Hành trình đi tìm “sự thật’ và “nói lên sự thật” của các nhà văn “vượt Trường Sơn đi cứu nước” quả có gian nan, vất vả hơn nhiều lắm. Ngoại trừ vài anh như nguyên Bí thư chi bộ báo Văn Nghệ Xuân Vũ, mới qua một trận “trèo rừng, lội suối” đã la lối “Xương trắng Trường Sơn”, bỏ của chạy lấy người, còn đa số các nhà văn đều “đường đi đã đến” .
May mắn nhất Anh Đức, chỉ dự Đại hội mừng công mãi trên rú, cách “Hòn Đất” cả trăm cây số, qua vài buổi hỏi han gương hy sinh của chị Lê thị Ràng, đã bắt tay viết ngay được cuốn tiểu thuyết “Hòn Đất” lẫy lừng cả nước. Mặc dù sau này khi hoà bình, vào tận nơi nhìn “sự thật”, ông nhà văn té ngửa khi thấy cái hang Hòn ông cho cả tiểu đội du kích vào “trốn Mỹ” trong đó chỉ to ngang cái … hốc đá, con suối Lươn thơ mộng chỉ bằng cái lạch nước, ông vẫn cứ tự hào về đứa con tinh thần của mình đã nói lên được “sự thật “ chiến trường. Cái “sự thật “ đó là “người đằng nguỵ” như Thiếu tá Sành thì ác thiệt ác, “người đằng mình” như chị Sứ thì anh hùng thiệt anh hùng. Căn bệnh “giản lược hoá” con người và sứ mạng “phục vụ chính trị” đã làm nhà văn ta đuổi cổ biết cao “con chó của sự thật” ra khỏi tác phẩm của mình.
Ba mươi lăm năm nhìn lại, rõ ràng “ tắc đẻ” đang trở thành vấn nạn của văn học chiến tranh. Vì sao vậy ? Phải chăng sự bề bộn của nền kinh tế thị trường đã làm phân tâm các nhà văn ? Nào lo “chạy ghế, chạy nhà, chạy đất”, “chạy tiền đầu tư sáng tác, chạy đi nước ngoài “” chạy tiền cho con du học…” …Nào lo “giao lưu” với các quý vị “ngày xưa là kẻ thù , ngày nay là chiến hữu” trong William Joiner Center để may được một xuất đi Mỹ, dịch sách…? Phải chăng “vốn sống ở chiến trường” quá lâu trong ký ức ngày càng phai mờ ? Thế nhưng toạ đàm “viết về đề tài chiến tranh”, các nhà văn lại thường đòi hỏi “ cần có độ lùi” (recul) để ngắm nghía “bức tranh của cuộc chiến” cho toàn diện. Than ôi, cái “recul” này không biết còn kéo dài cả mấy kilômét “thập kỷ” nữa đây ?
Khổ nỗi 35 năm qua, rất nhiều “sự thật ở chiến trường” đã được phơi bày trước mắt các nhà văn qua tiếp xúc với chính đồng bào miền nam, qua sách báo trước 1975. Hoá ra “người đằng nguỵ” chẳng phải ai cũng “ác thiệt ác” như thiếu tá Sành của ông Anh Đức, “ người đằng mình” không phải ai cũng “anh hùng thiệt anh hùng” như “bà mẹ cầm súng “của Nguyễn Thi. Hoá ra“sự thật ở chiến trường” phức tạp, phong phú, đa đoan hơn là các nhà văn tưởng tượng nhiều lắm.
Tất nhiên các nhà văn rường cột của Nhà nước không bao giờ thừa nhận có chuyện “tắc đẻ”. Ngay từ 8 năm trước, năm 2003, nhà thơ Trần Đăng Khoa đã trấn an báo chí :
” Văn học ta không hề bế tắc .Chúng ta chẳng việc gì phải bi quan. Chúng ta từng được mùa với tiểu thuyết của Nguyễn Khắc Trường, Bảo Ninh và truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Hiện nay, chúng ta vẫn có những cuốn sách hay, như truyện ngắn Ma Văn Kháng, tiểu thuyết lịch sử Nguyễn Xuân Khánh, gần đây nhất là cuốn Giàn thiêu của Võ Thị Hảo…. Đó là những dấu hiệu tốt lành để chúng ta hy vọng. Văn học ta không hề bế tắc như một số người lầm tưởng. “.
Trong những dẫn chứng của nhà thơ, chỉ thấy có “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh, dăm bảy truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp phần nào gói ghém được sự thực còn tươi của đời sống, nhưng đó là chuyện của cả vài chục năm trước, còn bây giờ cả hai quý vị này xem ra khó mà rặn được đứa con nào khôi ngô tuấn tú như đứa đầu lòng.
Các nhà văn viết về đề tài chiến tranh đã vậy , thế còn các ông “dân sự” trong gần 1000 hội viên Hội nhà văn trong mấy thập kỷ qua đã “nói lên sự thật “ như thế nào ?
Trong hai năm ngắn ngủi Đảng “xả xú páp”, cởi trói cho văn nghệ, các ông bà nhà văn đã đẻ toé loe không khác gì quý bà, quý cô một thời tranh nhau đẻ sinh quí tử tuổi Quý Mùi, tuy nhiên “ còn lại với thời gian” cũng chỉ đếm được trên đầu các ngón tay : Một số truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp, “ Đi về nơi hoang dã” của Nhật Tuấn, “ Hồn Trương Ba da hàng thịt” (kịch) của Lưu Quang Vũ, “Thiên sứ” của Phạm Thị Hoài ( Hội viên chưa… kết nạp), “Thiên đường mù” của Dương Thu Hương ( Hội viên đã … khai trừ), “ Miền hoang tưởng” cuả Nguyễn Xuân Khánh và sang thời “ hậu cởi trói “ có thể kể thêm “ Nỗi buồn chiến tranh “ của Bảo Ninh,” Chuyện kể năm 2000” của Bùi Ngọc Tấn, “Mảnh đất lắm người nhiều ma” của Nguyễn Khắc Trường,“ Bến không chồng” của Dương Hướng, “Thời xa vắng “ của Lê Lựu, “Đi tìm nhân vật” của Tạ Duy Anh... Những tác phẩm này phần nào đáp ứng được một cách văn chương yêu cầu của ông nhà văn Phủ Ngọc Tường :” Nhà văn cần phải nói lên sự thật…”.
Thế còn hằng hà sa số các tác phẩm khác từng được báo chí làm rùm beng, từng được các thứ giải thưởng văn học của Nhà nước thì sao ? Nào “ Gặp gỡ cuối năm”,” Cõi nhân gian bé tí”,“ Thượng đế thì cười”của Nguyễn Khải (thật ra “độc giả thì cười” thì đúng hơn, vì cuốn này là sự bày tỏ lòng trung thành của tác giả với cách mạng, phân bua với văn hữu, nhưng chẳng may lại véo vào chỗ nhạy cảm nhất là “quốc hội” nên mới ăn đòn), nào “Cơ hội của chúa” của Nguyễn Việt Hà, nào “Những đứa trẻ không chịu chết già” của Nguyễn Bình Phương, nào “Đêm thánh nhân” của Nguyễn Đình Chính, “ Ngược dòng lũ” của Ma văn Kháng, tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Xuân Khánh, Hoàng Quốc Hải vân vân và vân vân ? Xin hãy “wait and see”, xin hãy chờ ông ISO 9000 của lịch sử kiểm định và cấp chứng chỉ.
Tuy nhiên chẳng phải ông nhà văn nào cũng muốn “bảng vàng bia đá”, “ISO của lịch sử”, còn nhiều người vẫn cho rằng “ chuối chín cây là ngon nhất”, sách ra cứ bán ào ào là được. Đại biểu xứng đáng nhất cho thứ “ văn học cóc cần hậu thế” này là nhà văn nổi tiếng một thời với cuốn sách gây chấn động “ Cù lao Tràm” và vẫn còn đang rất nổi tiếng với hàng loạt các kịch bản phim truyền hình nhiều tập.
Để hiểu được “công nghệ sáng tác” của các nhà văn chính thống , những người mà trước đây, trên trang nhà Talawas, ông Nguyễn Hữu Liêm xếp vào loại “văn chương tào lao”, ta nhận thấy hầu hết các tác phẩm của họ đều phải theo một quy tắc chung : muốn viết gì thì viết, viết đến cả “Giám đốc công an hiếp dâm, giết người “ (Nhân danh công lý của Lưu Quang Vũ), “ nông dân biểu tình” ( Đất làng của Nguyễn thị Ngọc Tú), xí nghiệp sắp sập tiệm ( Tôi và chúng ta của Lưu Quang Vũ )… nhưng dứt khoát phải có một nhân vật là công dân của Nhà nước xã hội chủ nghĩa , là “người của Đảng” đứng ra dẹp loạn, duy trì trật tự xã hội “xã hội chủ nghĩa”.
Còn nhớ làng thôn Nam bộ trong " Cù Lao Tràm" của Nguyễn Mạnh Tuấn vào thời kỳ đầu hợp tác hóa nông nghiệp rất rối ren, lộn xộn. Không sao cả, đã có chị Năm Trà sẵn sàng cơm nắm cơm đùm đi ra Bắc học tập kinh nghiệm xây dựng hợp tác xã để mang về Nam ổn định trật tự và đưa phong trào tiến lên (!)
Cái “tính công dân” trong tác phẩm văn học đó, hoặc hoá thân vào nhân vật, hoặc nhà văn đứng ra thủ vai là bắt buộc, là “chuẩn tắc” đã hằn sâu trong tâm não nhà phê bình và ngay cả độc giả đến mức tác phẩm nào không có cái đó lập tức nếu không bị coi là bốc mùi “tà khí” , là văn chương “bàng thống” thì cũng bị loại ra khỏi “tầm ngắm”. Không một anh nhà văn nào dám đi đến cùng một sự kiện để làm bật ra sự thật lớn lao của đời sống thời nay là đã đến lúc một lần nữa…bác Hồ phải ra đi tìm đường cứu nước.
Bởi thế yêu cầu của ông Phủ Ngọc Tường “nhà văn phải nói lên sự thật” là chuyện tào lao trong xã hội này.
“Một nửa cái bánh mì vẫn là bánh mì” nhưng sự thật dù đã được mô tả tới 90 phần trăm thì cũng vẫn chưa phải là sự thật. Trong cái kho tàng văn học xếp chất ngất của Hội nhà văn VN, thử coi đã có cuốn sách nào “nói lên sự thật” như ông Tường yêu cầu ?
Hàng loạt những cây bút nổi danh một thời “chống Mỹ” – Nguyễn Minh Châu, Anh Đức, Nguyễn Quang Sáng, Nguyễn Khải, Ma văn Kháng, Lê Lựu, Chu Lai… .có ông nào dám tự hào rằng ta đã đưa ra “ một cái bánh mì của sự thật” chăng ? Không, không có ai cả. Và sự thật vẫn luôn luôn là con chó bị đuổi ra khỏi nhà. Cái mà các quý vị vẫn “nói lên” trong tác phẩm chỉ là sự thật đã được nhào nặn để đảm bảo cho một trật tự xã hội : xã hội xã hội chủ nghĩa.
Ngay cả cuốn truyện vừa “ Cha và con và…” ưng ý nhất của Nguyễn Khải thì "phê bình gia" Vương Trí Nhàn cũng dán ngay cho cái nhãn “triết luận về chủ nghĩa xã hội” tất nhiên là theo chiều hướng khẳng định nó. Nếu ngày xưa, văn học chính thống đòi hỏi “tính Đảng, tính giai cấp, tính nhân dân” thì bây giờ tuy không nói rõ ra, nhưng cả ba tính đó đã hoà nhập vào một cái duy nhất : “tính công dân” của Nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Tất nhiên, yêu cầu đó không được đưa ra một cách thô thiển và trắng trợn như ngày xưa, nhưng những chuẩn tắc của nó đã được “quán triệt” từ khi người viết còn ngồi lớp mẫu giáo, phổ thông…cho tới khi cầm bút viết tác phẩm đầu tay. Tiếc thay, các nhà phê bình cũng vậy và cả bạn đọc cũng thế.
Văn học Sàigòn sau 1975 là một ví dụ tiêu biểu cho sự “kính nhi viễn chi” sự thật của các cây bút trẻ mà tới ngày 30 tháng 4 mới đứng vào hàng ngũ cách mạng.
Vốn không phải “con đẻ” như mấy anh Bắc kỳ mới dzô, lại “khiếp vía” những giai thoại về những :”áng văn bị trừng trị” trước đó ở miền Bắc xã hội chủ nghĩa, nên “mấy em” chọn ngay một vị thế cho mình : tránh xa chuyện “thời thế” , cứ khoanh ngòi bút vào chuyện “phòng the”, chuyện gia đình là…chắc ăn.
Vậy là đã ra đời một dòng “văn chương xirô’ với những tên tuổi được Hội nhà văn TP Hồ Chí Minh “lăng xê “ hết mức “ : Mường Mán, Đoàn Thạch Biền, Lý Lan, Nguyễn thị Minh Ngọc, Lê thị Kim… một thời được coi như những “con gà” của thành uỷ TP Hồ Chí Minh. Trong khi đó mấy anh Bắc kỳ dẫu đã có hộ khẩu thành phố cả 30 năm nay vẫn bị coi là “ngụ cư” nên dầu có viết “thực” mấy chăng nữa, vẫn không được coi là gương mặt tiêu biểu của văn chương “Sàigòn giải phóng”. Các “em út” đã nhát sợ như vậy lại thêm các bậc “cha chú” cứ khăng khăng giữ lại các quan niệm văn chương thời bao cấp, trách gì có năm Uỷ ban nhân dân thành phố HCM không trao được giải thưởng cho anh nhà văn nào mà giành hết cho mấy anh…anh cải lương. ?
Vậy sang thời “kinh tế thị trường” các cây bút vẫn tự nhận là “thế hệ thứ tư” liệu có làm được cái việc “nói lên sự thật” như ông Phủ Ngọc Tường yêu cầu ?
Trả lời câu hỏi này, ta cần đi ngược thời gian về thời các quý vị Nhân văn giai phẩm còn đang bị “xử lý nội bộ”.
Còn nhớ ngày lĩnh giải Nobel, Andre Gide có nói một câu đại ý:
” Trong một thời đại càng bị kìm kẹp, hiệu năng của đầu óc con người càng đạt tới mức cao nhất…”.
Than ôi, ở nước ta thì ngược lại. Ở vào thời đại nhà văn bị bủa vây tương tự như Liên xô, ta không có được những tác phẩm tràn đầy sự thật của đời sống như Pasternack, Solgiênhítxưn…cũng không có được một dòng văn học “phản kháng samizđát” (tự xuất bản). Sợ đòn vọt, sợ cắt tem phiếu, sợ mất hộ khẩu, sợ đi chăn bò ở Mộc Châu, sợ đi đội than ở Cẩm Phả… phần lớn những nhà văn Nhân văn Giai phẩm còn cầm bút sau đó đều tự dâng tác phẩm lên “anh Năm “ , tức “kính chuyển đồng chí Trường Chinh” để bày tỏ sự “an phận”, không chống đối.
Khi cánh cửa mở vào “sự thật của đời sống” đã đóng lại rồi, thì các nhà văn, nhà thơ “phát huy truyền thống” của nhóm “Xuân thu nhã tập “ ( Nhài đàn rót nguyệt vú đôi thơm), tìm tới “cuộc chơi với chữ” cho…an toàn.
Những chủ soái của phong trào Nhân văn Giai phẩm như Trần Dần, Đặng Đình Hưng, Hoàng Cầm, Lê Đạt… đều đắm mình trong trò chơi lý thú này, cố tạo cho mình một gương mặt mới bằng bẻ cong , lật ngửa, xáo trộn “những con chữ” , gây hình thái mới lạ, kích thích trí tò mò của người đọc và mỗi nhà thơ đều chui vào “phòng thử nghiệm những con chữ “ của riêng mình.
Nào :
“Sáng bảnh-bành-banh
mày vẫn ngủ-ngù-ngu.”
hoặc :
“em dài man dại
em dài quên che đậy
em dài tê tái
em dài quên cân đối
em dài bối rối”
hoặc :
“ Poème – roman à accompagnement
jờ
joạcx “
của chủ soái Trần Dần, rồi thì “Ô mai” của Đặng Đình Hưng, “U gì “ của Hoàng Cầm…mở đầu cho dòng thơ “chơi với chữ”, “thơ ngó lời” khai sinh ra lớp đàn em như Lê Huy Quang :
Em dài mua mùa may…
Em dài hai bàn tay…
Em dài đi vô lối…,
Dương Tường :
“ tôi thường jặt tôi như người đàn bà jặt trăng…zòm zèm cửa sổ…)
và sau này là Hoàng Hưng “vụt hiện” :
“Háp háp háp…con gà quay, con gà quay…).
Ở đây ta chưa bàn tới “cơ sở lý luận” về thể loại thơ “chơi với chữ”, cái đó xin giành cho các quý vị trên diễn đàn đemthu, Tiền vệ, Hợp Lưu, tạp chí Thơ….ta cũng khỏi nhắc tới chuyện “ký hợp đồng với những con chữ” của nhà văn gái Phạm thị Hoài… Thôi thì hàng thịt bán thịt, hàng cá bán cá, ở đây ta chỉ khoanh lại cái yêu cầu “ nói lên sự thật” của nhà văn Phủ Ngọc Tường .
Từ thủa khai sinh lập địa, Chúa đã dậy :” Khởi thuỷ là lời”, và rồi cả ngàn năm sau đó , kịch tác gia William Shakepeare lại thêm rằng:
“Lời mà không có tư tưởng thì bay sao được lên thiên đàng”.
Đảng ta thì lại nói :
” muốn bay đâu thì bay, lên thiên đàng hay xuống địa ngục mặc kệ chúng mày, miễn là “lời” đừng có tư tưởng”.
Ở đây, chính là tư tưởng “phản kháng”, “xét lại” hoặc “ chống Đảng”. Vậy thì các nhà thơ “ngoài lời” cứ thoải mái mà “ chơi với chữ”, “thử nghiệm chữ ”, “bẻ cong, xáo trộn chữ”,cứ mạnh dạn ký hợp đồng với “con chữ” đi nhé, cứ “ ngó lời”, cứ “vụt hiện”…miễn sao không có “tư tưởng” hoặc nếu có thì cất kỹ dưới đáy các “con chữ” để các anh Mít nhà ta có trợn mắt lên cũng không nhận ra là OK rồi.
“Tôi khóc những người bay không có chân trời
Lại khóc những chân trời không có người bay”
(Trần Dần)
Hai câu thơ bóng gió quá xa xôi như sao hôm sao mai về “những người mơ mộng không được phép mộng mơ” và “một xã hội đã chết hết cả những người mơ mộng ” của thi sĩ họ Trần đâu đã “thần Siêu thánh Quát” gì cho lắm mà rất nhiều “trang nhà văn học” trích dẫn và kéo lên tít tận chín tầng mây xanh .
Không phải vô cớ mà một dạo thơ văn Trần Dần được khá nhiều các web site đồng loạt bốc thơm như là một “hiện tượng bí ẩn “, “chủ soái viết tự động”,“con hùm, con hổ” trong thi ca Việt Nam.
Vì sao vậy ?
Tài năng nghệ thuật và tinh thần phản kháng của nhà thơ ?
Không hẳn vậy, chính vì “công nghệ” của thơ ông rất phù hợp với “tạng” thơ lớp trẻ bây giờ. Né xa “chính trị” và “ thoải mái ngôn từ” – theo đúng tinh thần “ muốn làm gì thì làm, miễn đừng động tới “ghế” của mấy ổng” – “công nghệ Trần Dần” đã giúp các nhà thơ trong nước rất dễ nổi tiếng mà thơ vẫn in dài dài, một số cây bút hải ngoại tha hồ đăng đàn khoát luận mà khỏi lo Nhà nước đóng trang web, và vẫn còn có cửa xin … visa về Việt Nam tiếp xúc văn nghệ sĩ, vui chơi , tiêu xài xả láng “giá bèo”.
Ngày nay được hỗ trợ bởi “internet” và xả cảng “đùi vú”; “công nghệ Trần Dần” càng mở cho các cây bút thuộc “thế hệ thứ tư” một chân trời văn học rộng thênh thênh.
Nếu như ngày xưa, truyện có hơi hướng phản kháng như “Hòn đá lang thang” của Lê Bầu, “ Hoang tưởng trắng” của Xuân Khánh… thơ của vài “nhà thơ chân đất” như Lê Huy Quang, Hoàng Hưng, Phan Đan…chỉ dấm dúi truyền tay nhau đọc trong bạn bè thân thiết, thì bây giờ các tác phẩm gọi là “phi chính thống” của các cây bút “dấu mặt” như Phan Đan, Nguyễn Quốc Chánh, Bùi Hoàng Vỵ, Trần thị Ngh., Nguyễn Thuỵ Long ….thả sức mà xuất hiện trên mạng internet hoặc in thành sách ở hải ngoại mà vẫn sống “phủ phê” khỏi lo bắt bớ. Các nhà thơ thuộc thế hệ thứ tư còn “sướng “ hơn nữa, vừa được in thả dàn trong nước, vừa được “tái bản” tức thời trên mạng với những lời “bốc thơm” mà ngay đến các đồng chí Tố Hữu, Sóng Hồng … lúc sinh thời cũng chẳng có được.
Vậy thì diện mạo thế hệ “ A còng (@) “ trong văn chương có gì mới ?
Nhật Tuấn
07/2011