt mỗi tháng mười lăm đồng và trong khi ấy anh sẽ tiếp tục viết quyển tiểu thuyết thứ hai của anh…”

 

Cái phương châm “lấy ngắn nuôi dài” mà các ông nhà văn ngày nay thường khoe khoang , hoá ra đã có từ thời tiền khởi nghĩa.


 

Sau nhà văn Hội, tác giả giành nhiều trang cho hoạ sĩ Tư. – loại nhân vật Nguyễn Đình Thi “thuộc” hơn cả.

 

Hoạ sĩ Tư có người yêu cũ là tiểu thư hàng Đào - Phượng, bỏ anh lấy quan huyện Môn. Phượng chán chồng, ngoại tình với hoạ sĩ Thanh Tùng, nổi tiếng và giàu sang rồi cũng rũ bỏ vì tính cách thực dụng và rỗng tuếch, rốt cuộc lại muốn với tình xưa là hoạ sĩ Tư.

 

Sửa soạn cho cuộc tái hồi, “Phượng ra đứng trước gương nhìn con người trắng hồng trong ấy. Thân thể nàng vẫn thon lẳn , nhưng bây giờ những đường nét đã dần dần đầy đặn lên hơn, nom càng mềm mại dễ ưa. Phượng quay nghiêng, ngắm đi ngắm lại cái lưng gọn gàng, đôi chân thuôn dài. Con người mình đáng mê quá…” . 

 

Dựng lên pho tượng “vệ nữ” tỉ mỉ thế , Nguyễn Đình Thi bị các nhà phê bình “quốc doanh” Hà Minh Đức , Phan Cự Đệ phê “sa đà vào sự thích thú thân xác”, tuy chưa mang tội “môn đồ Freud” như Vũ Trọng Phụng nhưng cũng bị nhắc nhở “ve vuốt nàng Phượng quá kỹ càng”

Lo “mất lập trường giai cấp” , Nguyễn Đình Thi vội vàng đánh “sụt giá” nàng Phượng bằng cách cho hoạ sĩ Tư thẳng thừng từ chối lời mời “ngọt ngào” của người đẹp.

 

Tư viết cho Phượng, lời lẽ thật “dùi đục” :” Không thể được, Phượng ạ. Bởi vì rồi sau, chúng ta làm thế nào mà sống như cũ được nữa ?” và đòi Phượng phải từ bỏ “giai cấp” của mình “. Vậy là trong tâm tư hoạ sĩ nghèo này đã mầm mống phân biệt giai cấp : hoặc bên này hoặc bên kia. Hễ trưởng giả nhất định không có tình yêu, phải từ bỏ hết tiện nghi, gốc gác, tài sản để trở thành người cùng khổ, người lao động mới mong có được tình yêu cao đẹp. Đọc đoạn viết về gã họa sĩ nghèo lăm le học làm cộng sản này mà...phát tức vì lố bịch.

 

Tất nhiên tiểu thư Phượng đời nào chấp nhận đề nghị ”dở hơi “ thế . Thực chất sự từ chối giai nhân của họa sĩ Tư xem ra là của chính Nguyễn Đình Thi bầy tỏ lập trường giai cấp với Đảng chứ chẳng phải tính cách chàng hoạ sĩ tài hoa , sống giữa Hà Nội . Ông nhà văn cố nhồi vào đầu chàng nghệ sĩ tư tưởng đề cao người nghèo khó, bài bác người có tiền :

 

Thà là một cô gái bán mình vì miếng cơm manh áo để nuôi thân, nuôi gia đình như cô Bích đáng thương …Cái xã hội ngu xuẩn khinh bỉ những con người ấy nhưng lại sụp xuống trước những người có đủ ăn, đủ mặc, không cần phải bán mình mà lại ngày ngày ôm lấy kẻ mà mình không yêu. Rút cuộc cái xã hội này chỉ đòi hỏi người đàn bà bán mình thôi, hoặc là bán mình cho một người độc quyền theo đúng lễ giáo , pháp luật vân vân…hoặc là bán mình một cách rẻ tiền hơn cho nhiều kẻ qua đường…Bao giờ thì người đàn bà mới có thể chỉ sống với người đàn ông vì tình yêu…”

 

Theo lý thuyết Nguyễn Đình Thi thì từ xưa các cụ ta lấy chồng do “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy” hoặc “lấy trước thương sau” cũng đều là …điếm bán mình cả. Đây là hệ quả của tư tưởng “hữu ái giai cấp” quá đà một thời ăn sâu trong tâm tưởng các nhà văn Việt Nam khiến họ nhìn đâu cũng thấy phân biệt giàu nghèo, sáng tác ra cả một thời đại văn chương chỉ toàn than nghèo khóc khổ, bôi tro tư sản, trát trấu địa chủ như những kẻ có tiền tội lỗi.

 

Cái phong trào “vô sản hoá trí thức” một thời xem ra nhiễm sâu vào gan ruột Nguyễn Đinh Thi đến độ hoạ sĩ Tư tin vào sự đánh giá nghệ thuật của cô gái điếm chính xác hơn cả giới chuyên môn :

 

“ À…mà cô xem cái phong cảnh này thấy nó thế nào ?”

 

Bích cười lúng túng :

 

“ Thấy con sông nó rộng, cảnh nó như là lúc đợi đò man mác thế nào. Ở quê ngoại em, chỗ bến đò Mía cũng giông giống thế này, cũng có cây gạo to lắm…”

 

Cô xem tranh thế mà còn đúng hơn khối ông phê bình đấy. Các ông viết báo ấy….”

 

Tư cũng cười to . Anh tự bảo :” Con đường của mình nhất định là đúng rồi…”

 

Được một “em điếm” khen tranh tức là được quần chúng nhân dân chấp nhận thế là hoạ sĩ đã có thể yên tâm :” đi đúng đường rồi” thì chắc con đường đó chỉ dẫn tới văn hoá văn nghệ phục vụ công nông binh theo lời dậy của đồng chí Mao Chủ tịch kính mến qua đề cương “văn nghệ Diên An” mà thôi. Con đường đó chưa biết dẫn hoạ sĩ Tư tới sự nghiệp sáng tác to tát nhường nào chỉ chắc một điều nó làm chàng từ khước một mỹ nhân kiêu sa như Phượng để yêu một cô điếm, “cùng giai cấp” . Đưa được “nghệ thuật” về với giới “cần lao” rồi, làm sao dắt được nó tới được với Đảng đây ? Dẫn dắt hoạ sĩ Tư từ bỏ cô Phượng giàu có, xinh đẹp để tới với cô Bích gái điếm, nghèo khó có vẻ còn dễ hơn đưa đẩy chàng đến với cách mạng. Nhà văn Nguyễn Đình Thi đã làm điều đó như thế nào ?

 

Trước hết do túi không còn một xu đong gạo, mua thuốc chữa bệnh lao và mua toan với màu , hoạ sĩ Tư lại đành tìm về với người yêu cũ giàu có để xin giúp đỡ. Tất nhiên Phượng biếu ngay Tư một số tiền lớn tạo điều kiện để anh thực hiện dự định vẽ một bức tranh sơn dầu khổ lớn. Tuy nhiên, anh vẫn chưa quyết định vẽ gì ngoài xác chết đói nhan nhản trên phố.

 

Bỗng anh nhắm mắt lại. Anh vừa thấy rồi. Bức tranh người chết đói của anh phải làm lại.Không phải chỉ có người chết đói . Một người đàn bà, một người mẹ, một bà mẹ Việt Nam đang nhìn lên phía trước , người đàn bà ấy đang đi giữa lửa đạn , chiếc khăn quàng rơi xuống vai , đôi mắt bà mẹ đang nhìn thấy cái gì đó rất lớn lao đối với bà…”

 

Cái gì đó rất lớn lao “ chính là cách mạng, là phong trào cộng sản mà ông nhà văn đang loay hoay chưa kiếm được cớ nào để nhét vào đầu ông hoạ sĩ cho dù hình ảnh bà mẹ đã rõ ra là hình ảnh “Người mẹ” của Maxim Gorki – hình ảnh một người mẹ công nhân, một người mẹ cộng sản. Dịp đó đã tới khi có một anh “cán bộ Việt Minh” tới nhờ Tư vẽ một bức tranh cổ động để ủng hộ Việt Minh chống Nhật cứu nước. Anh nhờ Bích, cô gái điếm cầm đòn gánh làm mẫu cho anh vẽ nữ du kích cầm súng .

 

Trên t giy đã hin rõ hình cô du kích mc qun áo chàm, cm khu súng trường giơ lên vy gi, đng sau cô ta là cnh đi núi xanh và bây gi Tư tô nt màu lên lá c có ngôi sao gia.Lá c được màu đ bng như bay php phi hơn và chm vàng ca ngôi sao cũng như sng lên…”

 

Vậy hoạ sĩ Tư đã đặt một chân vào cách mạng . Tuy nhiên, đó chỉ là tranh cổ động,chưa phải là sáng tác phẩm chính thức của hoạ sĩ. Nguyễn Đình Thi đẩy chàng nghệ sĩ “dấn “ thêm bước nữa : đưa hình ảnh cách mạng vào tranh sơn dầu khổ lớn . Chàng hoạ sĩ bỗng nhảy vọt trong sáng tác :

 

Bc tranh sơn du bây gi như t sương mù mà hin lên rt nhanh. Tư v tưởng chng không cn nghĩ và không kp dng li đ th na…Gia cnh người đói, người chết, bên cnh bà m, Tư đã v thêm mt người con gái…áo cánh nâu, tay cm khu súng , đng dy nhìn v phía còn đang bn nhau đng trước và vi vã sp băng mình chy lên phía y…”

 

Thế là Nguyễn Đình Thi chính thức đưa được hoạ sĩ Tư đứng vào hàng ngũ văn nghệ sĩ cách mạng. Chỉ có điều sao dễ dàng quá vậy ?


 

Thế là Nguyễn Đình Thi cho họa sĩ Tư vẽ nữ du kích bằng máu của mình :

 

Tư lại ho, cơn ho ác nghiệt..rồi bỗng thấy trong miệng mặn nóng, trong cổ anh cứ trào lên, Tư kinh hoàng thấy nhiều máu quá. .. Thôi phải làm gấp …”

 

Rồi người hoạ sĩ chết và người đọc không biết bức tranh vẽ bằng máu ấy giá trị bao lăm ? Tuy nhiên không phải cứ chấm vào máu là vẽ thành kiệt tác . Hoạ sĩ Diệp Minh Châu lấy máu mình vẽ Hồ Chí Minh mà rốt cuộc tranh cũng chỉ treo bảo tàng cách mạng.

 

Sau cái chết của hoạ sĩ Tư , người đọc chờ đợi nỗi bất hạnh của cô gái điếm Bích, người đang chung sống như vợ chồng với anh, nhưng không, ông nhà văn bỏ qua chuyện đó và hướng tới Phượng. Một mỹ nhân Hà thành ham sống, ham hưởng thụ vậy mà khi nghe tin hoạ sĩ Tư chết bỗng rơi vào hoảng loạn :

 

Đời Phượng, hạnh phúc của Phượng, tất cả đã lỡ hết rồi. Tất cả mọi thứ , mọi người ở xung quanh bó buộc Phượng cứ phải kéo dài cuộc đời giả dối, nhạt nhẽo, vô ích với người đàn ông càng ngày càng xa lạ, đánh chán đáng tởm, vậy mà Phượng không thể cựa quậy được…”

 

Thực ra hoạ sĩ Tư đâu có phải là “cuộc đời Phượng, hạnh phúc của Phượng”, chính ả ghê sợ cái cuộc sống nghèo túng của anh ta kia mà. Và đâu phải cái chết của Tư mới làm ả nhận ra cuộc sống với chồng là giả dối, đáng tởm. Tạo ra tâm trạng tuyệt vọng cho cô tiểu thư hàng Đào sau cái chết của hoạ sĩ Tư đã rất khiên cưỡng , ông nhà văn còn đi xa hơn nữa : ép uổng tính cách nhân vật, đẩy cô tiểu thư đến chỗ tự tử.

 

Phượng chống một bên tay nghiêng người nhỏm lên, rót một cốc nước rồi dốc cả ống thuốc ngủ vào đó ….”

 

Và rồi ả chết, chết “bức tử” do chính ông nhà văn giết chết nhân vật chỉ để chứng tỏ cái xã hội cũ thời phong kiến đế quốc bế tắc, dồn con người đến tuyệt vọng . Vậy mà các nhà phê bình “quốc doanh” vẫn chê vì “cách giải quyết tiêu cực quá, sao không cho cô Phượng …giác ngộ đi làm cách mạng ?”.

 

Nhạc sĩ Toàn là đại biểu sau cùng của giới văn nghệ sĩ Hà Nội được Nguyễn Đình Thi đưa vào “Vỡ bờ”. Sau khi cô người yêu người Nga, tên Nina, bỏ anh tìm về với quê hương thân yêu đang có cách mạng vô sản, “cuộc đời nhạc sĩ của Toàn vẫn thất thểu mỗi ngày vẫn giống mỗi ngày không đem lại gì mới mẻ…cắp hộp đàn …đến tiệm rượu và hàng ăn “Con gà Gôloa” để chơi trong dàn nhạc mà ngoài anh là người Việt ra còn lại toàn người Phi Luật Tân, Nga, Hung, Áo…”.

 

May cho Toàn, ngoài kéo đàn kiếm cơm, anh còn tìm được một việc “có ý nghĩa” : “sưu tầm vốn cũ dân tộc”. Thật ra công việc này phải vài chục năm sau khi đã nắm quyền ở một nửa nước, Đảng mới phát động các nhạc sĩ rời bỏ đất thánh Hà Nội đi về các miền quê, miền núi để sưu tầm dân ca, nhạc cổ cho đúng với phương châm : dân tộc, khoa học và đại chúng . Ấy thế mà từ hồi mồ ma đế quốc phong kiến, không hiểu sao ông nhạc sĩ Toàn đã làm rồi . Ông nhạc sĩ đi trước thời đại hay ông nhà văn Nguyễn Đình Thi đem cái công việc “nóng hổi tính thời sự “ lúc đang viết “Vỡ bờ” gán cho người xưa ? Ông nhà văn tranh thủ tuyên truyền đường lối văn hoá văn nghệ của Đảng như thế là rất điệu nghệ.

 

Để nhân vật nhạc sĩ Toàn tiến gần tới cách mạng, ngoài việc “sưu tầm vốn cổ” , Nguyễn Đình Thi phải tìm cho anh ta một hành động nào đó rõ ràng hơn thế. Một tối, Toàn đến tiệm để chơi đàn đã thấy Phêđô – một nhạc công người Nga “mở chai rươụ rót vào một loạt cốc và đứng nói với một vẻ hơi trịnh trọng : “ Tối nay tao có một chuyện vui. Thôi chúng mày chạm cốc với tao và uống đi, tao chỉ đòi lại chúng mày một điều nhỏ thôi : tí nữa vào, chơi mở đầu bằng bài “ Nhưng người kéo thuyền trên sông Vonga”…”.

 

Tại sao lại thế ? tại sao chơi trong quán ăn của Pháp lại đòi mở đầu bằng nhạc Nga. Thì ra đây là chuyện ăn mừng chiến thắng Xtalingrát

 

Thế là từ hôm đó, cứ mỗi lần nghe tin Liên xô thắng trận , Hitle thua lớn, Toàn với Phê đô lại chơi một bản nhạc Nga . Một hôm, Phêđô “ngửi thấy mùi thuốc súng khét lẹt ở đây” rủ Toàn “vượt biên giới sang Trung Hoa rồi đi xa nữa…”, nhưng Toàn từ chối vì “nếu anh bỏ đi bây giờ thì anh sẽ chỉ còn như cái cây đứt rễ. Nó sẽ héo khô đi rất nhanh chóng…”

 

Chẳng hiểu sao lại thế, chắc vì lúc này Việt Minh đã hoạt động rần rần ở các thành phố, cuộc khởi nghĩa giành chính quyền sắp nổ ra, một nghệ sĩ trí thức yêu nước qua ‘sưu tầm dân ca nhạc cổ” như Toàn không có lý gì lại bỏ ra nước ngoài đi trốn cái sự kiện lớn lao ấy . Đó chính là lý do ông nhà văn không cho phép Toàn theo Phêdô vượt biên ra nước ngoài chứ chẳng phải do tính cách của chàng dẫn tới quyết định đó. Lại một lần nữa hành vi của nhân vật tiểu thuyết bị ý muốn chủ quan của nhà văn ép buộc đến khó tin

 

Trong “ Vỡ bờ” ngoài trí thức văn nghệ sĩ, Nguyễn Đình Thi muốn dựng lên bức tranh hoành tráng toàn cảnh xã hội Việt Nam vào đêm trước cách mạng, bởi thế nông dân và công nhân, những nhân vật tạo nên nòng cốt cách mạng là không thể thiếu . Tiếc thay loại nhân vật này, Nguyễn Đình Thi lại chưa “thuộc” , dưới mắt ông họ chỉ là những sinh linh nhỏ bé bị địa chủ và tư bản bóc lột. Hơn nữa Đảng yêu cầu phải vạch một ranh giới tuyệt đối giữa nông dân và địa chủ, công nhân và tư sản ,không được phép đi sâu vào những tâm tình rắc rối, đậm mầu nhân tính như bài thơ :

 

Anh trót yêu con địa chủ

Quá yêu rồi biết bỏ sao đành

Vì chưng nó đẹp nó xinh…”

 

Không được, dù đứa con gái có đẹp có xinh, người cách mạng cũng tuyệt nhiên không được mảy may rung động một khi nó là “con của giai cấp bóc lột”. Với “chúng nó” chỉ có đánh đổ toàn bộ, đào tận gốc, trốc tận rễ, dứt khoát không cho ngóc đầu dậy, làm gì có thứ tình cảm “trót yêu “ vậy được.

 

Vốn là quan văn nghệ, Nguyễn Đình Thi càng phải gương mẫu tuân thủ giáo điều đó. Từ những năm 1950, sau khi biên giới Việt Trung được khai thông, bác Mao gửi cho cả giới văn học nghệ thuật Việt Nam, đặc biệt các nhà văn một “quà tặng” quý giá : bộ phim truyện “Bạch mao nữ”.

 

Phim kể về một cô gái bần cố nông đi ở cho địa chủ bị hành hạ hết sức dã man , không chịu nổi phải trốn lên rừng hoang và biến thành một người đàn bà tóc tai trắng toát giống như bóng ma trên rừng. Phim được chiếu cho tất cả cán bộ và nhân dân coi gây nên một lòng căm thù rực lửa đối với giai cấp địa chủ – mặc dầu trong phim là địa chủ…tàu. Tại các buổi chiếu phim cho bộ đội coi, người ta phải thu hết súng ống cất đi, bởi lẽ nhiều đồng chí coi phim căm thù quá, cứ nhè màn ảnh mà nã đạn.

