BÀI ĐỌC NHIỀU NHẤT
(Xem: 73335)
(Xem: 62240)
(Xem: 39425)
(Xem: 31172)
SỐ LƯỢT XEM TRANG
0

Nhà giáo một thời nhếch nhác (7)

27 Tháng Tám 201312:00 SA(Xem: 1576)
Nhà giáo một thời nhếch nhác (7)
50Vote
40Vote
30Vote
20Vote
10Vote
00

19



NGƯỜI BẠN CŨ

 

Từ năm 1976, dân chúng miền Bắc vào Nam tìm thăm thân nhân ngày càng đông. Trong dịp này, tôi cũng có cơ hội được gặp lại Duy, một anh bạn kể như là một trong ba người bạn thân thiết nhất từ thời còn cắp sách đền trường, trong những năm theo bậc trung học.

 

Hồi đó, hầu như ngày nào chúng tôi cũng gặp nhau. Ban ngày thì cặp kè trên đường đi học. Buổi tối sau khi cơm nước xong lại đã tìm đền nhà nhau, khi thì trao đổi bài vở nhà trường, khi thì bàn luận với nhau đủ thứ chuyện trên trời dưới biển. Tôi học được ở Duy rất nhiều điều. Chẳng những về luận văn đã rất khá, anh còn có biệt tài viết Nhật Ký rất lưu loát, rất chăm chỉ đều đặn. Hầu như anh không bao giờ bỏ sót một ngày nào là không ghi chép một, hai trang trong cuốn sổ riềng của mình. Tôi thực tình không hiểu anh tìm ở đâu ra mà lắm ý tưởng để có thể viết được bền bỉ đến thế. Có đôi lần anh mở hé cho tôi đọc một vài trang. Cũng cỏ khi anh chỉ thuật lại cho tôi nghe vài ý tưởng mà anh vừa ghi chép xong. Tất nhiên là tôi chẳng thề nhớ được điều gì, nhưng anh đã để lại trong đầu óc tôi một ấn tượng về con người của anh, đa sầu đa cảm, hay tự đặt ra cho mình những thắc mắc vẩn vơ rồi tự lý giải lấy cho mình. Còn tình yêu của anh thì cũng rất phong phú. Tôi thấy nhiều lần anh khoe là đã bị ngây ngất vì một hình bỏng nào đó. Có người thì anh mới thoáng nhìn thấy là đã yêu rồi mặc dù chưa hề biết gốc gác của người ấy ra sao. Có người thì anh biết chỗ ở, biết thói quen ra vào, biết cả ngôi trường cô ta đang học nhưng có mỗi cái tên thì anh chưa “điều tra" ra. Vậy mà hình bóng của cô cũng đã chiếm nhiều trang giấy trong tập nhật ký của anh. Cái cung cách vung vít tình cảm một cách vô cùng lãng mạn ấy, thật không còn từ ngữ nào đúng hơn mâ tôi gán cho anh, đó là con người của anh "đặc sệt chất tiểu tư sản". Khi Hiệp định Genève được ký kết vào tháng 7 năm 1954, tôi theo gia đình vô Nam, còn anh thì ở lại Hà Nội. Tnrớc lúc chia tay, chúng tôi~chỉ còn kịp kéo nhau đi tiệm chụp chung một tấm hình. Khi ảnh được rửa ra 2 tấm, chúng tôi cùng ghi ở phía sau một lời hẹn hò: "Hai năm sau chúng mình sẽ gặp lại. ".

 

Cái mốc thời gian ấy chẳng bao giờ tới cả . Vì năm 1955, ông Phạm văn Đồng có gửi thư cho thủ tướng Ngô Đình Diệm, yêu cầu mở hội nghị hiệp thương để bàn về việc tổng tuyển cử nhằm thống nhất đất nước. Nhưng Thủ Tướng Ngô Đình Diệm đã bác bỏ đề nghị này dựa vào lý do chính phủ QGVN không ký vào hiệp định Genève và nhất là vì không có bằng chứng nào cho thấy miền Bắc đặt quyền lợi quốc gia lên trên quyền lợi Quốc tế Cộng sản . Thế là cuộc chia tay hẹn hò "hai năm"giữa hai chủng tôi phải đợi mãi hơn 20 năm sau chúng tôi mới có dịp gặp lại tại căn nhà của tôi ở bên Gia Định. Mà Duy lại đã xuất hiện rất bất ngờ, không hề loan báo trước. Trên tay anh chỉ có mảnh giấy có vài chi tiết của một bản đồ vẽ nguệch ngoạc. Chắc là ai đó ở Hà Nội đã cho anh địa chỉ của tôi và anh đã mò mẫm tìm được tới . Khi anh sừng sững bước vào, tôi không thể nhận được ra anh. Có vẻ như anh cố tình không nói năng thêm gì để xem tôi có nhận ra anh hay không. Phải mất cả phút đồng hồ để đầu óc của tôi bới tung quá khứ mong tìm ra một tên tuổi quen thuộc. Rồi tôi buông một câu sững sờ :

 

- Duy phải không ?

 

Chúng tôi mừng tủi nắm chặt tay nhau. Cái hẹn hai năm tính ra đã tới hai mươi hai năm mới được thực hiện. Bây giờ thì tôi có thế nhìn ngắm kỹ để quan sát những đổi thay ở người bạn cũ. Anh già hơn trước dĩ nhiên, nhưng tôi không thể ngờ anh lại có thể già đến thế. Mới ngoài bốn mươi mà tóc của anh đã nhiều sợi bạc, nước da trắng trẻo rất công tử bột ngày xưa nay đã khô cằn và đen sạm. Nhưng sự thay đổi nơi anh rõ nhất là ở nụ cười. Gặp nhau vui vê sao nụ cười của anh vẫn héo hắt như chỉ cố gượng vui. Ngay cả khi anh nói chuyện, tôi thấy anh luôn có vẻ ngập ngừng. Đâu rồi người bạn năm xưa của tôi với đủ tính chất hồn nhiên, tươi trẻ, năng nổ, ồn ào ?

 

Tôi giữ anh lại suốt một ngày để có dịp hàn huyên mặc dù nhiêu lúc anh nằng nặc đòi ra đi, như thể sự lưu lại bất an này đã đem lại cho anh nhữmg cảm giác bất an. Trong tình cảnh như thế, câu chuyện giữa hai chúng tôi tất nhiên sẽ chẳng hào hứng gì như khởi đầu tôi đã nghĩ. Tôi tưởng rằng sau ngần ấy năm xa cách, chúng tôi sẽ có biết bao nhiêu câu chuyện để hàn huyên, bao nhiêu nỗi niềm để chia sẻ. Nhưng niềm vui của tôi cứ bị vơi lụi đi dần khi thấy cung cách trò chuyện của anh không có vẻ tự nhiên. Thỉnh thoảng, một người trong gia đình tôi đi ngang qua thì dù đang nói gì anh cũng im bặt, đôi mắt láo liên, liếc ngang liếc dọc cứ như một kẻ phạm tội luôn luôn lo lắng mình bị rình mò.

 

Nhưng dù giữ ý cách nào thì anh cũng tiết lộ cho tôi được biết nhiều chi tiết buồn thảm trong đời sống của anh. Người anh cả của anh trước đây là một quân nhân phục vụ trong ngành Quân Thứ Hành Chánh Lưu Động (GAMO -Groupe Administratif Operationnel) một loại tổ chức gồm cả quân sự lẫn chính trị do Pháp tài trợ có nhiệm vụ tổ chức và bảo vệ cơ quan hành chánh tại xã ấp của những vùng đã được quân đội Pháp chiếm lại khỏi tay Việt Minh Cộng sản. Cũng như số phận của tất cả những cựu quân nhân, công an, cảnh sát hay công chức thuộc chế độ cũ, người anh của Duy đã bị gọi đi trình diện và không có ngày trở về. Sự kiện này đã giáng một đòn rất mạnh vào tâm linh của Duy. Đã thế, đời sống của gia đình Duy cũng bị gắn liền với cái lý lịch "ác ôn"' của người anh cả của mình mà thêm khốn đốn; Tôi không rõ Duy đã phải phấn đấu đến thế nào đê có thể tồn tại cho tới ngày nay, nhưng con người của anh thì đâ bị tàn phá thấy rõ. Anh luôn có vẻ rụt rè, bất an, không bao giờ nói năng đến hết lời, hết ý của mình vì cứ đang nói đến nửa chừng thì anh chợt ngừng lại, như để đón ý nguời nghe. Con người tự tin, phóng khoáng, sẵn sàng biểu lộ hết ý nghĩ của mình mà không cần phải quanh co, giấu giếm nay đã không còn.

 

Sau này thì tôi có thể xếp loại anh vào hàng ngũ một số trí thức miền Bắc, những người không hề có tí chức vụ hay quyền năng nào nhưng cũng chẳng muốn bon chen phấn đấu để mong kiếm chác thêm đôi chút bổng lộc gì. Họ trái với nhiều người khác, tuy chức vụ hay quyền năng thì cũng chẳng hơn gì ai, nhưng lại sẵn sàng bán rẻ linh hồn vì chút danh vọng hay quyền lợi. Đây là hàng ngũ những kẻ sun soe, những chuyên viên đội đạp và là tác giả của những bài viết ngồi xổm lên sự nguyền rủa của dư luận vì tính cách bịa đặt hay xuyên tạc trắng trợn của nội dung bài viết.

 

Tôi thương hại cho Duy nhưng cũng mừng cho anh. Cái vốn Tiểu tư sản cuối cùng mà anh còn lại đã khiến anh không đến nỗi phải đi bán rẻ linh hồn cho dù con người đích thực của anh đâ chẳng còn tồn tại lừ bao nhiêu năm nay rồi. Hôm chia tay, tôi gửi anh một gói quà, trong có vài món đồ dùng lặt vặt kèm theo vài cuốn sách cũ mà tôi nghĩ rằng anh sẽ thích đọc. Nhưng anh đã mở cái gói ra kiểm điểm lại từng món (một hành vi chẳng còn tiều tư sản chút nào !) và bỏ lại mấy cuốn sách. Tôi nói :

 

- Sách này vô thưởng vô phạt, tôi mua lại trên vỉa hè Sài Gòn, không sao đâu.

 

Anh mỉm cười héo hắt :

 

- Đem về chật va li. Để dành chỗ cho líp xe, đá lứa và bút bi còn giá trị hơn.

 

Tôi ngạc nhiên:

 

- Bút bi mà cũng có giá kia à ? '

 

- Có giá chứ ! Nhất là bút bi đỏ. Nhiều thầy cô ngoài đó thiếu cả bút mực đỏ để chấm bài cho học trò.

 

- Sao năm nào tới Ngày Các Nhà Giáo cũng thấy Nhà nước ra hiệu triệu khoe là hết lòng chăm lo đời sống của Thầy Cô.

 

Duy ngần ngừ rồi đạp : .

 

 - Thì cũng có đấy, nhưng tùy mức độ.

 

Tôi rất không ưa cái lối trò chuyện lấp lửng này (mà tôi đã gặp ở nhiều người chứ chẳng riêng gì Duy), nên hỏi tới :

 

- Tùy mức độ là có hay không ?

 

- Có chứ !

 

- Vậy đời sống giáo viên ngoài ấy được chăm lo đến mức nào ?

 


Anh cúi đầu rồi thở dài không nói tiếp. Mãi tới lúc trên con đường từ nhà ra bến xe buýt để tiễn chân anh về nhà người quen, nơi anh cư ngụ trước khi quay ra Hà Nội, anh mới thổ lộ :

 

- Cậu nhớ cô Quy không ?

 

Tôi lục lọi trí nhớ rồi buột mồm:

 

- Quy bán vải ở đầu phố hàng Đào ẩy hả ?

 

Duy gật đầu :

 

- Gia đình cô ấy cũng bị cải tạo tư sản. Nhà cửa, tài sản bị tịch thu hết. Sau cô ấy cũng cố gắng ngoi lên và xin được một chân cô giáo ở một trường tiểu học ngoài ngoại ô. Chồng đi nghĩa vụ quân sự. Một nách cô ấy phải nuôi 2 đứa con nhỏ. Cả nhà cứ phải đói ăn thờng xuyên. Một lần con ốm, nhà hết gạo, nhân gặp ca trực trường, cô ấy lẻn vào kho tiếp liệu xúc trộm một giá gạo, bị bảo vệ phát giác. . . .

 

Nói đến đây bỗng Duy ngừng lại. Có vẻ anh nghẹn ngào cố trấn áp một cơn xúc động. Rồi anh lại tiếp:

 

- Tuy vậy nhà trường cũng thông cảm, không kỷ luật gì. Nhưng kể từ đó, cô ấy loay hoay với chính bản thân của mình, cứ y như cô đã là một kẻ tội đồ ngày xưa bị mang dấu ấn ở ngay giữa trán. Khi vào xúc trộm gạo thì tình mẫu tử trong cô trỗi dậy mạnh mẽ, bất chấp mọi thứ hiểm nguy, miễn lấp đầy được bao tử của con cái mình. Đến khi bị phát giác thì lương tâm nhà giáo của cô đã không tha thứ. Nó lớn tiếng nạt nộ, nó hành hạ, phỉ nhổ, khinh miệt cô khiến cho cô bây giờ không còn một chút dáng dấp gì gọi là niềm tự hào của một nhà giáo nữa. Nhiều khi đứng lớp mà nom cô như một cái xác không hồn.

 

Duy đứng lại ở ven đường. Từ xa, bóng dáng cái xe buýt đã xuất hiện và sắp sửa trờ tới. Chúng tôi nắm chặt tay nhau và cùng nhìn nhau không nói. Tôi bỗng cảm thấy như mình gần gũi với anh hơn là trong suốt quãng thời gian hàn huyên tái ngộ vừa qua. Nhìn ánh mắt của anh, tuy mệt mỏi nhưng thoáng hiện vài nét long lanh, tôi như vụt tìm lại được hình bóng của người bạn cũ ngày xưa.

 

 ****

 

 

Khoảng hơn mười ngày sau tôi lại còn có dịp gặp lại Duy khi tôi quyết định ra ga Sài Gòn để chào từ biệt anh trở về miền Bắc.

 

Thân nhân của Duy đã xếp hàng lấy vé cho anh từ mấy hôm trước nên anh đã vào sân ga từ lúc năm giờ sáng. Tôi đến sau anh, nhưng cũng không trễ, vì còn cả tiếng đồng hồ tầu mới khởi hành. Tôi chỉ việc lấy "vé vào sân" được bán ở ngay cổng vào sân ga. Loại vé này chỉ bán cho người đi tiễn thân nhân để được phép vào sân ga. Mua vé xong, tôi đã đi dọc dẫy toa tầu để tìm anh. Vào thời điểm đó, con tầu thống nhất Bắc Nam đã có thể chuyển bánh được coi như một niềm tự hào lớn lao của chế độ mới. Hành khách rất đông đông nhất là đám ở Hà Nội vào thăm thân nhân rồi đến ngày phải trở ra và đám bộ đội phục viên tức được giải ngũ trở về quê quán. Ngoài ra cũng còn cả những cán bộ, công nhân viên di chuyển xuyên suốt tuyến Bắc Nam do nhu cầu công tác.

 

 Các toa tầu lúc này đã khứ khự hành khách với đủ loại hàng hóa chồng chất chung quanh. Tôi nhìn thấy Duy lọt thỏm sau khung cửa sổ chen chúc những người. Trong khung cảnh này, tôi thấy rõ là chẳng còn dịp nào mà người đi kẻ ở nói được với nhau những lời thở than trước khi toa tầu chuyển bánh. Duy hình như cũng biết điều đó nên cố thò cổ ra ngoã và hét to :

 

- Chào nhé ? Thôi đi về đi !

 

Tôi ngậm ngùi giơ tay lên vẫy anh thật lâu. Rồi bỗng như bị những người phía sau xô đẩy, anh chợt mất hút sau khung cửa sổ toa tầu. Tôi có cảm giác hụt hẫng, xé lòng như có một người thân vùa bị cơn sóng dữ ùa lên khỏa lấp và nuốt chửng mất hình hài vào lòng biển.

 

Rồi tôi cứ đứng như thế ngơ ngẩn như một kẻ mất hồn cho đến khi tiếng còi tầu rúc lên báo hiệu tới giờ chuyển bánh. Những người đi tiễn chạy ùa lên, cố với tay để vẫy gọi thân nhân trên tầu. Tôi cũng cố gắng tìm tòi hình bóng của Duy một lần nữa nhưng tôi không còn trông thấy anh ở đâu nữa.

 

Vĩnh biệt Duy ! Vĩnh biệt Hà Thành với điệu nhạc tuyệt vời mà tôi vẫn nghêu ngao từ hồi mới di cư vào Nam hồi năm 1954 :

 

Hà Nội ơi, hướng về thành phố xa xôi

ánh đèn giăng mắc muôn nơi

áo màu tung gió chơi vơi

 

Hà Nội ơi, phố phường dãi ánh trăng mơ

Liễu mềm nhủ gió ngây thơ

Thấu chăng lòng khách bơ vơ ?

 

Có một điều thay đổi khi tôi nhớ đến bài hát này. Vào năm 1954, hát lên bài này, tôi thấy lòng mình dâng lên một nỗi nhớ miên man, day dứt. Vào thời điểm bây giờ, chỉ vài ba năm sau khi Sài Gòn đổi chủ, Hà Nội đã gần gũi hơn vì người Hà Nội đã vào đến đây. Nhưng buồn thay khi nhớ đến bài hát này, tôi không còn tìm thấy những tình cảm day dứt như xưa nữa. Hà Nội ngày xưa trong tôi đã phai nhòa trong những dáng người như Tửu, như Toán , như Duy . . . .và nhiều toán cán bộ nam nữ khác từ miền Bắc vào, đi lũ lượt trên các đường phố.

 

Lúc tiễn Duy trở ra về, tôi phải đi qua mặt tiền của khu nhà ga Sài Gòn, khi đó còn tọa lạc ngay gần xế cửa chợ Bến Thành. Tuy trời vừa hửng sáng nhưng ở đây đã ồn ào, náo nhiệt. Từ ngoài vỉa hè đường vào đến dẫy tam cấp có những bậc xi măng bueớc lên gian đại sảnh của nhà ga, đâu đâu cũng chật ních những người. Nhưng nếu chui được hẳn vào khu vực chính bán vé thì quang cảnh mới thấy hãi hùng. Cả một đám người hiện ra, mang rặt một mầu ảm đạm như quần áo mầu xanh bộ đội đã cũ nhàu, y phục dân sự thì nhuộm đen, nhuộm nâu, cái lành lặn, cái vá víu hay rách nát, tất cả phơi bầy ra một khoảng chật hẹp mà chung quanh thì la liệt rác rưởi nào bã mía, giấy kẹo, tàn thuốc, cùng đủ thứ lá bóc ra từ bánh chưng, bánh giò... Tất cả những thứ ấy đều có mùi, từ mùi mồ hôi người đến mùi quần áo cũng như mọi thứ mùi rác rưởi đã quyện lấy nhau mà ngùn ngụt tỏa lên, bốc ngùn ngụt trong cái oi bức của một ngày nắng nóng Sài Gòn. Đã thế, trên sàn xi măng còn có kẻ đứng, người ngồi, nhiều góc còn có người giải báo, kẻ lót áo mưa ngả lưng ngay trên sàn gạch. Còn bộ đội thì lổn nhổn, la liệt, chỗ thì ngồi bó gối hút thuộc vặt, chỗ thì lim dim ngủ gật lại có những anh còn đang ngáy khò khò vì chắc phải lấn chỗ, xếp hàng qua đêm nên bây giờ ngủ gục.

 

Ở ngay trước quầy bán vé, tuy mọi người có chen lấn nhau, nhưng hàng ngũ có vẻ trật tự hơn là ở phòng đợi . Đằng sau tấm lưới ngăn cách nhân viên hỏa xa với hành khách, cô nhân viên không thấy bán vé hay kiểm tiền mà chi có nhiệm vụ xem xét giấy tờ di chuyển của hành khách có hợp lệ không. Nếu hợp lệ thì được cô ta cấp cho một giấy chứng nhận, được giấy chứng nhận rồi, hành khách phải trở về nhà để ngày hôm sau theo hẹn quay trở lại xếp hàng tiếp mà mua vé !

Tại sao nhà nước lại “hành" dân như thế ?

 

Không phải đâu ! Nhân viên bán vé không có thì giờ kiểm soát giấy tờ của hành khách nên mới phải đặt thêm một "khâu” kiểm tra trước khi bán vé. Sau khi giấy tờ được xem xét kỹ lưỡng là hợp lệ rồi, thì hành khách được cấp phát một vé kiểm nhận để trình ra khi mua vé tầu . Chỉ có thế mới ngăn chặn được bọn xấu ngang nhiên di chuyển bằng phương tiện của nhà nước trong khi các công nhân viên, cán bộ nhà nớc phải chầu chực nhiều ngày mới mua được tấm vé. Riêng bọn giáo viên miền Nam chúng tôi thì không được mua vé đi Hà Nội, chỉ được ra đến Huế thôi. Qui định của nhà nước lúc đó là như thế. Cho nên phải thêm "khâu” kiểm tra giấy tờ trước khi bán vé là phải rồi. Còn kêu ca chi nữa ?

 

 Nói chung, để mua được một tấm vé tầu thống nhất Bắc Nam hồi đó, người ta phải mất ít nhất hai ngày. Ngày đầu đi xếp hàng xin kiểm nhận giấy tờ. Ai có người quen trong thành phố thì còn đỡ, nếu không thì cứ trải đại chiếu ra nằm, ngồi la liệt từ trong đại sảnh lan xuống vỉa hè nhẫn nại chờ qua ngày hôm sau chen chân vào giành chỗ mua vé. Thành ra số hành khách chờ đợi ở cả hai khâu, cứ tích lại. Người đông lúc nhúc như bầy vịt chen chúc trong một cái lồng chật hẹp. Mặt mũi ai cũng bơ phờ nhếch nhác, hiếm thấy trên môi người nào nở ra được một nụ cười. Nếu cứ nhìn ngắm cho kỹ, ta chợt có cảm giác như đang phải đối diện với một lớp người từ cõi xa xăm nào hiện về. Họ có cử động mà không thấy nét linh hoạt. Họ có nói năng, trao đổi mà không thấy âm thanh sôi nổi của sự sống. Nhìn họ, ta thấy mọi nỗi cơ cực trong cái xã hội được gọi là XHCN bị bộc lộ ra hết. Nhân phẩm và những giá trị khác của con người đã không được giới lãnh đạo quan tâm nên mới ra nông nỗi này.

 

 Nhưng nếu con người ở những chỗ đó câm nín, ít biểu lộ tình cảm ra ngoài thì các vật dụng hay hàng hóa mà họ mang theo lại có thể nói lên phần nào nỗi niềm ao ước nhỏ nhoi, hay tâm tình vui vẻ riêng tư của mỗi người. Ta hãy coi một bác công nhân quàng trên vai cái khung xe đạp, tay còn ôm khư khư một bó căm xe. Anh bộ đội thì ôm đồm một mớ có đến hai, ba con búp bê bằng nhựa rẻ tiền lại kèm thêm vài chiếc áo đầm con nít may bằng vải in hoa mầu sắc nom rất lòe loẹt. Lại có những thùng những sọt để ngổn ngang trên lối đi, bên trong nhồi nhét đủ thứ đồ dùng như những cái khay nhôm, những chồng bát hay ly nhựa, nhưng cái rồ rá bằng ny-lông xanh đỏ, và những nồi niêu, xoong chảo làm bằng nhôm, bằng đồng còn mới tinh nom như mới đúc ở lò ra.

 


 

Nhưng cái mà người ta mang theo nhiều nhất không phải là những đồ dùng hàng ngày mà lại là những ổ bánh mì, loại dài có, loại đóng thành khuôn vuông vắn nom như cái gối để đầu giường được gọi là bánh mì gối cũng có.

 


Thành ra trong cái nhà ga chật chội này đâu cũng thấy túi, thấy gói mà cột buộc bên trong là những ổ bánh mì. Đấy không phải là thứ thực phẩm để ăn dọc đường nhưng quý giá hơn, nó là món quà rất được người ở nhà ưa chuộng và đón chờ khi có người thân đi xa trở về.

 

Chỉ cần liếc qua tất cả những hàng hóa mang theo đó người ta mới thấy nhu cầu của đồng bào miền Bắc đơn giản như thế nào, đời sống của họ đã thiếu thốn ra sao.

 

Nhất là cái tính ẩn nhẫn, chịu đựng đã bền bỉ đến mức như thế nào. Bởi trong cái bầu không khi chật chội, oi bức, nồng nặc xông mùi như thế, sự chờ đợi lâu lắc không phải từng giờ, từng phút mà từ ngày nọ qua ngày kia đã khiến cho sự chịu đựng của con người có thể lên tới mức rũ liệt. Chẳng còn ai muốn góp phần vào đời sống chung quanh như chia sẻ với nhau những niềm vui, nỗi buồn của sự đoàn tụ với thân nhân sau bao nhiêu năm chia cách. Ngoại trừ chỉ có đám người nào vừa mới tới thì mới cất tiếng om sòm, hỏi han nhau tíu tít chỗ nào xếp hàng để đăng ký giấy tờ, giờ nào thì nhà ga bắt đầu bán vé v v... Nhưng những câu hỏi dù cất lên cách nào thì cũng chỉ rớt vào khoảng không, chẳng có ai lên tiếng mách bảo. Những người tới trước chỉ khẽ ngước lên nhìn, rồi lại thản nhiêu nhắm mắt nằm im lìm, có vẻ như muốn biểu lộ cái ý “ta đã thế này thì người khác cũng phải chịu đựng như thế thôi". Diễn tả theo một kiểu khác thì đó là những thái độ vô cảm trong đời sống hằng ngày. Mà suy cho cùng thì đấy là một sự tróc gốc đạo đức của con người ở vào tầm mức đáng buồn nhất. Một quan niệm sống “mắc-kê-nô" tức "mặc kệ nó" như thế nếu xây ra chỉ ở vài cá nhân có hoàn cảnh đặc biệt riêng tư thì cũng là lẽ thường. Nhưng khi nó biển thành cái quán tính chung của nhiều người thì phải nói đấy là một thảm kịch kinh hoàng của toàn xã hội.

 

Nhưng biết làm sao. Tôi cho rằng thứ tâm lý đó là hậu quả của những con người vốn đã từng trải qua những kinh nghiệm khiếp đảm. Họ chỉ hoàn hồn khi thấy mình cỏn sống sót, nhưng là một sự hoàn hồn trong tình trạng thất thần, không còn dám nghĩ đến những ước mơ gì, không còn dám cựa quậy gì để làm mất lòng các giới chức cầm quyền từ cỡ to xuống tới cỡ nhỏ. Bởi lãnh đạo dù ở cấp nhỏ nhoi thế nào cũng có quyền nắm sinh mạng của mình trong tay. Trong một đời sống đã quá cơ cực, thì một cái tem phiếu, một món hàng quốc doanh được mua ngoài tiêu chuẩn, một tấm giấy ngợi khen, một suất đi tham quan, hội họp, liên hoan ở ngoài địa phương đang sống . . .t ất cả đều có thế tác động được vào hành vi sinh hoạt của tất cả mọi người . Bọn lãnh đạo, dù ở cấp cao hay cấp thấp, dù ở trong Ban Ngành hay tổ chức nào thì cũng đều lợi dụng tối đa để bắt nạn nhân phục vụ cho mình.

 

Cho nên, chi kinh qua những hoàn cảnh như thế, người ta mới thấm thía câu thơ nhại theo Kiều của Nguyễn Du :

 

Bắt phanh trần phải phanh trần

Cho may-ô mới được phần may-ô.

 

Các nhà văn, nhà báo trước đây thường ca ngợi ở Việt Nam cứ ra ngõ là gặp anh hùng, không biết khi bị nhân dân anh hùng đọc lên hai câu lục bát ấy, thì họ có thấy lòng băn khoăn, hối tiếc hay không ?

 

 20

 Một cuộc gặp gỡ

 

 

Thật đáng ngạc nhiên khi có một hôm thằng Tửu đến tìm tôi và nói :

 

- Bố em muốn mời thầy tới nhà để hỏi thăm chút chuyện.

 

Tôi ngạc nhiên :

 

- Có chuyện gì vậy ?

 

- Em không biết. Nhưng bố em nói là giờ giấc tùy nghi ở thầy. Lúc nào cũng được. Sẽ có xe tới đón thầy tận nhà.

 

Tôi xua tay :

 

- Khỏi cần. Tôi đạp xe tới được rồi. Khoảng bảy, tám giờ tối mai, sau bữa cơm chiều.

 

Lúc Tửu đi khỏi rồi, tôi có hơi băn khoăn về cuộc gặp gỡ này, nhưng xét kỹ thì năm trước, tôi là chủ nhiệm lớp có thằng Tửu theo học. Hẳn ông ta muốn hỏi tôi kỹ càng hơn về thằng con của mình. Đấy cũng là chuyện bình thường.

 

Hôm sau, cơm nước xong, tôi thong thả đạp xe lên đại lộ Trần Hng Đạo ở trung tâm Sài Gòn, rẽ vào đường Phát Diệm rồi đi thêm một hồi nữa. Ngôi nhà của thằng Tửu là một căn biệt thự rộng rãi, có hàng rào xi-măng phủ gần kín bởi một dàn ti-gôn đang có những chùm hoa nở rộ. Phía cổng ngoài, có một anh cảnh vệ đang ngồi gác trên một cái ghế gỗ kê ở sát mé tường. Bức tường kéo dài cả ở hai phía với rặng cây um tùm che phủ gần kín đã khiến cho căn biệt thự này có một vẻ cách biệt hoàn toàn với những nhà chung quanh cùng một khu xóm.

 

Thằng Tửu đón tôi ngay ở cổng vào. Nó tíu tít khoe mấy cái lồng chim đang treo cao trên một cái xà ngang gần đó. Tôi vì đang bận tâm với cuộc gặp gỡ nên chỉ đáp ứng nguồn vui của nó với giọng ậm ừ. Sau cùng thì tôi cũng đặt chân vào tới căn phòng khách rộng thênh thang, có tràng kỷ, có sa lon, có tủ kính đựng những món đồ trang trí. Trên tường thì tranh được treo la liệt. Đặc biệt, tôi còn thấy cả một tấm hình chụp quang cảnh của một buổi lễ gắn lon có vẻ được tổ chức sơ sài ngay ngoài trận tuyến với dãy trực thăng còn nhìn thấy ở phía xa xa. Nếu không có thằng Tửu bên cạnh thì tôi cứ ngỡ là mình đang đứng trong phòng khách của một vị sĩ quan cao cấp của QL/VNCH trước năm 1975.

 

Chủ nhà tiếp tôi là một người đàn ông trung niên, nước da đen xam, mái tóc cắt ngắn, đôi mắt linh hoạt sau cái kiếng trắng lắp trên gọng vàng, và cử chỉ nhanh nhẹn trong một bộ đồ pyjama mầu xanh nước biển có chạy những đường viền mầu đỏ sậm, nhìn cũng khá diêm dúa.

 

Ông ta từ trên cầu thang lầu bước xuống, thấy tôi chăm chăm nhìn những bức hình, liền lên tiếng :

 

- Toàn là hình chụp của tay Đại tá chủ nhân căn nhà này đó. Ông ta di tản vội vã nên bỏ lại nguyên cái cơ ngơi này.

 

Tôi không đáp lại mà đảo mắt nhìn ra chung quanh. Quả là "nguyên cái cơ ngơi" còn tồn tại nơi đây, với những bức tranh khảm xà cừ, những cụm đèn để trong các góc có gắn những chùm dây hoa văn đan kết bằng thủy tinh nom rất công phu và quý giá. Đặc biệt, trên trần nhà cao, một dàn đèn dễ có tới cả chục bóng xếp theo hình tròn tỏa ra chung quanh như những cánh hoa đang nở. Mặc dầu dàn đèn này chưa được bật lên, nhưng dưới ánh sáng dịu dàng của mấy ngọn đèn trong góc cũng đủ làm cho những chùm thủy tinh đan kết chung quanh vòm trần tỏa ra những mầu sắc lóng lánh. Thấy tôi có vẻ thắc mắc, ông ta liền giải thích :

 

- Tôi không cố nhu cầu sử dụng cái phòng khách này. Rồi mấy cậu công tác bên điện ảnh lại xin giữ nguyên trạng căn phòng này để làm sân khấu quay phim nên tôi không dọn dẹp cái gì đi hết.

 

Quả là cái sự nguyên trạng của căn phòng này như kéo giật tôi về khoảng thời gian trước đó vài năm, khi mà chúng tôi còn nhởn nhơ tin tưởng vào đời sống và không bao giờ nghĩ tới chuyện đổi đời. Có điều, khi nhìn trên tường thấy những huy hiệu, những bằng khen, nhữmg bằng tuyên dương hay hình ảnh chiến trường với những chiếc trực thăng lượn lờ, tôi có cảm giác xa lạ như những thứ đó đã trôi vào dĩ vãng rất xa vời. Tôi cũng không lấy làm lạ về cảm giác này bởi vì đời sống bây giờ có quá nhiều điều o ép khắc nghiệt, hầu như không mấy ai còn tâm trí đâu để mà suy nghĩ vẩn vơ. Hầu hết đầu óc mọi người bây giờ chỉ còn quanh quẩn trong những chuyện tính toán làm sao để có được sự tồn tại trong an ninh, hay những lo lắng tủn mủn nhưng rất bộn bề trong đủ loại hình thức của cuộc mưu sinh.

 
Đang lan man suy nghĩ thì ông chủ nhà lại nhắc tôi ngồi vào ghế sa lon và chỉ vào mấy cái đĩa đặt trên mặt bàn kính như có ý nói với tôi là xin cứ tự nhiên. Tôi thấy trong một đĩa có gói thuốc lả Tam Đảo còn nguyên vừa mới được bóc ra, mấy cái bên cạnh thì xếp đầy nào kẹo lạc kẹo cứng, kẹo mềm, lại có cả bánh đậu xanh Rồng Vàng Hải Dương nữa. Sau đó thì một anh nhân viên phục vụ còn bưng ra một khay trà có hai cái tách đang nghi ngút bốc khói.

 

Thật tình là tôi đã thấy ngột ngạt về cung cách tiếp đón quá trịnh trọng này, và trong thâm tâm cũng thấy lo lắng không biết mình đang sắp sửa bị đưa vào một hoàn cảnh nào đây. Vì thế, tôi lên tiếng ngay như để phá vỡ tình trạng băn khoăn:

 

- Tôi không được rõ ông mời tôi tới đây là vì lý do gì ?

 

Ông ta vội vã xua tay :

 

- Không . . . không . . . . Không vì lý do gì hết. Thầy là giáo viên chủ nhiệm lớp thằng Tửu nhà tôi. Đáng lẽ tôi phải tới thăm thầy từ lâu mà vì công việc bề bộn quá, nay mới có dịp sắp xếp được.

 

Tôi cảm thấy nhẹ nhõm người hơn và mỉm cười :

 

- Cháu Tửu là đứa thông minh. Tuy có nghịch ngợm khác người , nhưng nó học hành cũng không đến nỗi. Mới đầu thì nó cũng hơi đuối......

 

- Tất nhiên rồi. Chương trình học ở đây hẳn nặng nề hơn là ở ngoài Bắc. Đã thế lại còn chênh nhau tới 2 cấp lớp.

 

Tôi gật đầu :

 

 - Vâng, chương trình trung học 12 năm. , ngoài Bắc rút xuống còn 10 năm. Nhưng theo tôi, điều quan trọng hơn cả là vào đây, Tửu nó quen thêm được nhiều bạn bè, biết thêm được nhiều cảnh mới, người mới . . .

 

Ông ta nhìn tôi, cái nhìn biểu lộ sự đồng tình về điều tôi vừa nói ra. Rồi ông ta gật đầu:

 

- Đúng vậy. Xã hội bên ngoài cũng mở mang thêm nhận thức của nó chứ. Đi một ngày đàng, học một sàng khôn. Các cụ ngày xa đã dạy như vậy rồi mà. Sách vở nhà trường thì chỉ lý thuyết thôi. Thực tế trực quan sinh động mới là cái đáng kể và đáng học nhiều hơn.

 

Yên lặng một lát, ông ta lại nhìn tôi chăm chú rồi hỏi :

 

- Nhưng theo Thầy thì cái sự thằng Tửu cứ thích theo bạn bè đi sâu vào xã hội ở trong này, sẽ tốt cho nó hơn hay nó sẽ bị ảnh hưởng tồi tệ đi hơn ?

 

Tôi ngẫm nghĩ rồi trả lời :

 

- Thành thực mà nói, học sinh trong này có nhiều đám tốt vì được ảnh hưởng bởi cả giáo dục gia đình cũng như học đường. Nhưng nếu ông hỏi tôi về thằng Tửu thì tôi không thể trả lời. Tôi đâu có theo nó sát nút để biết nó hay giao du với những ai, với loại nào !

 

Ông ta "à" lên một tiếng khoái trá rồi nói:

 

- Đó là điều tôi vẫn hằng quan tâm. Thực tình tôi muốn thằng con tôi 'bung" ra ngoài để nó mở mang thêm tầm mắt và học hỏi thêm ở những con người tốt . Nhưng tôi thì lại bận quá nên không có thì giờ kiểm soát sự giao du của nó. Cái ngữ nó mà buông lỏng ra, không kiểm soát thì lợi bất cập hại.

 

Tôi nhìn ông bằng một cái nhìn băn khoăn, không hiểu ông ta định đẩy câu chuyện đi tới đâu trong vấn đề này, và tôi cố giữ yên lặng đê không phụ họa theo những lời ông vừa nói. Sau một vài giây yên lặng, ông lên tiếng tiếp:

 

- Giữa tôi với thầy, có lẽ còn có quá nhiều cách biệt. Nhưng trong thời gian vừa qua, nhìn cung cách giảng dạy của thầy cùng với những tình cảm gắn bó của Tửu đối với thầy, tôi thấy mình tuy khác biệt nhưng cũng có những điểm tương đồng.

Nói rồi ông ngưng lại và nhìn thẳng vào mắt tôi.

 

Tôi thấy lấp lánh trong những tia nhìn đó là một biểu lộ tâm tình thân thiện hơn là che giấu một ý đồ thâm hiểm riêng tư. Nhưng tôi lại vẫn cứ cố làm ngơ như chưa hiểu ông đang nói gì. Mà đúng vậy. Khi ông ta nói "có những điểm tương đồng", trong nhất thời, tôi cũng không thể nghĩ ra được giữa tôi và ông ta đã có những điểm tương đồng gì. Chờ vài giây, ông lại tiếp :

 

 -Xã hội cũng còn nhiều chuyện bất toàn thầy ạ. Nhưng về tương lai lũ trẻ thì mình phải lo lắng trớc tiên. Trong phạm vi thu hẹp, tôi chỉ nghĩ đến thằng Tửu nhà tôi và tôi mong mỏi nó được dìu dắt bởi một người như thầy . . . .

 

Tôi vội ngắt lời ông ta:

 

- Tửu đã qua cấp lớp . . . .tôi đâu còn tiếp tục . . . .

 

Ông ta vội giơ tay ngăn lại :

 

- Điều đó tôi biết. Mà tôi cũng không dám yêu cầu gì nhiều. Chỉ mong sao rằng tuy Thầy không còn dạy nó ở nhà trường nữa, nhưng nó vẫn có dịp lui tới để gặp gỡ thầy và thầy vẫn có dịp bảo ban nó. . . Và trong những dịp nó giao du với bạn bè, nhờ thầy tìm hiểu và ngăn chặn kịp thời những ảnh hưởng xấu.”.

 

Thấy tôi còn ngập ngừng chưa bầy tỏ ý kiến thì ông đã nói tiếp :

 

 - Thầy đừng nghĩ là phải gánh một trách nhiệm gì to tát quá. Nói thẳng ra là tôi chỉ mong muốn thầy lui tới đây mỗi ngày một, hai giờ để trò chuyện trao đổi bất cứ vấn đề gì để nó có dịp mở mang cái đầu óc của mình. Tôi sẽ trả thù lao cho thầy để tăng thêm thu nhập. Tôi biết hoàn cánh của các thầy cô giáo bây giờ rất ngặt nghèo. Nhiều thầy cô đã ra buôn bán chợ trời hay lái xe ôm. . .”

 

Tôi nhìn thẳng vào mắt ông, rồi nói :

 

- Vậy xin hỏi thật, ông không ngại tôi tiêm nhiễm cho thằng cháu Tửu những tư tưởng mà chế độ này đã muốn xóa bỏ đi à ?

 

Ông ta nhún vai, mỉm cười :

 

 - Làm gì mà có chuyện ấy ! Họ nói xóa là xóa mấy cái linh tình bề ngoài thôi kìa. Còn con người , còn cốt cách, còn truyền thống tốt đẹp bao nhiêu ngàn năm, làm sao mà xóa ! Thầy yên tâm đi . Tôi không phải là con người quá tệ. Mà tôi có đi theo phục vụ cho cách mạng trong ngần ấy năm cũng không phải là tôi mong muốn xây dựng một xã hội nhếch nhác như thế này. Nếu không nghĩ như vậy, tôi đã chằng lo lắng cho thằng Tửu và mình có cuộc gặp gỡ hôm nay . . . '

 

Tôi suy nghĩ một lát rồi tần ngần :

 

- Trên nguyên tắc thì tôi xin nhận lời. Với Tửu, tôi cũng có nhiều thiện cảm với nó. Tôi sẽ bảo ban nó về mặt tư cách, đạo đức, ứng xử ngoài đời cho ra một con người . Nhưng kết quả ra sao, tôi không bảo đảm.

 

Ông ta giơ hai tay lên cất giọng hoan hỉ :

 

- Thế là xong rồi? Tôi đâu có mong gì hơn. Tôi rất cám ơn thầy đã cất cho tôi được một mối bận tâm cứ lo canh cánh bên lòng. Tôi quá bận rộn nhiều việc, đâu có dành nhiều thì giờ cho nó được.

 

Sau đó, chúng tôi trao đổi thêm vài câu chuyện vu vơ nữa rồi tôi cáo từ. Ông tiễn tôi ra tới tận cổng và còn đứng dưới hàng rào nhìn theo cho tới khi tôi đạp xe đi khuất.

 

-Trong thâm tâm, chính tôi cũng không hiểu mình đã vừa đưa ra một quyết định đúng đắn hay sai lầm. Bởi vì, với ông ta, tôi chưa từng quen biết, hiểu rõ thực sự ông ta là loại người nào. Nói cho ngay, qua cung cách phát biểu, tôi thấy ông đã có một mối quan tâm chính xác về tương lai thằng Tửu. Nó còn phải được học hỏi thêm nhiều để rũ bỏ được những dấu ấn còn in hằn trong tâm hồn của nó sau những năm nó sống theo bản năng ở miền Bắc trong suốt bao nhiêu năm khó khăn của cuộc chiến.

 

Tuy nhiên, tôi vẫn cảm thấy lấn cấn khi nhận lời làm công việc như ông bố của Tửu mong đợi. Cái lấn cấn là ở chỗ, tôi tự hỏi toàn bộ cái xã hội này với những con người hiền hòa của miền Nam cũ, và ngay cả với chính tôi, rồi ra mọi người sẽ gìn giữ bản chất được bao lâu dưới cái chính thể vẫn đang tiếp tức gieo rắc đầy dẫy những sai lầm trong mọi công cuộc điều hành đất nước?

 

Đến mình đang lo chẳng giữ được mình, huống hồ còn toan đi dạy dỗ ai ?

 

21
 

 CHUƠNG CUỐI
 


 

 

Chuyện hứa hẹn với ông bố của Tửu tôi tưởng sẽ thực hiện được lâu dài, nhưng không ngờ cuộc đời lại đưa tôi tới một ngã rẽ mới. Số là hồi trước 1975, tôi có một người bạn đồng nghiệp, tuy dạy cùng một môn học nhưng lại không cùng trường với nhau. Ấy vậy mà chúng tôi lại quen biết nhau là do anh bạn này kết hôn với một học sinh cũ của tôi. Cặp vợ chồng này là người miềnNam, tính tình rất đôn hậu. Cô vợ lúc nào cũng nhắc nhở đến những kỷ niệm về thầy cũ, trường xưa vào cái thời mà cô còn là một nữ sinh nhởn nhơ cắp sách đến trường trong những năm dài ở bậc trung học. Trước chỉ là quen biết, lâu lâu đi lại, sau trở nên thân thiết hơn, tôi và người chồng còn soạn chung với nhau những tài liệu giáo -khoa mà cả hai cùng giảng dạy.

 

Vậy mà sau năm 1975, chỉ có một mình tôi xin trở lại trường. Vợ chồng người bạn nhờ may mắn, lại cũng quen biết cả những người đi tập kết trở về nên họ thành lập ngay được một xưởng in dưới danh nghĩa một công ty Hợp Doanh. Ở thời buổi ấy, mọi lãnh vực thuộc các ngành nghề sản xuất khác đều có nhiều người đứng ra tham dự dưới danh nghĩa Hợp Tác xã, Tổ Hợp, Công ty Hợp doanh . . . .nhưng riêng ngành in thì ai cũng ngao ngán, lánh xa. Bởi người ta sợ in ấn thì có thể bị dính líu đến chuyện chính trị. Chỉ một vài sơ xuất kỹ thuật thôi cũng có thể bị gán ép là có ý đồ phản động, đi tù như chơi.

 

Nhưng vợ chồng anh bạn tôi lại không ngán ngẩm vì những sự lo xa đến như thế. Lại thêm nhu cầu in sách cho cả miền Namtrong năm đầu tiên khai giảng niên học mới là một nhu cầu rất khẩn trương và cấp thiết. Những ai dám đứng ra đảm trách đều nhận được sự dễ dãi và hỗ trợ tối đa của ngành Giáo Dục. Đó là lý do mà công việc làm ăn của vợ chồng anh bạn mau chóng phát triển, cung ứng được rất nhiều công ăn việc làm cho những công nhân ngành in vốn đang thất nghiệp và nhất là đem lại chỗ trú an thân cho nhiều gia đình không bị đuổi đi kinh tế mới.

 

Sau vài năm kinh doanh một cách hợp pháp, đời sống của vợ chồng anh bạn đã thay đổi nhiều hơn xưa. Họ không còn lo phải đắp đỗi bữa ăn qua ngày như trước, mà trái lại còn có của ăn của để. Thỉnh thoảng, cô học trò cũ của tôi còn mang tới tận nhà cho các cháu ký thịt, hay cho tôi ký đường, cân cà phê . . . . Thật chỉ khi ở vào lúc thất thế, người ta mới thấy được hết những hương sắc thơm tho của tình nghĩa.

 

Rồi bỗng một hôm, khi biết tôi có quen biết một đường dây đáng tin cậy có thể sắp xếp cho tôi ra đi nếu tôi có vài cây vàng đóng trước, phần thiếu sẽ trả sau, thì người vợ đề nghị rằng nếu tôi muốn ra đi thì họ có thể cho tôi vay cái khoản ứng trước này. Quả là một chuyện bất ngờ. Bởi "đường dây" mà tôi quen biết cũng chỉ là một người bạn cũ, thời thế đã tạo anh trở nên con người lang bạt kỳ hồ, giao dịch với đủ mọi loại người có chung một ước nguyện là vượt thoát để ra đi. Anh bạn này thật ra cũng không giầu có gì. Anh cũng cần có sự đóng góp của tôi dù chỉ là phần nhỏ, còn thì cho thiếu, để trang trải mọi thứ chi phí cho một chuyến đi .Thế là như một sự trùng hợp ngẫu nhiên, một lúc tôi có cả hai ân nhân mở đường cho tôi vượt thoát khỏi cái đời sống tù túng, chật chội cứ thường xuyên o ép đầu óc và tư tưởng của mình. Trong thời gian tôi vẫn thản nhiên đến trường thì nhà tôi đã âm thầm sắp xếp mọi thứ' với hai phía ân nhân ấy để cho tôi được ra đi.

 

Tôi cũng giấu kín không cho bạn bè đồng nghiệp nào trong trường hay biết kể cả thằng Tửu, mặc dù tôi cũng đã viết cho nó một lá thư ngắn. Lá thư này tôi đã'bỏ vào thùng thư vào buổi sáng hôm tôi ra xa lộ đón xe đò đi Vũng Tầu với ý định sẽ xa Sài Gòn mãi mãi. Nội dung lá thư chỉ vắn tắt như sau :

 

"Tửu thân mến,

 

Thầy đã quyết định rời xa Sài Gòn và rất tiếc là không cho Tửu biết trước để thày trò cùng nhau ăn một bữa tiễn biệt tại quán bà Hoa ở ngã tư Bẩy Hiền. Cảm ơn Tửu về sự ân cần, quý trọng mà Tửu đã dành cho thầy.

 

Quả là thầy trò mình đã có đủ mọi thứ kỷ niệm vui buồn trong suốt mấy năm vừa qua. Thày sẽ không bao giờ quên Tửu và mong trò cũng vẫn còn ghi nhớ những điều thầy dặn dò hay chỉ bảo. Cho thày gửi lời xin lỗi tới Ba của Tửu . Chúc tất cả mọi người đều bình an may mắn và hẹn ngày gặp lại dù là rất vô vọng hay xa vời. Thầy Tiến. "

 

 

 

Sau một cuộc hành trình khá gian nan vào cuối năm 1979, rút cục tôi cũng đã tới được bến bờ tự do. Tính từ buổi sáng hôm đó, cái hôm mà tôi che giấu mình trong bộ đồ rách rưới và cái mũ nỉ úp chụp trên đầu, len lén đi ra khói ngõ từ lúc còn tinh mơ để đi ra xa lộ Biên Hòa đón chuyến xe chạy bằng than củi đi Vũng Tầu, cho đến nay đã là 33 năm !

 

Trong suốt thời gian dài dằng dặc kể trên, dài hơn cả thời kỳ tôi sinh ra và lớn lên ở Hà Nội (1 8 năm) hay trưởng thành ở Sài Gòn (2 1 năm), thỉnh thoảng tôi vẫn còn nhớ lại những ngôi trường cũ và những bạn đồng nghiệp hay những học trò xa xưa. Tôi không rõ những cô Thu, cô Hường, thầy Hải, thầy Vinh. . .hay những trò Sơn, trò Tửu bây giờ ra sao, cuộc đời trôi nổi đã hướng họ đi tới những ngã rẽ nào. Tất nhiên mọi con người , mọi hoàn cảnh sau ngần ấy năm đều cũng đã thay đổi. Có khi vài người trong số đó đã nằm xuống, hay vẫn còn vất vưởng với cuộc sống khốn khó, chật vật, nhưng hẳn cũng có một số người nay trở thành những đại gia, những kẻ có chức cô quyền, chiếm lĩnh một giai tầng ăn trên ngồi chốc trong một xã hội mà xét ra nó còn tồi tệ gấp bội phần cái xã hội vốn đã bị lật đổ vào thời điểm tháng 4-1 975.

 

Bởi vì trước năm 75, dù đất nước có lâm vào hoàn cảnh chiến tranh ngặt nghèo, dân quê có tan tác bó nhà lên tỉnh để tránh cảnh bom đạn cầy nát xóm làng, thì cũng chẳng bao giờ những cô gái quê hiền lành chất phác lại phải chịu cảnh lõa lồ xếp hàng cho đám đàn ông nước ngoài xăm xoi, lựa chọn. Sự ô nhục này chỉ xuất hiện sau khi miền Bắc chiếm trọn miềnNamđể thống nhất đất nước và quyền cai trị vẫn chỉ nằm trong tay độc quyền của Đảng CSVN.

 

Ba mươi ba năm đằng đẵng. Sau ngần ấy năm, nhà nước CSVN đã làm được những gì ?

 

Dĩ nhiên là trên cả nước đã mọc lên đầy dẫy những tòa building cao ngất ngưởng, những trung tâm bách hóa mua bán đồ tiêu dùng hiện đại không thua kém gì các nước phơng Tây, hay ngay cả những xa lộ thẳng băng đang dần phủ kín các khu vực thiết yếu trên khắp mọi miền đất nước.

 

Nhưng những thành quả vật chất đó đâu phải là những thành tích đáng đem ra để tự hào. Bởi chỉ cần một tập đoàn tư bản ngoại quốc xuất ra một cái vốn đầu tư vài tỷ bạc thì building cao cỡ nào xa lộ dài cỡ nào, shopping center to cỡ nào, tất cả rồi cũng sẽ có hết.

 

Cái mà tiền bạc không thể nào mua được phải là những giá trị tinh thần mà nhà nước phải tạo dựng nên sau ngần ấy năm cầm quyền. Nhưng khi nói về những giá trị ấy thì ôi thôi, sao thấy quá não nề. Thôi không cần trích dẫn những lời chỉ trích của đám "ngụy dân" thuộc chế độ cũ. Ta hãy chỉ cần nghe người trong cuộc phát biểu cũng đủ thấy thực chất nó ra làm sao. Đây là lời nhận xét của GS Hà Văn Thịnh- một nhà giáo đang ở Huế qua tường thuật của báo, đài :

 

" Trong bản chất xã hội VN có sự giá dối, vô cảm, ích kỷ, sự tàn nhẫn. Đó là tất cả những gì biểu hiện của văn hóa VN hiện nay . Nỏi ra chẳng ai thích đâu . Nhưng đó là sự thật Vì sao ? Vì giờ người ta giả dối tù A tới Z, từ trên xuống dưới . Ai muốn làm gì thì làm, ai muốn lừa ra sao thì lừa , muốn tự tung tự tác hay ăn cướp thế nào đó vẫn được . Một xã hội như vậy làm sao không loạn được."

 

Vì đâu mà gây nên nỗi thảm thê như vậy ?

 


Theo tôi nghĩ, đích danh thủ phạm phải là chính sách Giáo Dục ở Việt Nam ! Là một nhà giáo đã từng giảng dạy d­ưới mái nhà trư­ờng XHCN, tôi biết chắc lằng ở đó khởi sự dạy dỗ con người biết nói dối và buộc con người phải nói dối. Mà thê thảm thay, tình trạng dối trá ấy vẫn còn kéo dài cho tới tận bây giờ.

 

- Xin đơn cử một tài liệu trong ngành giáo dục ở VN vào niên học bây giờ tức năm học 2011 -2012 .Qua tài liệu dễ dàng tìm được trên intemet này, tôi cũng như nhà giáo VN bây giờ vẫn cứ còn phải loay hoay, chìm đắm trong những bản văn tự soạn để giao nộp hàng năm cho cấp trên hẳn là để được an thân dạy dỗ.

 

Những thứ văn bản có tích cách trình bầy cho cấp trên nhìn thấy sự tu thân của mình nh­ư dư­ới đây, chắc cả người soạn lẫn người duyệt, ai nấy đều biết là giả dối.

 

Nhưng nó vẫn ngang nhiên tồn tại, không chỉ ở một địa phư­ơng mà gần như đều khắp. Vì tôi thây các văn bản biểu diễn sự tu thân này có vẻ đồng dạng ở nhiều trường, trong nhiều niên học.

 

Xin được bỏ tên trường, tên giáo viên và tên Phòng Sở Giáo dục thuộc thành phố nào :

 

"Giáo viên . . . . . , sinh năm 197 8 tại . . . , tốt nghiệp Đại Học Sư­ Phạm năm 2000, hiện giảng.dạy ngôn Toán tại trường ....., tỉnh…

 

Trích “Kế hoạch Cá nhân năm học 2011-2012", phần "Chỉ tiêu phấn đấu':

 

Chỉ tiêu phấn đấu : " Thực hiện có hiệu quả chủ đề của năm học : "Chú ý quản lý nâng cao chất lượng giáo dục " và tiếp tục triển khai phong trào thi đua " Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực". Đồng thời thực hiện tốt cuộc vận động: "Học tập và làm theo tấm gư­ơng đạo đức Hồ Chíí Minh "; "mỗi thầy giáo. cô giáo là một tấm gư­ơng đạo đức tự học và sáng tạo ". Nâng cao phẩm chất chính trị đạo đức lối sống bản thân, Tiếp tục thực hiện có hiệu quả các cuộc vận động và các phong trào thi đua của ngành. Tham gia đầy đủ các hoạt động do nhà trường và ngành phát động. Không vi phạm đ­ường lối chính sách pháp luật của đảng CSVN và nhà nư­ớc. Vận động gia đình và người thân đồng nghiệp thực hiện tốt đ­ường lối chính sách pháp luật của nhà n­ước. Thực hiện nghiêm túc nề nếp quy chế của ngành và nhà trường."

 

Biện pháp thực hiện:

 

1 )Tìm hiểu t­ư tư­ởng tấm gư­ơng đạo đức Hồ Chí Minh đặc biệt là tư­ tư­ởng Hồ chí Minh về công tác giáo dục.

 

2) từng bư­ớc làm theo tấm gư­ơng đạo đức của Bác Hồ như cần, kiệm, liêm, chính, chí công công, vô t­ư. Khắc phục mọi khó khăn về hoàn cảnh gia đình, hoàn cảnh khách quan, chủ quan để .hoàn thành tốt nhiệm vụ.

 

3) Tìm hiểu về cuộc đời và thân thế của Chủ tịch Hồ Chí Minh.Tham gia các buổi sinh hoạt, tọa đàm và sư­u tầm về tấm gư­ơng đạo đức của Bác đồng thời làm theo lời Bác.

 

4) Tích cực tham gia phong trào tự học, tự nâng cao kiến thức, viết sáng kiến kinh nghiệm và có ý thức tiết kiệm trong gia đình cũng như ở nhà trường.

 

5) Thư­ờng xuyên rèn luyện, tu d­ưỡng đạo đức nhà giáo. Cụ thể thực hiện tốt theo các tiêu chí trong Chuẩn giáo viên.

 

6) Tham gia đầy đủ các lớp bồi d­ưỡng chính trị. Luôn trau dồi đư­ờng lối chính trị của Đảng, pháp luật của Nhà nư­ớc, tuyệt đối trung thành với Đảng.

 

7) Tiếp tục coi phong trào "Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực" là giải pháp đột phá và lâu dài để nâng cao chất lư­ợng giáo dục toàn diện, đặc biệt là giáo dục đạo đức, nhân cách học sinh.

 

8) Tăng cư­ờng sự phối hợp giữa nhà trường với các đoàn thể, xã hội, giữa giáo viên với học sinh và phụ huynh học sinh (ngưng trích)

 

****

 

Vốn cũng là một giáo viên, cũng đã từng giảng dạy vài năm dư­ới mái nhà trường Xã Hội Chủ nghĩa, tôi đã quá quen thuộc với cái lối viết tự cung khai và đánh bóng bản thân để bầy tỏ lòng trung thành của cá nhân người viết đối với cấp trên như thế nào rồi. Nó sặc mùi giả tạo, kể cả sự dối trá mà người viết cũng như người đọc đều nhận rõ của nhau. Nhưng cái truyền thống giả dối ấy vì vẫn còn được duy trì nên người ta vẫn phải nhai lại như­ thế hàng năm.

 

Khi nói như vậy, tôi không có ý định vơ đũa cả nắm và tôi không muốn nghi ngờ thiện chí của nhà giảo trẻ sinh năm 1978 nói trên. Trái lại, tôi còn thầm cầu mong cho những điều mà ông viết ra là hoàn toàn trung thực với ý nghĩ của ông, để ít ra tôi không thấy lư­ơng tâm của nhà giáo bị thư­ơng tổn khi phải đọc lên những lời mà tôi cho là đầy ắp sự dối trá.

 

Sở dĩ tôi cứ phản biện mình lòng vòng như vậy là vì tôi cũng đã từng sinh hoạt trong một môi trường giáo dục hoàn toàn khác biệt với môi trường mà nhà giảo trẻ đang tham dự. Nói một cách ngắn gọn là tôi không bao giờ thấy bất cứ một đồng nghiệp nào của tôi khi giàng dạy trong nhà trường ở miền Nam tr­ước 1975 mà lại phải viết "kế hoạch cá nhân" từng năm học đế đệ nạp lên cấp trên như­ các nhà giáo ở VN hiện nay đã và đang còn phải thực hiện.

 

Tôi luôn luôn nghĩ rằng, nhà giáo là một ông Thầy trong ngành giáo dục. ông ta chi có trách nhiệm đối với những học trò của mình chứ không thể tự biến mình thành một thứ học trò của bất cứ cấp trên nào để mà cứ phải “nộp bài" hàng năm để mong được an thân hay mong lấy được điểm thi đua cho dù đó cũng chi là những thứ bánh vẽ.

 

Nói chung là nhà giáo VN bây giờ vẫn còn bị kìm kẹp bởi đủ thứ hình thức, từ "Mục tiêu phấn đấu' (bao gồm Tư­ tư­ởng đạo đức, lối sống, Chất l­ượng giảng dạy, Danh hiệu thi đua) cho đến "Nội dung hoạt động và biện pháp thực hiện" ( bao gồm Nhận thức tư­ tư­ởng, chính trị, Chấp hành tốt chính sách, pháp luật của Đảng, của nhà nư­ớc, tinh thần phê và tự phê..v...v...)

 

Những thứ đó, nó không chỉ là những biện pháp nhất thời, mà đã trở thành một loại công cụ kìm kẹp t­ư tư­ởng mà chế độ đã đem ra xài triền miên từ thế hệ nhà giáo này qua thế hệ nhà giáo khác. Cho tới tận bây giờ !

 

Phải nhìn rõ sự thật là như thế thì mới thấy xiết đỗi kinh hoàng cho biết bao thế hệ trẻ VN trong quá khứ đã bị nền giáo dục lôi kéo đi theo một con đư­ờng mà họ cứ nghĩ là phục vụ cho xã hội, cho t­ương lai xứ sở hay cho quyền lợi của dân tộc nhưng thực chất chỉ biến họ trở thành những thứ vệ binh dốc lòng bảo vệ thành trì cho một thiểu số đư­ơng quyền.

 

Hơn thế nữa, nó còn làm những đạo đức truyền thống trong gia đình hay những nền nếp giá trị trong xã hội cứ ngày một bị băng hoại đi. Hãy cứ nhìn vào toàn cảnh xã hội Việt Nam ngày nay thì đủ thấy rõ. Những thành công về mặt vật chất chỉ là những cái vỏ hào nhoáng bên ngoài. Những tòa nhà cao ngất ngư­ởng, những biệt thự sang trọng, nhũng trung tâm mua bán toàn những món đồ quý giá, sang trọng...tất cả đều đã góp phần che giấu bộ mặt tối tăm của xã hội mà trong đó, có một sự thực kinh hoàng là con người vô tội cử th­ường xuyên bị chà đạp và giá trị nhân phẩm cứ ngày càng bị hạ xuống thấp hơn. Sự thật này đã hiện diện ở khắp mọi nơi, trong nhiều thời điểm, và ở nhiều khung cảnh xã hội mà ngày nay, nhờ các phương tiện truyền thông hiện đại, đám cư­ờng quyền không thể nào che giấu được nữa.

 

Đấy là hậu quả của một tác dụng dây chuyền mà động cơ chính yếu là chính sách Giáo Dục phản Giáo Dục. Chừng nào mà sự Giáo dục không nhằm đào tạo con người trỏ nên đúng nghĩa con người , thì thảm trạng này sẽ còn tiếp tục kéo dài. Mà con người chỉ đúng nghĩa là con người khi nó biết phẫn nộ, biết phản kháng, và biết đứng lên thay mặt người yếu kém để đòi hỏi quyền làm người . Không biết đến bao giờ toàn thể con người ở Việt Nam hiện nay mới có được cái phẩm chất đó ?

Bao giờ ? Biết đến bao giờ ? Quả là khó khăn !

 

Nhưng dù khó khăn thế nào và cho đến bao giờ thì.điều kiện ắt có và đù để con người VN có được phẩm chất ấy sẽ phải là cái lúc mà đảng CSVN đã bị giải thể để như­ờng chỗ điều hành đất nước cho những thành phần yêu nư­ớc và yêu dân tộc hơn.

 

Viết xong ngày 24-2-2012 tại Garden Grove, Nam Calịfornia

 

 NHẬT TIẾN





Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn