53Vote
40Vote
30Vote
20Vote
10Vote
53
“
Ở bên nhà em không còn đứng chờ đợi anh Đợi anh về anh hôn vào mắt nằng mầu nhung Ở bên nhà em đi lao động Ở bên này anh ra biển rộng Gọi trùng dương…” [Phạm Duy]

Bài hát ngày nào tự nhiên trở lại trong đầu, lúc ba giờ sáng khi nhớ về tên tập thơ ” Tháng Ba Ra Biển”. Thi tập thứ ba của Nguyễn Văn Ngọc, sau Lòng Riêng Như Được, 2001 và Chuyện Kể, 2002.
Tác giả, từ trước 1975, có “thơ đăng ở Tuổi Ngọc, Văn”. “Từ 1985,[có] thơ đăng ở Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Thư Quán Bản Thảo.”
“Tháng Ba Ra Biển” ở đây là nhớ về, là lắng đọng gom lại trong 90 trang sách. Từ “uống rượu ở Long Hương” ở trang ba làm nhớ Long Hương. Đêm trung đội vượt cầu Long Hương nhào vô Phước Tuy tháng 4, 1975. Đến “khi về hậu cứ”, thằng Trung Hậu kéo vào câu lạc bộ, lai rai đỡ nhớ Đà Nẵng vừa mất tháng ba bảy lăm.
Long Hương, của Nguyễn Văn Ngọc, sau thời “tan hàng cố gắng”:
“
chiều muộn, còn loanh quanh Bà Rịa trễ chuyến xe trở lại Vũng Tàu may đâu gặp bạn nơi phố chợ đạp xích – lô giữa buổi cơ cầu …. bạn chở về nhà giới thiệu vợ bắt vịt giục làm món tiết canh sai con ra tiệm mua lít rượu ta lỡ đường chợt ấm tình thân”Trước đó [ đâu chừng vài năm ] “khi về hậu cứ”:
“
tròn hai tháng hành quân đại đội về hậu cứ mừng ta, vẫn sống nhăn sau mấy lần đụng độ. doanh trại bên này đường xéo bên kia, quán nhậu bạn, mấy thằng độc thân tối, kéo qua uống rượu. này, cô chủ dễ thương dọn thêm vài món nhấm suốt đêm nay không chừng bọn tôi say tới bến. [ ... ] lương mới lãnh còn nguyên hãy cụng ly, chết bỏ mai mốt lại lên rừng biết có còn dịp nữa?“
Đó “là thời đi dọc đi ngang – đi lên đi xuống thu vàng áo ai”. Thời nhìn xe đò xuôi ngược trên quốc lộ mà buồn.
“
ở đây tháng Sáu trời mưa lang thang mấy vòng phố chợ chạnh lòng ta lính xa nhà chưa phép về thăm quê cũ.”
Tôi cũng là một người lính. Đọc những bài thơ về lính, đời lính thuở đó lại chạnh lòng. Bao nhiêu năm không trở lại nhà, nhà của ba mẹ, sau lần bay đêm theo đơn vị rời Đà Nẵng. Mới sáu tháng trước nghe em nói về Sàigòn, về Đà Nẵng. Về những con đường mang tên đám thổ tả. Biết là đổi lắm rồi, nhìn không ra nữa như “Sài Gòn Tưởng Tượng”:
“
tôi về ngơ ngác Sài Gòn lô nhô cao ốc chắn vòm trời xanh những con đường cũ, thay tên ngợp giòng xe cộ, mông mênh biển người. tôi về buồng phổi thiếu hơi sớm mai, đã khói bụi đầy không gian mặt dấu mặt sau khẩu trang ô hay thành phố phải chăng, nhiễm trùng? tôi về như Mán ở rừng lạ ngôn ngữ, lạ áo quần, tóc tai nhìn quanh, âm bản phương Tây bước sâu ngõ hẹp, đời bày tang thương. tôi về lạc giữa Sài Gòn tìm hoài chẳng thấy những hồn năm xưa!”Nhưng “số đào hoa lại nòi võ bị”, nhớ về có chỗ ấm lòng hơn. Nhớ Huế:
“
nhớ ngôi nhà đường Lê Đại Hành khuất lấp sau hàng rào bông giấy nơi em viết trăm tờ thư xanh gởi trao tôi bao niềm thân ái. nhớ mỗi ngày em mặc áo nâu đạp xe đến trường Nông Lâm Súc qua ngõ cũ, mùa rơi hoa ngâu em như cài nơ vàng trên tóc. [ ... ] nhớ tên em trần-thy-bých-tâmvà Vũng Tàu, những ngày hạnh phúcnhưng hoàng thành hẹn sẽ ghé thămtôi đã lỡ, rồi em lạc mất. chưa một lần đến Huế của emsao tôi hay nhớ về Tây Lộccó phải tình đầu không dễ quên “Có lần nhà thơ Đỗ Quý Toàn đã viết “… Đoạn dưới là của một nhà thơ tôi vừa đọc lần đầu tiên (báo Thế Kỷ 21 xuân Canh Ngọ, tháng 1 – 1990) nhưng tôi thâý đoạn thơ thứ hai * đầy chất thơ.”
Từ hai tập thơ đầu đến tập thơ thứ ba là mười năm hơn. Nguyễn Văn Ngọc vẫn âm thầm viết. Và xuất bản. Tôi phục. Và không biết sao những người có thời sống chết, khi làm thơ, lại rất thơ.
Nguyễn Nam An[ 20 tháng 11, 2012 ]
* Bài Xuôi Nam – thơ Nguyễn Văn Ngọc
Theo QuyênBook