 

Phim “ Bạch mao nữ” là một khuôn mẫu cố định , sinh động về mối quan hệ “nông dân- địa chủ”, là thước đo, chuẩn tắc cho mọi sáng tác về đề tài đó, cấm không được khác . Cái khuôn mẫu “ngoại nhập” quái ác này đã bó buộc mọi sáng tác của nhà văn Việt Nam viết về làng quê Việt Nam đều phải bầy tỏ lòng căm thù “muôn đời , muôn kiếp không tan” với giai cấp địa chủ và niềm tin yêu vô hạn với những người nhà quê xông lên làm cách mạng.

 

Rất nhiều nhà văn “gạo cội” đã phải nhào nặn tác phẩm của mình theo khuôn mẫu đó. Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Huy Tưởng, Nguyễn Đình Thi…ra sức “sáng tác” những tiểu thuyết viết về “đề tài nông thôn” kiểu như “Truyện anh Lục”, “Mẹ con đồng chí Chanh”, “Nông dân với địa chủ”… tạo nên một sự chia rẽ kinh hoàng cả về ý thức lẫn tinh thần trong cộng đồng những người sống bằng cây lúa ở Việt Nam cho mãi tận bây giờ vẫn còn chưa được giải độc.


 

 “Vỡ bờ” với tham vọng phản ánh toàn xã hội “vùng lên” làm cách mạng tháng Tám nên không thể thiếu hai nhân vật cốt lõi là “nông dân” và “công nhân” . “Nông dân” là Xoan, “công nhân” là Mầm và tất nhiên hai người phải yêu nhau cho thắm thiết hình tượng công nông liên minh .
 

Nguyễn Đình Thi có xé rào khỏi “khuôn mẫu” nông dân - địa chủ qua phim “ Bạch mao nữ” không ?

 

Không những không mà còn “quá đà” vượt cả yêu cầu của đảng .

 

Cô Xoan, do bố mẹ nợ nần phải gán cho địa chủ nghị Khanh lúc còn bé, lão Nghị chẳng thèm để mắt tới, nhưng khi cô lớn lên , lão Nghị nhận ra “cái thân thể khoẻ mạnh tươi trẻ của người con gái”. Thế là lợi dụng vợ vắng nhà, lão quyết chiếm đoạt Xoan cho bằng được, nắm chặt lấy cổ tay cô, như cái kìm và kéo cô lại bên giường.

 

Lần đó Xoan thoát được , nhưng rồi phận trong hang hùm “địa chủ “, làm sao giữ được trinh trắng ? Lần này không phải lão nghị Khanh mà thằng Tường, con trai lão . Đêm hôm đó, xong công việc mắt gái cứ chặt lại. Khi về đến cái buồng nhỏ tối om đặt mình xuống là Xoan ngủ ngay không biết gì nữa.”. Một cô gái hơ hớ, đã từng bị lão chủ đòi hãm hiếp, bắt gặp cái nhìn hau háu của thằng con trai lão chủ, vậy mà Xoan không hề “nâng cao cảnh giác” cứ về phòng ngủ “vô tư”, lại còn không đóng cửa buồng .Vậy là thằng bố chưa kịp làm, thằng con và lũ bạn đã cướp đi trinh trắng làm cô phải tự tìm tới cái chết .

 

Trước khi chết, cô tố cáo tội ác địa chủ và đặt ra một loạt câu hỏi mang ý nghĩa “giác ngộ giai cấp” :

 

“ Tại sao tao cũng là người, chúng mày cũng là người mà chúng mày lại có quyền sai bảo, mắng chửi , hành hạ, làm hại tao ? Tại sao chúng mày có quyền vợ chồng cha mẹ con cái đề huề mà lại bắt tao phải quanh năm ngày tháng không được thấy mẹ tao, các em tao. Tại sao cả nhà chúng mày ăn sung mặc sướng muốn làm gì thì làm mà cả nhà tao lại suốt đời đói khát, cái gì cũng phải sợ sệt ?”

 

Và rồi cô bày tỏ lòng căm thù cao độ, buông lời nguyền rủa kẻ thù giai cấp :

 

“ Tao chết đi sẽ còn là cái hồn oan , trở về bóp cổ chúng mày. Tao chết đi sẽ còn làm chúng mày ăn không ngon ngủ không yên. Hễ mẹ con cha con chúng mày nhìn nhau là trông thấy cái oan hồn của tao…”

 

Thật không có lời tố cáo nào sâu sắc hơn, lời nguyền nào độc địa hơn. Tất nhiên Xoan không chết , cô phải sống để tác giả trình bày sự đổi đời của nông dân theo Đảng.

 

Mầm là thanh niên trong xóm, bỏ làng lên Hải Phòng làm công nhân bị Pháp bắt đi tù , đến ngày Nhật đảo chính Pháp thì trốn tù. Nguyễn Đinh Thi quen “trí thức văn nghệ sĩ” hơn loại nhân vật này nên chỉ mô tả qua loa quá trình từ anh nhà quê thành anh thợ xi măng , minh hoạ quan điểm Mác Lê về sự bần cùng hoá nông dân dẫn tới ra đời giai cấp công dân. Trong khi đó chuyện “phiêu lưu đường rừng” được kể khá kỹ càng trên đường Mầm trốn tù về nhà. Nào “ khỉ , rắn, trăn gió cả cọp nữa họ đã gặp đủ cả , những đêm nằm dài trên một chiếc chòi nát bỏ hoang mà nghe tiếng nai gộ giữa rừng khuya, sao mà buồn nẫu ruột gan…”. Nào “đi men theo con suối lớn họ bỗng trông thấy hai người đàn bà Mường mặc quần vải đen, áo dài năm tà, tóc búi ngược trên đầu , đang giặt …”

Lẽ ra để khắc hoạ hình tượng “giai cấp tiên phong” Đảng, Nguyễn Đình Thi phải đặt Mầm vào khó khăn, khắc nghiệt , gian truân qua đó trui rèn phẩm chất cách mạng. Đằng này ông đưa toàn chuyện tào lao kể trên, kéo dài cho dầy cuốn tiểu thuyết chẳng dính dáng gì tới việc xây dựng tính cách mới cho người “anh hùng mới” của thời đại .

 

Mầm về tới làng trong cảnh chết đói đầy đường, “hàng nghìn người sống dở chết dở , cái đói đốt ruột đốt gan không buông tha lúc nào , đầu óc mê hoảng chỉ còn biết tìm xem đâu còn cái gì tạm ăn được nữa không ?”. Trong hoàn cảnh kinh hoàng như vậy, lẽ ra Mầm phải tìm ngay người yêu là Xoan sau bao năm xa cách, vậy mà không, anh chỉ về qua làng rồi biến ngay đi tìm…cách mạng.

 

Đó là tại nhà văn chưa muốn cho hai người gặp nhau lúc này.: Xoan mới bị hiếp dâm, giờ gặp lại người yêu cũ tâm trạng cô sẽ ra sao đây ? Mẫm cũng mới trốn trại chưa có “thành tích” , “sự nghiệp ” gì. Bởi thế Nguyễn Đình Thi đành phải “hoãn “ cuộc “trùng phùng” giữa hai nhân vật thời đại vào cuối truyện, khi mà cách mạng đã thắng lợi, cuộc đời cũ chấm dứt vĩnh viễn, cuộc đời mới đang mở ra, bao nhiêu chuyện lớn lao đang tràn ngập tâm hồn, còn cái chuyện “mất trinh’ vì thằng con địa chủ là chuyện nhỏ, chẳng là đinh gì, bởi thế khi gặp lại người yêu cũ, cô Xoan đã hoàn toàn quên bẵng chuyện đó, không nhắc nhở gì tới kẻo giảm sút niềm vui chiến thắng.

 

Từ một anh tù vượt ngục chẳng hiểu mô tê gì chẳng hiểu sao, đùng cái, Mầm lại có mặt trong một cuộc hội nghị cán bộ quan trọng, thoắt cái đã trở thành một yếu nhân .Rồi chỉ ít tháng sau, Ban lãnh đạo chiến khu Đông Triều thành lập trung đội du kích đầu tiên của Đảng gồm ba người, Mầm được cử ngay làm chính trị viên, được Nguyễn Đình Thi hết lời ca ngợi :

 

“ Tất cả vai khoác súng trường , thắt lưng giắt lựu đạn , đứng nghiêm im phăng phắc, nghe đồng chí chỉ huy của họ thề hy sinh chiến đấu dưới lá cờ cách mạng thiêng liêng . Từ nay họ sống chết có nhau, cùng bước vào cuộc đời người lính của cách mạng, được Đảng giao cho cầm súng trong tay để giải phóng đất nước , đồng bào. Họ chưa biết con đường chiến đấu của họ sẽ dài bao nhiêu, những gian nan nguy hiểm, những đau thương hoặc vui sướng của họ sẽ thế nào nhưng họ biết những lời thề hôm nay sẽ không bao giờ họ quên được…”

 

Thật rõ ra là hình ảnh Đội tuyên truyền giải phóng quân , tiền thân bộ đội cụ Hồ. Chỉ có điều, ngoài đời đội trưởng là ông Võ Nguyên Giáp nguyên là giáo học có đôi chút chữ nghĩa chứ không phải cái nhà anh Mầm nhà quê thất học, lên tỉnh làm thợ bị tù rồi trốn trại trở về.

 

Một trong những bi kịch cốt lõi của nhà văn cách mạng, đặc biệt “đồng chí” nào đã dính vào chức quyền như Nguyễn Đình Thi là ông nào cũng được Đảng úp lên đầu cái mũ kim cô có tên là “ chính trị là thống soái”.

 

Vậy “ chính trị là thống soái” là thế nào ?

 

Là tuốt luốt mọi thứ từ “thủ pháp nghệ thuật” cho tới “lô gích của nội dung” đều phải điếu đóm theo hầu chính trị. Trong cuốn “Sửa đổi lề lối làm việc”, ông Hồ Chí Minh dưới bút hiệu XYZ đã thẳng thừng đặt cho nhà văn những câu hỏi cốt lõi theo kiểu thầy dậy trò :

 

” viết cho ai ? viết như thế nào ? viết để làm gì ?”

 

và lẽ dĩ nhiên câu trả lời tức khắc phải là:

 

“ viết cho quần chúng công nông binh – viết cho dễ hiểu- viết để phục vụ quyền lợi của cách mạng…”.

 

Vậy “ công việc viết văn” của nhà văn cách mạng trở nên hết sức dễ dàng khi “viết sao cho dễ hiểu”, chớ có biểu tượng nhiều mặt, chớ có đa thanh, đa nghĩa, đa chiều , chớ có tìm tòi, cách tân “ngôn ngữ nghệ thuật” mô đéc mô điếc làm gì nhức đầu nhức óc quần chúng công nông binh, mở sách ra mù tịt chẳng hiểu gì.

Về nội dung lại càng “ngon ăn” hơn – bất chấp trần gian muôn màu ra sao , cuộc đời đa đoan thế nào, nhà văn khỏi đi sâu thám sát và phát hiện những bí ẩn của nhân tính, khỏi mổ xẻ những ca tâm lý phức tạp, những chiều kích dị thường trong tâm hồn con người , các “cán bộ viết văn” chỉ cần diễn tả mọi nhân vật , mọi sự kiện sao có lợi cho cách mạng bất chấp sự thực của đời sống .

 

Các nhà phê bình quốc doanh thường đòi hỏi nhà văn “ phải hy sinh lô gích của hiện thực cho lô gích nội dung”, nói toạc móng heo ra là phải sẵn sàng nhào nặn và bóp méo hiện thực miễn sao phục vụ được yêu cầu của chính trị . Thô thiển hơn , cố Thủ tướng Phạm văn Đồng , gương mặt văn hoá mác xít tiêu biểu của VN , một thời yêu cầu các nhà văn phải “mô t hùng hn hơn na thi đi ca chúng ta…” . Vậy chỉ được ca ngợi và ngợi ca mà thôi chứ nếu oán thán thì đâu có “hùng hồn” ?

 

Phần kết trường thiên tiểu thuyết Vỡ bờ của Nguyễn Đình Thi là minh chứng sinh động cho các ý kiến nêu trên.


 

Một sự thực hiển nhiên là cuộc cách mạng tháng Tám đã lôi cuốn đông đảo dân chúng Việt Nam trong đó rất nhiều cư dân đô thị, đặc biệt trí thức văn nghệ sĩ. Tuy nhiên điều đó không có nghĩa là khắp thiên hạ ai cũng làm cách mạng và càng không có nghĩa cứ theo Việt Minh là “giác ngộ cộng sản”. Còn một bộ phận không nhỏ hoặc đã chống lại hoặc đã đứng ngoài cuộc “trùm chăn” chờ thời - đó là một sự thực hiển nhiên .

 

Ấy thế nhưng với cái mũ kim cô “ chính trị là thống soái” trên đầu, nhằm tô vẽ cho cuộc cách mạng, Nguyễn Đình Thi đã “lùa” toàn bộ nhân vật Vỡ bờ đi theo Việt Minh trừ những phần tử phản động trong giai cấp tư sản và địa chủ.

 

Trước hết là ông giáo Hội kiêm nhà văn , tác giả tiểu thuyết “Đồng Chiêm” . “ Thật không ai ngờ được và chính Hội cũng không ngờ được mình lại thành một ông Việt Minh ở giữa Hà Nội như thế này…”. Không tù đầy, không giam giữ, ông nhà văn Hội làm cách nào trở thành “ông Việt Minh” nhanh như thế ? Hoá ra ông chỉ làm cái việc “đi khắp từ các đầu ô cho đến phố nội thành để tới gặp hết người nọ đến người kia trong đám các trí thức của đất ngàn năm văn vật…”. Chính vì tham vọng mở rộng Vỡ bờ thành một bức tranh hoành tráng diễn tả toàn dân làm cách mạng nhưng lực bất tòng tâm Nguyễn Đình Thi đành diễn tả cả quá trình giác ngộ Việt Minh của ông nhà văn kiêm nhà giáo sơ sài có vậy.

 

Trí thức theo cách mạng phải có thưởng chớ ? Có ngay, liền sau đó Nguyễn Đình Thi vội vàng cho ông nhà văn Hội được bầu làm Chủ tịch Uỷ ban giải phóng xã và sau đó tiểu thuyết “ Đồng Chiêm” của ông được tái bản lãnh mấy trăm đồng nhuận bút về đưa vợ. Tuy nhiên cái “quả thực ” cao nhất đi theo cách mạng với ông nhà văn này là được…kết nạp Đảng thì Nguyễn Đình Thi chưa nói tới, chắc còn để lại cho hậu Vỡ Bờ mà sau này ông không còn thời gian và hứng thú để thực hiện nó.

 

So với ông nhà văn Hội, nhạc sĩ Toàn chậm cách mạng hơn ; anh vẫn đi kéo đàn kiếm sống và mua hoa tặng bạn gái. Thế rồi khi gặp một anh nhà báo, ông nhạc sĩ bỗng tỉnh ngộ và sám hối :” Chết thật, mình ở trên mây, không biết gì cả…”.Toàn nghĩ thầm và vừa đi nhanh vừa nhìn bó hoa hồng trên tay. “.Tuy ông nhà văn không nói rõ , nhưng người đọc hiểu từ nay ông nhạc sĩ sẽ chấm dứt những trò tặng hoà phù phiếm để theo cách mạng làm Ô việc thiết thực hơn.

 

Ông giáo già Điềm, sau một thời gian dài “trùm chăn” , giờ cũng giác ngộ xung phong lên chiến khu huấn luyện quân sự cho bộ đội chỉ vì ông đang tôn sùng binh pháp của Tôn Tử . Ông đồ già đến với cách mạng như vậy cũng đã là hoả tốc rồi, vậy mà ông còn than thở, hối tiếc :” Tôi thật chậm hơn các anh mấy chục năm . Phí mất nửa đời người…”. Quả thực “trường hợp giác ngộ “ của ông Giáo Điềm nếu không là một giai thoại tiếu lâm thì cũng là một tưởng tượng…tầm phào .

 Tất nhiên lớp người trẻ đến với cách mạng phải được nhà văn diễn tả ‘rầm rộ” và “khí thế” hơn nhiều. Phi cô gái con nhà giàu, quanh năm đi học và rong chơi như con bướm. May mắn cô được người yêu là Đông – hoạt động bí mật cảm hoá, thế là bỗng chốc Phi trở thành “nữ chiến sĩ cách mạng” cầm đầu doàn biểu tình đấu tranh với Nhật :

 

Phi vẫy cả đoàn vượt qua đám đông ở đây, đi vượt lên nữa. Trên thềm nhà hát lớn từng tốp lính Nhật quỳ hoặc nằm sau những khẩu súng máy đã bắc càng sẵn sàng…”

 

Thế rồi cô nữ sinh đấu lý với đám sĩ quan Nhật khiến họ phải thả các công nhân bị bắt , trả lại cả súng cho họ nữa. Sự hiên ngang, dũng cảm của Phi làm viên sĩ quan phải trầm trồ khen ngợi :” Thấy Việt nam bây giờ mà thèm. , từ người con gái đàn bà con gái cũng gan dạ, rắn rỏi, kiểu này khi trở về Nhật chắc sẽ …mổ bụng tự vẫn…”

 

Ghê thế đấy, gương đấu tranh của cô tiểu thư Hà Nội đã làm cho sĩ quan Nhật cảm phục đến thế , vậy những người cách mạng thứ thiệt còn thần kỳ tới đâu. Tất nhiên họ phải là gia đình ruột thịt của những cán bộ cộng sản đã hy sinh. Như cô Quyên, em gái Khắc – lãnh tụ cách mạng chết trong tù, cũng thoát ly làm cách mạng chuyên nghiệp. Chỉ sau một thời gian, Quyên đã trở thành chỉ huy du kích đánh đồn:

 

Thôi ta cứ vào thôi” - Quyên hét to lên với anh em và vượt lên đầu , chạy đến cổng đồn mở toang một bên.Anh em chạy đi rồi, Quyên quay sang mấy anh du kích :” Hễ thằng nào định giở trò, các đồng chí cứ bắn chết ngay tại chỗ. Còn đồng chí nào có lựu đạn không ?...”

 

Thật không thể hiểu nổi, vì sao cô gái quê rụt rè, suýt chịu làm vợ bé cho ông Chánh hội , vậy mà đùng cái trở thành nữ chỉ huy du kích say máu và giết người không ghê tay . Chắc là vì không khí cách mạng khẩn trương , cấp tập nên ông nhà văn cũng phải vội, đành bỏ qua “cái quá trình trở thành” mà chỉ trình bày cái kết quả và người đọc đành phải chấp nhận hình tượng cô gái quê trở thành chỉ huy du kích “ăn gan uống máu quân thù” như vậy là có thực…

 

 “Tức nước” phải “vỡ bờ”. Cảnh vật sau khi “vỡ bờ “ thường đổ nát, tan hoang, hỗn loạn không khác gì một cơn bão, một trận động đất hoặc cơn sóng thần quét qua. Vậy nhưng cảnh tượng sau “vỡ bờ” của Nguyễn Đình Thi hoàn toàn ngược lại, nó được sắp xếp thứ tự lớp lang đâu ra đó, kẻ có tội với nhân dân bị trừng trị, người có công với cách mạng được tưởng thưởng . Cái kết cuộc của cuốn tiểu thuyết trường thiên được ông tác giả gia công, sắp xếp theo nguyên tắc đó, chính xác , chi li, tỉ mỉ không thua gì một ông già tỉa hoa thuỷ tiên nhân ngày tết.Cái kết cuộc phù hợp tuyệt đối với “ý Đảng, lòng dân” làm người đọc phải kinh ngạc vì ý thức chính trị đã giết chết ý thức nghệ thuật trong Nguyễn Đình Thi khiến tiểu thuyết của ông nặng mùi tuyên truyền . Ta chịu khó đọc những dòng kết của cuốn tiểu thuyết đồ sộ nhất trong sự nghiệp văn chương Nguyễn Đình Thi :

 

Nắng đã lên, sáng vàng, tươi ấm, chan hoà trên sông núi từ đây sống lại.

 

Thành cũ , Cột Cờ, vườn Ba Đình, tất cả ngập trong cờ đỏ sao vàng.

 

Trên một cái đài cao dựng tạm đơn sơ, một người mảnh khảnh , mặc chiếc áo vải kaki, trán cao, đôi mắt sáng mênh mông, cằm điểm một chòm râu lưa thưa, vừa bước lên và đứng lặng mấy giây nhìn cái biển người bát ngát trước mặt.

 

Và cả cái biển người cũng chăm chú nhìn lên và đợi nghe.

 

Người ấy bắt đầu nói. Từ các loa phóng thanh vang ra một giọng ấm áp mà vang như tiếng chuông. Cụ Chủ tịch nói câu gì đầu tiên đây ?

 

“ Tôi nói đồng bào nghe rõ không ?”

 

Cả cái biển người ngạc nhiên im phắc một giây rồi bỗng dưng nghìn vạn tiếng reo trả lời gầm lên thành một tiếng sấm truyền đi xa, xa mãi…”

 

Đọc đoạn kết cho hơn một ngàn trang tiểu thuyết , người ta hiểu được vì sao tới đêm trước thời đổi mới ở Đại hội nhà văn Việt Nam lần thứ 4, Nguyễn Đình Thi vẫn còn tự nhận “ nhà văn là hạt bụi lấp lánh ánh sáng của Đảng”, vì sao đến khi qua đời Nguyễn Đình Thi vẫn còn ngồi cái ghế quan văn nghệ cao chót vót :” Chủ tịch Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Việt Nam”.

 

“Bất tri tam bách dư niên hậu”, chẳng cần lâu la thế, chỉ ba năm sau khi ra đời, trường thiên tiểu thuyết “Vỡ bờ” của Nguyễn Đình Thi chỉ còn được nhắc tới trong giáo trình văn học cách mạng và trong những công trình “bốc thơm” của các phê bình gia quốc doanh như Vũ Đức Phúc, Phan Cự Đệ, Hà Minh Đức…


 

Tháng 4 năm 2003, vài tháng sau khi Nguyễn Đình Thi mất, tập truyện ngắn “Tuyết” được xuất bản như là di cảo,kể về anh cán bộ Nam đi công tác nước bạn .Người ta chờ Nguyễn Đình Thi viết gì đó na ná như “Bánh vẽ” của Chế Lan Viên, hoặc trật đường rầy“nhìn từ xa tổ quốc” theo kiểu Nguyễn Duy.

 

Vậy mà không, trong chuyến tàu đi trong đêm tuyết Nguyễn Đình Thi cho Nam gặp lại chị cán bộ miền Nam Tư Bình. Chị này có cô con gái duy nhất bị máy bay Mỹ bắn chết. Mặc dầu vậy chị vẫn không gục ngã trước số phận, trở thành bác sĩ giỏi được cử sang nước bạn học tiếp và được Nguyễn Đình Thi ca ngợi :

 

“ Hai bên con đường sắt là cánh đồng phủ tuyết trắng bông, đây đó nhô lên những quả đồi thấp tròn thoai thoải. Có một bóng người đàn bà mang ủng cao bước đi trên một con đường giữa hai hàng cây đã rụng hết lá, chỉ còn những cành cây đen sẫm viền tuyết trắng…”

 

Truyện ngắn dù có đẽo gọt tới đâu vẫn chỉ nằm trong “tủ sách người tốt việc tốt”. .

 

Trong “Nước chảy” Nguyễn Đình Thi cũng kể gặp lại bạn cũ, nhưng không phải “người đằng miềng” mà là ông già …Việt kiều tên Hoàng :

 

Nửa thế kỷ trước, Hoàng và NĐT – hai cán bộ kháng chiến gặp nhau và chia tay nhau bằng một bán bún riêu ở Ba La Bông đỏ gần Hà Đông. NĐT lên Việt Bắc theo kháng chiến còn Hoàng “dinh tê” về Hà Nội, năm sau đi du học Pháp. Đáng buồn cho Hoàng, anh có cô vợ chưa cưới tên Lệ còn kẹt lại Phú Thọ. Trở về Hà Nôi, Hoàng viết thư cho Lệ van xin nàng về thành với anh. Vậy nhưng thật lạ, cô tiểu thư Hà Nội này mê nhạc đến độ tản cư cũng phải chở theo nguyên một cái đàn dương cầm, ấy thế mà lại khăng khăng không chịu bỏ kháng chiến theo chồng về Hà Nội tiếp tục học đàn, hơn thế , cô còn viết thư khuyên chồng chưa cưới nên quay trở về với kháng chiến. Con gái Hà Nội không lẽ dở hơi đến thế sao ? Thế là Hoàng đành đi Pháp một mình, rồi sang Thuỵ Sĩ sau trở thành một bác sĩ giỏi .

 

Đó là gặp gỡ đầy ý nghĩa của hai người bạn : một theo kháng chiến, một định cư nước ngoài và sẽ vô cùng lý thú khi diễn tả chân thực thân phận con người. Tuy nhiên ông không đủ dũng cảm làm chuyện đó, ông lờ cái cốt lõi đó đi , đành “quẹo cua” không dám đi vào “vùng cấm bay” – so sánh hai con đường “ ai thắng ai” giữa hai người bạn, ông chỉ dám hướng câu chuyện vào cuộc tình không thành giữa Hoàng và Lệ và…hết.

 

Một cuộc gặp gỡ và chia tay trong nhạt nhẽo.

 

Nhạt nhẽo như truyện ngắn của Nguyễn Đình Thi vậy.

 

 Một thời mấy ông trong Hội nhà Văn Việt Nam riễu mấy bác lãnh đạo : 

 

 “ Đảng đoàn là Đảng đoàn Hoài

 Hễ đi nước ngoài là có ông ngay…”

 

Nguyễn Đình Thi nhiều năm có chân trong Đảng đoàn, dẫu không đi nước ngoài nhiều như Tô Hoài thì cũng ngang…đi chợ. Bởi thế những khung cảnh nước ngoài thường được ông đưa vào truyện ngắn vào những năm cuối đời. Tuy nhiên ông chỉ mượn khung cảnh thôi, còn nhân vật vẫn là những người quen cũ .

 

“Trong rừng thông” ông gặp một cán bộ nghiên cứu tên Đan đi họp hội nghị quốc tế châu Au. Ông Đan cũng tái ngộ với cô Mai quen biết từ hồi mới nổ ra toàn quốc kháng chiến. Ngày xưa, Đan còn là anh bộ đội, trên đường hành quân gặp Mai “ cô gái độ mười lăm mười sáu tuổi ấy đi đâu cũng đội mũ nan gài lá như bộ đội ”. Lẽ ra Đan và Mai đã có một tình yêu đẹp, chỉ tiếc Đan đã có vợ bởi vậy hai người coi nhau như anh em.Tuy nhiên hai người đôi khi vẫn gặp nhau, đi chơi bên hồ Hoàn Kiếm, tặng hoa và “ở nơi sâu thẳm trong tâm hồn , một cách tự nhiên không hề suy nghĩ, hai người đã giữ cái đốm sáng ấy để mà sống.” . Thế rồi ngay cả khi vợ Đan chết, quan hệ giữa anh với Mai cũng vẫn bảng lảng ở mức tình “anh em” như hồi mới gặp. Phải chờ tới khi Mai đã lớn tuổi, được đi thực tập tại một thành phố châu Au nơi Đan cũng đang họp ở gần đó, hai người mới gặp nhau . Và khi đi ngang qua một phố đông ,”dòng người đổ đến, chen chúc , làm Mai lúng túng , Đan bỗng :

 

“ Ôi dào, phải thế này…”

Và anh gấp cánh tay, cầm lấy bàn tay nhỏ nhắn của Mai đặt lên đấy. “ Thế”.

 

Truyện ngắn “ Trong rừng thông” mang khá nhiều dấu vết riêng tư của Nguyễn Đinh Thi, bộc lộ cái nỗi niềm sâu kín trong ông “ Oi dào, phải thế…” – phải sống thực với mình, phải yêu đúng với những rung động con tim mình. Mọi cấm kỵ, mọi rào cản tới một lúc nào đó sẽ chẳng còn là cái gì. Chỉ tiếc ông không đi xa hơn truyện trai gái để vượt tới chuyện đời văn, chuyện đời người , ngoái nhìn những bước đường tư tưởng đã qua để có một hành động phản tỉnh nào đó ứng với câu Đan thốt ra :”O6i dào, phải thế…”

 

Trong truyện ngắn “Người bạn cũ”, Nguyễn Đình Thi lặp lại mô típ truyện “ tái ngộ cố nhân”, nhưng lần này chuyện xảy ở Sàigòn và người xưa vốn là một cô gái sống phóng túng , tên Thoa “luôn luôn sống tự do theo ý muốn, luôn luôn sống ngoài dư luận và khinh miệt những kẻ đạo đức giả…” . Thế rồi “ Cách mạng bỗng làm thay đổi tất cả”. Cái cô Thoa này từ bỏ hết cả sự lôi kéo của mấy ông luật sư, tri huyện tới chốn phồn hoa mà lại “ rời Hà Nội về quê, chỉ lo làm nghề thầy thuốc ở một vùng quê hiền lành êm ả bên con sông Đáy…”. Thế rồi chiến tranh nổ ra, sau bao nhiêu năm phiêu dạt, ông Nam, người bạn cũ vào Saigòn tìm tới tận nơi Thoa ở thì bà đã ra người thiên cổ chỉ để lại một lá thư thanh minh dù có bỏ kháng chiến vào Nam thì vẫn “phân biệt được phải trái , thật giả và nhìn được đâu là chính nghĩa, em u mê sao được trong lúc hằng ngày dân ta chết như thế, khổ như thế…”. Một truyện ngắn nằm trong cả một dòng truyện ngắn miền Bắc sau năm 1975 về “nỗi ăn ăn , hối hận của những người bỏ quê hương miền Bắc di cư vào Nam” .

 

Truyện “Ông lão vẽ tranh”, truyện sau cùng trong tập truyện viết khá rõ về quan niệm sáng tác của ông.

 

 Lão Dần làm nghề vẽ tranh tá túc nhà ông Chiểu, goá vợ, có con gái nhỏ tên Hồng, bị câm từ nhỏ. Từ lúc đó, cô bé câm quấn quýt bên ông gìa vẽ tranh để đun nước , thay trà, phục dịch cho ông vẽ tranh. Ông vẽ thuê tranh thờ lấy đấu gạo, con gà, nải chuối…Một lần hai cha con ông già Tàu , vốn làm quan bên Phúc Kiến bị án oan trốn sang ta. Ông lão Dần vẽ tranh phong cảnh y như quê cha đất tổ của ông già Tàu khiến ông này rất cảm kích , cho rất nhiều vàng lá. Từ đó ông lão vẽ tranh không vẽ chân dung cho khách nữa. Suốt ngày ông vẽ “nhiều cảnh, nhiều người, nhiều nơi chốn rất khác nhau. Có núi có biển…có đồng ruộng, làng xóm đình chùa…”. Ông vẽ đủ thứ trên đời, hoa cúc, chim rỉa cánh , đoàn ngựa thồ, trẻ con nhảy dây …nghĩa là ông vẽ tất cả những thứ ông bắt gặp . Ong cứ vẽ miệt mài ngày này qua ngày khác đến gần kiệt sức mà vẫn chưa thoả mãn. Thế rồi một hôm ông lão gượng dậy kiếm một khung lụa to đặt kín một chiếc bàn rồi bắt đầu vẽ . Ong vẽ gì vậy ? Hoá ra ông vẽ ” một cô gái bên gốc cây mai. Cô mặc áo cánh bông , trên đầu đội cái thúng, cô bước đi trên vệt đường từ mỏm đồi xuống…”. Ông vẽ cô gái nào vậy ? Hoá ra là ông vẽ ngay con bé câm . “ Ông lấy bút chỉ vào cô bé câm rồi lại chỉ vào cô gái trong tranh…” Ông nói với nó :” Cháu có thích bức tranh này không ? Ông cho cháu đó. Cháu rồi như cô gái trong tranh này đừng sợ gì cả…”. Ít ngày sau ông lão chết. Truyện ngắn gửi gắm thông điệp :” Hãy vẽ hoặc viết về những gì gần gũi với ta nhiều nhất…”. Quan niệm này thực ra chẳng có gì mới, nó nằm đầy rẫy trong những lời răn dậy của các ông nhà văn già gửi tới đám cây bút trẻ đang tập toạng cầm bút theo ‘dấu cha anh”.


 

Trong văn học cách mạng có một hiện tượng là khi rời bỏ “những vấn đề của cách mạng” trở về “những vấn đề của dân tộc”, những thắt buộc bớt khắt khe, tài năng của nhà văn có vẻ toả sáng . Đó là trường hợp của Nguyễn Đình Thi trong kịch lịch sử “ Nguyễn Trãi ở Đông Quan” và “ Rừng trúc”.

 

Năm 1979, Nguyễn Đình Thi bắt tay viết vở kịch về Nguyễn Trãi, cốt nêu vấn đề người trí thức trong quá khứ. Ông đồng tình với thái độ khác với đạo lý cổ truyền của Nguyễn Phi Khanh và Nguyễn Trãi; hai ông này đều phê phán Khuất Nguyên, như Nguyễn Trãi có câu "Chớ người đục đục, chớ ta trong", ngụ ý không thể lánh đời giữ cho riêng mình trong, người trí thức phải biết dấn thân cho đời.

 

Nguyễn Đình Thi cho rằng khi viết về trí thức, người ta thường đặt vấn đề thân phận trí thức, khi đưa ra những quan niệm chưa được xã hội chấp nhận, người trí thức thường bị đe doạ khủng bố. Chẳng hạn như Khuất Nguyên của Quách Mạt Nhược, hay Galileo của Bertolt Brecht. Bị tra tấn buộc tội là kẻ tà đạo, Galileo phải tạm thời rút lui ý kiến khỏi bị thiêu sống, tuy nhiên sau đó vẫn tiếp tục nghiên cứu khoa học theo quan điểm của mình.

 

Nguyễn Đình Thi đặt vấn đề trí thức theo hướng khác. Ông cho rằng số phận trí thức Việt Nam gắn bó chặt chẽ với dân tộc, do đất nước luôn bị ngoại xâm, sơ hở một tí là mất nước hay bị đồng hoá liền. Vì vậy với ông, ngay cả Nho giáo và tôn giáo cũng chỉ là những giáo điều khô cứng ; người trí thức phải tự tìm đường giúp dân giúp nước .

 

Vở kịch “Nguyễn Trãi Đông Quan” viết xong năm 1980, đúng vào dịp kỷ niệm 600 năm sinh Nguyễn Trãi với ý nghĩa đề cao tinh thần dân tộc cao đẹp của trí thức. Khi vở kịch được Đoàn kịch nói trung ương công diễn, khán giả kéo tới xem chật rạp. Vài ngay sau, bất ngờ có thông tri của Ban bí thư gửi nội bộ, lên án vở kịch có dụng ý xấu , có ý làm loạn, dựng cuộc trao đổi giữa Nguyễn Trãi và Trần Nguyên Hãn giống như …cuộc họp Bộ chính trị . Và thế là vở kịch bị khai tử cho tới tận bây giờ.

 

Vở “Rừng trúc” may mắn hơn, những người hạ bút ký lệnh cấm diễn kịch Nguyễn Đình Thi như Lê Đức Thọ, Trường Chinh, Tố Hữu đều đã đi gặp bác Hồ kính mến cả rồi, vào dịp kỷ niệm hai năm ngày giỗ tác giả, nó được công diễn ở nhà hát lớn thành phố Hà Nội và được trực tiếp truyền hình cả nước.

 

Rừng trúc” viết về thời kỳ cả quân Tống lẫn quân Nguyên “mồm rộng răng dài, như đám cháy rừng gặp gió” tuy đang chém giết nhau nhưng đều lăm le xâm lược nước ta. Lúc này Thái sư Trần Thủ Độ đã cướp vợ vua Lý Huệ Tông - công chúa Thiên Cực và ép vua phải nhường ngôi cho con gái Lý Chiêu Hoàn mới lên tám, rồi phải đi tu và tự tử chết trong chùa với câu nói nổi tiếng trong lịch sử :” nhổ cỏ phải nhổ cả rễ”. Sau khi Lý Huệ Tông chết , Trần Thủ Độ gả Lý Chiêu Hoàng cho Trần Cảnh rồi dàn dựng Chiêu Hoàng nhường ngôi cho Trần Cảnh làm vua xưng là Trần Thái Tông.

 

Rừng trúc “ diễn ra vào hơn chục năm sau, tức cả Chiêu Hoàng và Thái Tông đều đã ở tuổi hai mươi. Do Chiêu Hoàng hiếm muộn, vợ chồng Trần Thủ Độ sợ rằng sau này Thái Tông lập hoàng hậu khác thì cả nhà đều nguy nên âm mưu đưa chị của Chiêu Hoàng là Thuận Thiên công chúa , vợ của Hoài Vương Trần Liễu, anh ruột vua Thái Tông , hiện có mang 3 tháng thay thế em gái lên làm hoàng hậu. Hoàng hậu Chiêu Hoàng nghe mẹ nói về sự dàn xếp đó đã phải thốt lên :

 

“ Tôi biết, tôi biết hết …Bà là mẹ ta nhưng lại là vợ của kẻ đã bắt cha ta phải chết… trên gương mặt xinh đẹp của bà, ta thấy hai con mắt như hai lưỡi dao, trong cái trán bà toàn rắn ngoe nguẩy toan tính….tôi đã nhìn thấy hết …tôi đã nhìn thấy cha tôi thắt cổ năm tôi lên 8 tuổi đau đớn như thế nào?”.

 

Tuy mọi người đều nhận ra sự vô luân trong âm mưu của vợ chồng Trần Thủ Độ, nhưng ai nấy đều phải nhắm mắt tuân theo. Chiêu Hoàng ném vương miện hoàng hậu tuyên bố với mẹ, tức vợ Trần Thủ Độ :

 

“Hai đời vua ông cha ta lầm lỗi để đến nỗi trăm họ phiêu dạt , núi sông nghiêng ngửa , hoạ Thát Đát ngày một đến gần, từ đời đức Lý Anh Tông đã đến tận kinh thành Thăng Long này nhòm ngó và lăm le làm cỏ cả nước. Từ nay mấy người đã chính danh nhà Trần phải ra khỏi cõi quỷ quyệt, u mê mà sáng suốt chăm sóc thần dân”.

 

Chiêu Hoàng lên chùa đi tu , vua Trần Thái Tông phải lập Thuận Thiên tuy đã mang thai với người anh ruột của vua tức Hoài vương Trần Liễu lên làm hoàng hậu. Chỉ có Hoài vương không chấp nhận chịu mất vợ nổi quân làm phản chống lại triều đình . Cảm thấy có phần áy náy về sự xếp đặt tàn bạo của mình, Thái sư Trần Thủ Độ biện bạch :

 

Tôi không biết chữ, cũng không am hiểu nhiều đạo thánh hiền; nhưng tôi nghĩ có khác mấy ông nhà nho; nếu chỉ thuộc lòng mấy bộ kinh sử từ đời ông Chu Công, Khổng Tử ở tận đẩu tận đâu mà xoay chuyển được thiên hạ thì hóa ra việc đời quá dễ dàng khác gì trò con trẻ …Tôi biết các ông nhà nho cũng chửi tôi đấy, nhưng không dám chửi to vì sợ , nhưng tôi nghĩ phải làm thế nào cho được việc là cái lẽ của người cầm nắm việc lớn. Mọi chuyện đều là nhỏ chỉ việc nước là lớn , là đáng kể thôi…”

 

Bởi vậy mọi hành động xấu xa mọi thủ đoạn bỉ ổi của ông cũng đều là vì…quốc gia cả. Mục tiêu biện minh cho hành động, xem ra Trần Thủ Độ có vóc dáng của lãnh tụ cộng sản sau này.

 

Thế rồi vua Trần Thái Tông cũng chán việc triều chính, “bỏ ngôi vua như bỏ một chiếc giày rách”lên “rừng trúc Yên Tử … tự cởi trói, tìm tới cõi trong lặng, tìm biết cái lẽ còn mất, có không, vượt khỏi mọi nổi chìm ở xã hội này…”

 

Dọc đường lên “Rừng trúc”, vua Trần Thái Tông gặp một ông lão hòa thượng, ông này dùng rượu để thức tỉnh vua :

 

” Làm gì thì làm đừng quên cái bóng lạ thập thò ngoài hàng rào …nó rất giỏi cưỡi ngựa…ta nghe đã rất gần rồi ông ạ…”

 

Nó đây là giặc tàu - nỗi ám ảnh giặc ngoại xâm của dân tộc ta suốt mấy ngàn năm lịch sử . Chính vì nỗi lo đó, tất cả mọi người đã bỏ hết hiềm thù riêng tư và đoàn kết lại. Hai anh em vua Trần Thái Tông giải hoà với nhau khiến Trần Thủ Độ phải kêu lên :

 

“Tao là con chó trong nhà không biết hai anh em mày lúc nào hoà nhau lúc nào giận nhau. Có điều không bao giờ được mang cái cơ đồ nhà Trần này đổ xuống sông xuống biển, mấy thằng tướng nhà Nguyên nó chỉ cho một miếng là xong hết…”

 

Và rồi tất cả mọi người đều bỏ rừng trúc kéo về kinh thành Thăng Long để cùng chung lưng chuẩn bị chống giặc ngoại xâm. Vở kịch thấm đẫm tinh thần cao cả vì đại nghĩa của những con người trí thức như Lý Chiêu Hòang, Trần Thái Tông và còn nóng hổi tính thời sự cho tới tận bây giờ khi Trung Quốc lăm le nuốt trọn biển Đông, đặt ách thống trị lên đầu lên cổ dân ta. Hoá ra chỉ khi bứt khỏi những quy phạm nghiệt ngã của chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa, tài năng của Nguyễn Đình Thi mới thực sự lên tiếng trên trang giấy. Bởi thế sự nghiệp của ông còn lại với thời gian may ra có mấy vở kịch mà ông đã gặp biết bao phiền toái khi khai sinh ra nó.


 

Nổi tiếng hơn cả là “ Con nai đen”, vở kịch gây không ít phiền toái cho tác giả đến mức nhà thơ Xuân Sách phải nhắc tới trong thơ chân dung :

 

 Bay chi Mặt Trận Trên Cao ấy
 Quên Chú Nai Đen vẫn đứng chờ.

 

Về vở kịch này, Nguyễn Đình Thi đã từng kể với phóng viên báo Bông Trang Hội VHNT Sông Bé (số 2, tháng 10/1992) :

 

“Có lần tôi đi Liên Xô dự Hội nghị các nhà văn Liên Xô, được xem vở kịch rối Vua Nai. Vì không có phiên dịch nên không hiểu đối thoại, chỉ qua hình dung, động tác của nhân vật mà đoán ra cốt truyện, trong đó có tình tiết hồn ông vua nhập vào xác con nai.

 

Khi về nước, vào năm 1950, tôi nghĩ cốt truyện cho vở kịch nói được gợi ý từ Vua Nai. Vở kịch rối có nhiều nhân vật phụ, trong đó có tay phù thuỷ rất giỏi, nhưng tôi chỉ tập trung vào một vài nhân vật chính, xoay quanh hai cái ý chủ yếu là: hồn người nhập vào xác nai và pho tượng đá hễ nghe ai nói dối thì nó cười, để thể hiện chủ đề tư tưởng: nếu thích nghe kẻ nói dối thì sẽ mất người nói thật. “

 

Vậy là trong “Con nai đen”, - phóng tác theo “ Vua hươu “ của Gozzi, Tô Chiêm ông vua của thần dân, cũng được một ông lão tặng “một pho tượng có phép, không biết ai đã tạc nên. Nó biết ai nói thật nói dối. Nghe ai nói một câu không đúng với ý nghĩ thật trong lòng, thì trên mặt tượng sẽ tức thì biến đổi và pho tượng đá sẽ cười.”. Mô típ này nếu sử dụng để minh quân phát hiện gian thần , để “sự thật” lột trần cái “giả dối” , để dân gian hô to “vua cởi truồng” thì rất hay. Tiếc thay Nguyễn Đình Thi không dám “chơi bạo” thế, chơi “bạo” vậy vào thập kỷ 1960 nhất định sẽ mắc vào tội “thất trảm” mượn xưa nói nay, mượn con vật nói con người. Bởi thế ông chỉ dám sử dụng nó trong việc vua…kén vợ.

 

Các “ứng viên” sẽ phải tới trước “pho tượng” để được “sát hạch”. Lần lượt tiểu thư Lan, Đạo Đức phu nhân, vài người đàn bà nữa đều bị pho tượng “lật tẩy” là “giả dối”, không có tình yêu chân thật với vua. Trước đó , trong những năm tháng nằm gai nếm mật, Tô Chiêm đã có người yêu là Quế Nga . Lẽ ra, tới thời “cam lai”, nàng Quế Nga phải về cung lên ngôi hoàng hậu, vậy mà vì lý do không thể tin được, vì “bảo vệ uy tín cho Tô Chiêm” nàng dứt khoát dứt bỏ tình yêu :” . Anh Tô Chiêm, anh làm vua cả nước, trăm nghìn mắt nhìn vào, em chỉ là một người con gái quê mùa lam lũ, những người sang kẻ quí người ta sẽ gièm pha, nói ra nói vào, cười thầm anh…em yêu anh, cho nên em đã quyết lánh ra khỏi đời anh. Em đã định không bao giờ gặp lại anh nữa. “.

 

Nếu đúng vậy người ta phải nghi ngờ cái tình yêu Quế Nga dành cho Tô Chiêm liệu có thực là tình yêu ? Tuy nhiên đó chỉ là cái cớ tác giả gán cho nhân vật để tình yêu thêm phần …thử thách và sau cùng tất nhiên là nàng Quế Nga phải tìm về chàng Tô Chiêm để lên ngôi Hoàng Hậu.

 

Đọc đối thoại giữa “chàng” và “nàng”, giữa “quân vương và ái thiếp” mà lại cứ “anh anh em em” khiến người ta cứ ngỡ như họ là cặp tình nhân vào thời công nghiệp hoá, hiện đại hoá ngày nay:

 

TÔ CHIÊM : “Quế Nga, anh lại có em đây rồi, anh lại được nhìn thấy em thật đây rồi, không phải chỉ trong giấc mơ nữa.

 

Nếu trong “Vua hươu” của Mozzi, vở kịch xoay quanh chủ đề “cái thật và cái giả”,”cái cao thượng và cái ti tiện”, “cái đẹp và cái xấu” thì trong “ Con nai đen” cảm hứng chủ đạo của Nguyễn Đình Thi lại trượt theo cái “quán tính” điệu tâm hồn của thời đại : “lòng yêu nước chống giặc ngoại xâm” – đề tài thời thượng vào lúc đó. Vậy là trong triều chia hai phe. Phe chống “ngoại xâm”, yêu nước thương dân, dựa vào nước “láng giềng Đông Chiếu ( chắc là nước Trung Quốc) để giữ gìn bờ cõi gồm có vua Tô Chiêm, hoàng hậu Quế Nga, tướng Trung Dũng, “lão già”. Phe bán nước hại dân dựa vào nước Tây Qua ( chắc là nước Pháp ) gồm có : Quận Khung, công tử Đãng…Tất nhiên nhân dân đứng về phe chống ngoại xâm. Vậy chỉ còn thiếu vai trò lãnh đạo của Đảng nữa thôi là trong kịch “con nai đen” có cả một cuộc chiến tranh thần thánh chống ngoại xâm y hệt chiến tranh chống Pháp. Thế rồi phe “bán nước” “ cướp được ngôi chẳng mất một mũi tên hòn đạn, chẳng mất một ngày nằm gai nếm mật để tổ chức tạo phản, mà chỉ bằng một “mẹo vặt” khiến vua biến thành một anh ngờ nghệch, cả ngố đến mức…khó tin. Nguyên là “ông lão” – người đã tặng vua pho tượng đá phát hiện nói dối – có một con vật thân thiết là “con nai đen”. Trong buổi đi sắn công tử Đãng âm mưu bắn nó trọng thương đến chết trong niềm thương tiếc của vua Tô Chiêm .Thế là Quận Khung nhảy ra làm trò lừa đảo. Hắn nói có thể cứu được con nai với điều kiện vua phải …chết thay cho nó..

Thế là vua Tô Chiêm tình nguyện…chết để lấy “máu nóng mới chết chưa quá hai khắc “ cứu mạng con nai. Thật là một sự hy sinh ngớ ngẩn , ngu xuẩn , vô lý hết chỗ nói chứ chẳng phải là nhẹ dạ như các nhà phê bình “nhận xét”. Vô lý vậy mà “cái sự tình nguyện chết” của vua Tô Chiêm đó lại là cái “chốt” của vở kịch. 

 

Sau khi vua Tô Chiêm chết rồi, Quận Khung bắt hồn vua nhập vào xác con nai đen, còn chính hắn lại nhập vào xác Tô Chiêm để lên làm vua. Vậy là từ nay hoàng hậu Quế Nga phải chung sống gối chăn với “hồn anh hàng thịt, da anh Trương Ba” tức xác của vua Tô Chiêm mà hồn lại tên Quận Khung, đại gian thần. Nắm được ngôi vua rồi, Quận Khung bán nước” cho Tây Qua, trừ khử trung thần trong khi đó hồn vua thật trong xác con nai đen cứ…chạy nhong nhong ngoài rừng, đất nước sắp rơi vào thảm hoạ nô lệ cho giặc ngoại xâm.

 

Cái “nút” của vở kịch bị thắt chặt đến thế thì không hiểu ông tác giả sẽ mở sao đây ? May quá ông lão hát rong già quá, đã đến tuổi…chết . Lập tức vua Tô Chiêm đang nhập hồn trong con nai đen “dọn” ngay sang xác “lão già” để được nói năng, đi lại trở lại là con người. Đọc tới đây bạn đọc có thể thắc mắc : vậy nếu ông lão hát rong chưa chịu…chết già thì sao ? Thì Quận Khung vĩnh viễn lên làm vua, nàng Quế Nga xinh dẹp vĩnh viễn làm vợ lão và đất nước vĩnh viễn rơi vào ách ngoại xâm. Vậy là ông nhà văn đã “cởi nút” chỉ bằng một cái cớ hoàn toàn ngẫu nhiên nếu không nói là …”có nhẽ đâu thế?”.

 

Vua Tô Chiêm sống lại thành người nhưng trong cái xác của ông lão hát rong thì sao mà cướp lại được ngai vàng, trở lại là Tô Chiêm ngày xưa ? Việc tầy đình vậy mà ông nhà văn cho nó diễn ra quá dễ dàng chỉ trong một cuộc đấu khẩu giữa “xác vua” ( vua giả Quận Khung) với “xác ông lão hát rong – vua thật Tô Chiêm) :

XÁC ÔNG LÃO - Hỡi các tướng sĩ cùng nhân dân, các ngươi hãy nhìn xem trong kinh đô chúng ta đây, cung điện cổ kính còn chưa hết mùi hôi tanh của giặc để lại. Về nhà quê, làng mạc đồng áng còn ngập cỏ hoang. Nơi đâu cũng thấy người già đông hơn trai trẻ,đàn bà nhiều hơn đàn ông. Nơi đâu cũng thấy bà goá vất vả nuôi con côi. Vậy mà thằng phản nghịch kia lại toan rước quân giặc vào. Nó lại muốn cho xe ngựa dát vàng dát bạc của bọn cướp nước và lũ chó bán nước chạy nghênh ngang đầy đường còn chúng ta thì phải cụp đầu, đi len lén trong bóng tối. Nó lại muốn mắt chúng ta luôn luôn nhìn xuống đất, miệng chúng ta phải khâu lại. Ta hỏi các tướng sĩ cùng nhân dân, chúng ta có thể đầu hàng quân tây-qua không?

 

Chỉ mới nghe doạ dẫm vậy “vua giả” Quận Khung đã chào thua, rút kiếm đâm vào cổ tự vẫn thì không hiểu bản lãnh cướp ngôi biến đâu mất ?

 

Ngày nay đọc lại “ Con nai đen” người ta ngỡ ngàng không hiểu vì sao nó lại bị “đánh”. Theo lời kể của chính nhà văn Nguyễn Đình Thi :

 

Vở kịch được Đoàn kịch nói Nam Bộ dựng…diễn tại Nhà Hát Nhân Dân, đông người xem, không còn vé mà bán..Sau khi diễn, có hai luồng ý kiến: một là cho vở kịch đặt ra vấn đề triết học sâu, một bảo là vở kịch phản động, ám chỉ Cải cách ruộng đất - đưa ra hình ảnh kẻ thù bên ngoài len vào bên trong đánh người thân tín (qua chuyện Quận Khung đánh Trung Dũng). Trong giới cũng có người như Học Phi đập mạnh vở kịch này.

Một hôm, ông Trường Chinh và Hoàng Văn Hoan đến Nhà Hát Nhân Dân xem. Tôi đứng xa xa, thấy Hoàng Văn Hoan ghé tai ông Trường Chinh nói cái gì đó, tôi thầm nhủ: "Bỏ mẹ rồi!". Sau đó có lệnh cấm diễn. Trong cuộc họp nội bộ, ông Trường Chinh lên án Con nai đen gay gắt lắm, bảo xấu hơn cả "Nhân Văn", ác hơn. Tôi đứng lên nói không đồng ý với nhận xét đó và đưa ra ý kiến của mình. Nhưng sau đó vở kịch vẫn không được diễn.

 


Tôi hiểu nguyên nhân vì hồi ấy ông Trường Chinh chịu trách nhiệm về Cải cách ruộng đất, nên khi nghe có kẻ nói vở kịch của tôi ám chỉ Cải cách ruộng đất, xử trí oan nhiều cán bộ trung thành với Đảng, mới nghi ngờ, thành kiến với vở kịch…”

 

Quả thực đọc nát cả sách cũng chẳng thấy “Con nai đen” ám chỉ cải cách ruộng đất hoặc ám chỉ “Đảng Chính phủ” ở chỗ nào ? Ngày nay giải mã ở đủ các tầng ngữ nghĩa cũng chỉ thấy câu chuyện có …”nhiêu đó” mà lại mượn của Gozzi, chẳng nâng được “ Vua hươu” vượt lên trên cái tầm của chính nó theo kiểu Nguyễn Du viết Truyện Kiều từ “Đoạn trườngTân Thanh” , ngược lại, ngôn ngữ kịch của “ Con nai đen” khá sơ lược. Nó vẫn chỉ xây dựng được những tính cách “một chiều”, đơn điệu theo kiểu Moliere chứ hoàn toàn chưa vượt lên xây dựng được những tính cách nhiều chiều, đa dạng theo kiểu Shakespeares, bởi thế sau này nó cũng chỉ được dựng lại ở một vở kịch mang tên “Truyền thuyết một tình yêu” vui và câu khách.

 

Sau hơn nửa thế kỷ cầm bút, nhớ tới Nguyễn Đình Thi trước tiên người ta nhớ trường ca “ Người Hà Nội “ bất hủ, dường như nó đã trở thành “ bài hát chính thức” của bao nhiêu thế hệ người Hà Nội dù còn ở lại thủ đô hay đã đi khắp bốn phương trời. Nhớ tới Nguyễn Đình Thi, người ta nhớ tới “Đất nước“,“Lá đỏ”, “Nhớ”…. Và chắc còn ít người biết tới lời nhắn gửi của ông qua bài thơ để lại trước lúc ra đi vào cõi vĩnh hằng :

 

Thôi xin tha cho mọi lỗi lầm
Quên cho những dối lừa khoác lác
Tôi biết tôi đã nhiều lần tàn ác
Và ngu dại còn nhiều lần hơn
Mong anh em hiểu đừng cười
Tôi gửi lại đây chìa khoá
Tất cả cửa nhà tôi đó
ngổn ngang qua tạm cuộc đời

 

Nhật Tuấn

 09-2012

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn