BÀI ĐỌC NHIỀU NHẤT
(Xem: 72828)
(Xem: 62104)
(Xem: 39204)
(Xem: 31058)
SỐ LƯỢT XEM TRANG
0

Huế 1968: Địa Ngục mở cửa

06 Tháng Hai 201312:00 SA(Xem: 2128)
Huế 1968: Địa Ngục mở cửa
50Vote
40Vote
30Vote
20Vote
10Vote
00
HUẾ -Khuya Mùng Một, rạng sáng Mùng Hai Tết Mậu Thân, tức 31 Tháng Giêng, 1968, Huế bắt đầu những ngày vui, nhưng bất ngờ chuyển thành ngưỡng cửa vào địa ngục, khi tiếng súng bỗng hòa vào, rồi thay hẳn tiếng pháo.

Cố Đô những ngày giáp Tết

 1968, những ngày giáp Tết Mậu Thân, Huế vẫn bình yên, một tình trạng bình yên của thời chiến. Chợ hoa đầu cầu Trường Tiền vẫn mở. Chợ Đông Ba, dân chúng vẫn tụ tập, mọi người vẫn hớn hở. Vẫn có tiếng đại bác xa xa vọng về, nhưng vẫn là một trạng thái yên bình.

Linh Mục Phan Văn Lợi, vào thời điểm 1968, mới 17 tuổi, hồi tưởng: “Tình hình tạm yên, vẫn nghe tiếng đại bác từ xa vọng về. Nhưng lúc ấy tôi thấy yên lành hơn. Vì thường thường hai bên đình chiến.”

Đình chiến, một danh từ hấp dẫn. Đối với Huế, đình chiến có nghĩa là được thêm vài chục giờ thanh bình.

Hồi tưởng lại những ngày giáp Tết Mậu Thân, ông Nguyễn Phúc Liên Thành, lúc ấy là phó trưởng ty Cảnh Sát Đặc Biệt, Lực Lượng Cảnh Sát Quốc Gia, tại Thừa Thiên, cho biết: “Huế những ngày ấy thanh bình hơn những ngày khác. Chợ Hoa đầu cầu Trường Tiền, chợ Đông Ba, đông dân chúng tụ tập, mọi người hớn hở. Mọi người biết có thỏa hiệp đình chiến giữa Việt Nam Cộng Hòa, đồng minh và Việt Cộng. Đình chiến ba ngày Tết để dân chúng được hưởng một cái Tết thanh bình giữa tình trạng chiến tranh.”

Từ Sài Gòn, những người gốc Huế cũng háo hức về đất thần kinh đón Xuân. Anh Nguyễn Xuân Thắng, năm 1968 vừa tròn 7 tuổi, nhớ lại: “Mình là dân Huế, được về Huế thì rất mừng. Khung cảnh Huế yên tĩnh, rất thơ mộng. Tối 30, ông bác dẫn về nhà ông nội ở đường Hàn Thuyên, đối diện nhà Luật Sư Lê Trọng Quát. Tối đó người lớn đi chơi thì chở mình đi theo.”

“Ra đến cầu Tràng Tiền thì thấy xe tăng hai bên đường. Tôi nghe người lớn nói với nhau: Không biết chuyện gì xảy ra tối nay.”

Và tối hôm ấy, mọi chuyện xảy ra thật.

 “Họ” đã vào thành phố

 Huế bị tấn công trong Chiến Dịch Đông Xuân 1967-1968 của quân đội miền Bắc một ngày sau các tỉnh, thành phố, thị trấn khác của miền Nam.

Bị tấn công sau, nhưng Huế lại trở thành chiến trường tàn khốc nhất, dai dẳng nhất. Nếu chấp nhận định nghĩa, là những tiếng đạn pháo đầu tiên sẽ qui định giờ khắc bắt đầu cuộc chiến, thì Huế chính thức trở thành chiến trường vào đúng 2 giờ 33 phút rạng sáng ngày 31 Tháng Giêng.

Ông Nguyễn Phúc Liên Thành nhớ lại: “Cuộc tấn công Huế chính thức khơi mào đêm Mồng Một, ngày 31 Tháng Giêng, 1968, rạng sáng Mồng Hai Tết, lúc 2 giờ 33 phút. Những quả đạn Việt Cộng đầu tiên bắn vào phi trường Tây Lộc, Bộ Tư Lệnh và một số địa điểm quận 3, thị xã Huế.”






Khoảng thời gian đình chiến, theo tài liệu xuất bản Tháng Tám, 1968, do Trung Tá Phạm Văn Sơn chủ biên, trước định 48 giờ, sau được lệnh rút xuống 36, nghĩa là, lệnh hưu chiến chỉ còn giá trị từ 18 giờ ngày 29 Tháng Giêng đến 6 giờ ngày 31 Tháng Giêng, 1968.

Thực tế, bộ đội Bắc Việt đã có mặt trong thành phố từ sáng sớm Mùng Một Tết. Ông Trần Ngọc Huế, vào thời điểm đó là đại đội trưởng Đại Đội Hắc Báo thuộc Sư Đoàn 1 Bộ Binh, kể lại, cho đến buổi tối, khi phía Bắc Việt bắt đầu tấn công, ông mới trực tiếp nhìn thấy bộ đội đặc công di chuyển vào sân bay Thành Nội. Ông thừa nhận, quân đội Bắc Việt có ưu điểm là giữ bí mật: “Tối đó, sau khi bố trí đơn vị, tôi về nhà. Đến khuya thì một trung úy của tôi lái xe đi tuần. Tôi nói, mai về sớm để đón tôi vào đơn vị. Đến khuya thì phía Bắc Việt bắt đầu đánh. Tôi mặc áo quần rồi lấy chiếc xe đạp ra đi. Trên đường đi, tôi thấy đặc công tiến vào sân bay Thành Nội. Họ đi lúp xúp, tôi nhìn kỹ, thấy không phải mình. Họ ngụy trang, đi quẹo vào phi trường, tôi đi chầm chậm sau đó, rồi băng qua cống Vĩnh Lợi, đánh kẻng báo động.”

Đến 2 giờ 33 phút sáng ngày Mồng Hai, những trái đạn pháo đầu tiên được bắn vào phi trường Tây Lộc, Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh và một số địa điểm tại quận 3, thuộc thị xã Huế.

Ông Trần Ngọc Huế nhớ lại, có thời điểm, đặc công của phía Bắc Việt vào đến tận bên trong Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh, cách phòng Tướng Tư Lệnh Ngô Quang Trưởng chỉ 30 mét, và Tướng Trưởng cũng đang có mặt tại đó.

Ông Huế hồi tưởng: “Đặc công đã vào trong Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 1 rồi. Lúc đó là 10 giờ sáng, chuẩn bị mở đường máu vào Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn để giữ an ninh cho bộ tư lệnh. Đặc công chỉ còn cách văn phòng Tướng Trưởng 30 mét.”

Chiếm thành phố Huế đến đâu, phía Bắc Việt lập “Chính Quyền Cách Mạng” đến đó. Ông Nguyễn Phúc Liên Thành kể lại, khi Việt Cộng làm chủ Huế qua ngày thứ hai thì họ bắt đầu thành lập “chính quyền Cách Mạng”.

Cụ thể, tại quận Nhì, thành ủy viên Thành Ủy Huế, Hoàng Kim Loan, cấp trung tá, đứng đầu cùng Hoàng Lanh. Chính quyền quận Nhất cũng được thành lập. Riêng quận 3 chưa kịp nhưng được giao cho Đại Tá Bảy Lanh, phụ trách An Ninh Thành.

 Chiến trường của danh dự

 “Người dân Huế bị dồn vào đường cùng, không còn chọn lựa nào khác nên phải chọn chiến đấu. Chiến đấu để tự tồn. Chiến đấu để có tự do. Chiến đấu để sống hay là chết.” Ông Trần Ngọc Huế, người chỉ huy Đại Đội Hắc Báo thuộc Sư Đoàn 1 Bộ Binh tái chiếm Đại Nội ngày 22 Tháng Hai, 1968, nhớ lại.

Huế, Tháng Hai, 1968, mỗi tấc đất là một tấc máu. Máu của tất cả những ai có mặt tại Huế; của người dân Huế, của các lực lượng Việt Nam Cộng Hòa, của các lực lượng Hoa Kỳ, và của các lực lượng Bắc Việt.

Huế trở thành chiến trường đổ lửa, vì Huế là nơi “không một ai muốn mất”.

“Huế không lớn, nhưng đánh dai dẳng vì quyết tâm của Cộng Sản muốn thắng bằng bất cứ giá nào. Mà ý chí của miền Nam và người dân Huế cũng bằng bất cứ giá nào phải giành lấy mảnh đất thiêng liêng của mình.” Ông Trần Ngọc Huế tâm sự.

Thời điểm ấy, chỉ một thời gian rất ngắn sau khi vào Huế, phía Bắc Việt đã có thể tự do đi lại. Trong ngày Mùng Hai Tết, quân đội Bắc Việt di chuyển trong thành phố, kiểm soát dân chúng như chỗ không người.

Phía miền Nam, Việt Nam Cộng Hòa cùng đồng minh phải bắt đầu từ đầu nhiệm vụ vãn hồi an bình cho Huế.

“Hai bên quần thảo, tiến lên, rồi lui lại, rồi lại tiến lên, rồi lui lại, tranh từng căn nhà, từng khu phố. Mỗi tấc đất là một tấc máu. Từng cái nhà, đánh liên tục không có thời giờ ăn và thời giờ ngủ. Đánh liên tục. Nhiều khi phải chia thành từng tổ hai, ba người thay phiên nhau ngủ.” Vẫn theo lời ông Trần Ngọc Huế.

Huế trở thành chiến trường của an ninh, của vận mệnh, và của cả danh dự.

Quân đội Bắc Việt, quân lực Việt Nam Cộng Hòa, và quân đội đồng minh Hoa Kỳ quần thảo trên một chiến trường không lớn, giữa thành quách kinh đô cũ và giữa nỗi kinh hoàng của dân Huế trong nỗi lo sợ thảm sát, vốn đã xảy ra ngay từ đầu khi miền Bắc kiểm soát và lập chính quyền tại Huế.

Theo lời kể của hai người trong cuộc, là ông Nguyễn Văn Ngẫu, vào năm 1968 là thiếu úy thuộc Trung Đoàn 3, Sư Đoàn 1 Bộ Binh và ông Trần Ngọc Huế, đại đội trưởng Đại Đội Hắc Báo thuộc Sư Đoàn 1 Bộ Binh, các lực lượng tham gia chiến trường Huế vào thời điểm Mậu Thân gồm có:

Phía Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa có Sư Đoàn 1 Bộ Binh, Thiết Đoàn 7 Kỵ Binh, Lực lượng Sư Đoàn Nhảy Dù và Thủy Quân Lục Chiến, các tiểu đoàn Biệt Động Quân Quân Đoàn 1, một đại đội trinh sát, trực thăng và máy bay skyrider với sự yểm trợ của máy bay phản lực và trực thăng Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ.

Phía Pháo Binh có 2 tiểu đoàn cơ hữu thuộc Sư Đoàn 1. Phía Hải Quân có Giang Đoàn 11 và 12 yểm trợ chiến trường.

Phía đồng minh Hoa Kỳ có Thủy Quân Lục Chiến, Sư Đoàn 101 Nhảy Dù và Sư Đoàn 1 Không Kỵ.

Thiếu Úy Nguyễn Văn Ngẫu nhớ lại những ngày chuẩn bị phản công: “Sau 31 Tháng Giêng, dân chúng đang ăn Tết vui vẻ. Thành phố Huế trở thành trọng tâm của chiến trường. Đặc công và nội thành do Trung Tá Khánh Lửa dẫn quân vào bốn Kỳ Đài và 4 con đường chính gồm vùng An Hòa, Thượng Tứ, Cửa Ngăn, Cửa Sập từ vùng núi đi về tập kích. Lực lượng Nội Thành gần đó đang đóng ở Thượng Tứ, Cửa Ngăn, Cửa Sập cũng tiến vào. Đơn vị tôi đang đóng tại quận Hương Trà. Một ngày sau khi nổi lên, Tướng Ngô Quang Trưởng trực tiếp điện đàm với Quân Khu 1, Tướng Hoàng Xuân Lãm, tổng tham mưu, và sau hai ngày là bắt đầu phản công.”

Đại Nội, biểu tượng của kinh thành Huế, nằm gần Kỳ Đài ở Phu Văn Lâu. Lúc ấy, cờ của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam đang bay giữa trung tâm Huế.

Ngày 18 Tháng Hai, Thiếu Úy Nguyễn Văn Ngẫu và đơn vị nhận được lệnh trình diện Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh. Tại đây, Tướng Tư Lệnh Ngô Quang Trưởng trực tiếp giao nhiệm vụ đặc biệt cho tiểu đoàn của Thiếu Úy Nguyễn Văn Ngẫu: Đánh chiếm và dựng lại cờ Việt Nam Cộng Hòa ở Kỳ Đài.

“Hướng dẫn đại đội ra khỏi sư đoàn, đến đường Mai Thúc Loan, Tướng Trưởng chỉ tay về phía lá cờ Mặt Trận Giải Phóng cách khoảng 1 cây số, nói: ‘Nhiệm vụ của 'toa' đấy.’ Rồi ông đưa bản đồ hành quân, các cơ quan liên lạc, và hỏi tôi một vài câu hỏi. Tôi trả lời, chính tôi là người muốn thắng trận, và tôi ngỏ ý cần một lá cờ để thay thế cờ Mặt Trận.” Lời Thiếu Úy Nguyễn Văn Ngẫu.

Cùng thời điểm ấy, người chỉ huy Đại Đội Hắc Báo cũng ngỏ lời với Tướng Ngô Quang Trưởng, yêu cầu được giao nhiệm vụ tái chiếm Đại Nội: “Cuối cùng chúng tôi yêu cầu tướng tư lệnh được tái chiếm Đại Nội, là biểu tượng về nền tự chủ và độc lập của Việt Nam từ năm 1802. Chúng tôi được vinh dự lãnh trách nhiệm tái chiếm Huế từ tay Cộng Sản. Và chúng tôi đã hoàn thành nhiệm vụ của con dân Huế và miền Nam.”

Mười giờ sáng ngày 22, cờ Việt Nam Cộng Hòa được kéo lên Kỳ Đài sau khi hai người lính bị phía Bắc Việt từ Đại Nội bắn tỉa.

Thời khắc lịch sử tại Kỳ Đài, Phu Lâu, Huế 1968


“Bên kia là tòa tỉnh, các phái đoàn tổng tham mưu, truyền hình, truyền thanh, hàng chục ngàn dân nhìn lên lá cờ để tưởng niệm những ngày tang thương nhất qua đi. Nhìn lá cờ mà rưng rưng nước mắt, bao nhiêu ngày bị bao phủ bởi khổ đau.” Thiếu Úy Nguyễn Văn Ngẫu nhớ lại.

Hai giờ chiều cùng ngày, Đại Đội Hắc Báo chiếm Đại Nội: “Tấn công nhưng phải bảo vệ di tích lịch sử. Phải bảo tồn. Chúng tôi cũng yêu cầu người Mỹ như vậy. Tôi là con dân Việt Nam, tôi tôn trọng di tích tổ tiên để lại.”

Hai ngày sau, an bình được vãn hồi hoàn toàn tại Huế. Người dân trở lại thành phố, vừa ngơ ngác, vừa vui mừng, vừa chờ đợi. Họ chờ đợi sự trở lại của người thân đã bị bắt đi trong thời gian phía Bắc Việt chiếm Huế. Chờ đợi, để rồi họ bàng hoàng nhận ra: Tất cả đã bị giết!

 Cảnh tượng kinh hoàng

 Sau trận chiến, Huế bắt đầu một cơn ác mộng khác, khi người dân Huế nhận ra, nhiều ngàn người dân đất thần kinh đã bị thảm sát, bằng nhiều cách khác nhau, trong đó có cả việc cột người ta lại thành từng xâu, rồi đẩy xuống hố chôn sống. Đây là lời kể của những người chứng kiến tận mắt cảnh khai quật tử thi nạn nhân.

Những cái chết oan khuất


Theo nhà báo Vũ Ánh, nguyên phóng viên Mặt Trận Hệ Thống Truyền Thanh Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa, có mặt tại Huế từ mùng Năm đến 29 Tết Mậu Thân, thì Bác Sĩ Lê Khắc Quyến đã phải thốt lên khi thấy các hầm chôn tập thể tại Phú Thứ: “Đây là cách giết người của người ở thời Trung Cổ.”

Nhà báo Vũ Ánh, người đi theo các nhóm tìm hầm chôn xác tập thể, kể lại cảm giác của ông khi lần đầu nhìn thấy những cảnh tượng ấy: “Vùng nhiều nhất là quận Phú Thứ và Dạ Lê Thượng. Rất nhiều hầm chôn xác tập thể. Cảm giác tôi lúc ấy rất lạ, như là bị tê liệt khi nhìn các hình ảnh đó.”

Ngay ở hầm Phú Thứ, theo lời nhà báo Vũ Ánh, khoảng gần 1,000 người bị chôn tập thể. Khi khui lên, đầu của họ phía sau sọ bị bể hết. Những thi hài bị nối nhau bằng dây điện thoại. Có những người không có vết thương, chứng tỏ bị chôn sống. Sau này, một nhân chứng cho biết: Họ được lệnh đập đầu bằng đầu cuốc, từ phía lưỡi vào. Quan trọng nhất là, theo nhân chứng: Người này phải đập người kia. Cứ 10 người thì bị cột lại bằng dây điện thoại, và đều bị đập vỡ từ phía sau.

“Các hố cách khoảng nhau. Một hố vào khoảng 10 đến 20 người. Trong các hố, nào là đứng, nào là nằm, nào là ngồi, lộn xộn. Các thi hài khi đào lên, thịt xương đã rã ra.” Ông Võ Văn Bằng, trưởng Ban Truy Tìm và Cải Táng Nạn Nhân Cộng Sản Tết Mậu Thân, hồi tưởng.

Ông Bằng nhớ lại: “Trên thi hài còn thấy những dây lạt trói lại, cả dây điện thoại nữa, trói thành chùm với nhau. Có lẽ, họ bị xô vào hố thành từng chùm. Một số người đầu bị vỡ hoặc bị lủng. Lủng là do bắn, vỡ là do cuốc xẻng.”

Mức độ kinh hoàng dâng lên, từ từ, từng ngày, từng tuần, từng tháng. Rồi, đến ngày 19 Tháng Chín, 1969, tức là 20 tháng sau trận Mậu Thân, Huế vỡ òa với những phát hiện về vụ thảm sát tại Khe Đá Mài thuộc quận Nam Hòa. Người ta tìm ra khoảng 400 bộ hài cốt. Những hài cốt chỉ còn xương và sọ. Thịt da đã rữa và trôi đi theo dòng nước.

Huế 1968, là Huế của “chiều đi lên Bãi Dâu, hát trên những xác người”.

Huế 1968, là Huế của “đàn con nay lớn khôn, mang gươm đao vào xóm làng”.

Huế 1968, là Huế của khăn sô vào áo tang trắng. Đó là những hình ảnh không thể nào quên với những ai đã một lần chứng kiến.

“Mỗi lần nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế làm lễ, dân chúng đi lễ, cả nhà thờ mặc đồ trắng và để tang trắng. Trắng cả nhà thờ.” Ông Trần Tiễn San, trung úy Tiểu Đoàn 39 Biệt Động Quân vào năm 1968, kể lại. “Dọc đường, từ đường Lê Lợi, các quận lên mồ chôn tập thể Ba Đồn toàn khăn tang áo trắng.”

Những địa danh của Huế, vốn chỉ được biết trong cộng đồng cư dân Huế, nay bỗng chốc, trở thành đề tài bán tán của dư luận, trên báo chí quốc gia, và cả quốc tế; một Gia Hội, một Cồn Hến, một Chợ Thông, một Phú Thứ, một Khe Đá Mài, một Bãi Dâu...

 25 ngày thảm sát

 Ông Liên Thành nhớ lại, những ngày Huế rơi vào tay quân đội Bắc Việt, trước khi phía Việt Nam Cộng Hòa và đồng minh tái chiếm, Cộng Sản chiếm đến đâu thì thành lập “chính quyền cách mạng” đến đó: “Lập chính quyền xong, đầu tiên họ kêu gọi quân nhân cán chính trong thành phố ra trình diện. Sau khi trình diện thì được cấp giấy, có quyền đi lại, coi như giấy thông hành. Những người này về nói lại với người khác, người kế tiếp ra trình diện. Đến lần thứ ba thì họ yêu cầu tất cả những người đã trình diện lần một và hai ra trình diện lại, đây là lần quyết định.”

Khi tất cả mọi người ra trình diện, vào lần thứ ba, thì phía Cộng Sản bắt đầu cuộc thảm sát.

Đầu tiên là những “tòa án nhân dân”: “Ngay lúc đầu, một số người bị đưa ra tòa án nhân dân xử và chôn sống tại Bãi Dâu, tại vùng chùa Áo Vàng gần chùa Diệu Đế và một số nơi khác trong quận Nhì.”

Tiếp theo là Dòng Chúa Cứu Thế và nhà thờ lớn Phủ Cam: “Riêng tại quận Ba, Việt Cộng bắt đi hơn 500 người đang trốn trong Dòng Chúa Cứu Thế, dẫn đi hết, rồi chôn sống. Tội nghiệp nhất là một số nạn nhân hoàn toàn không dính dáng gì đến chính quyền. Ngoài ra, trong số này còn có một người rất tiếng tăm là Thượng Nghị Sĩ Trần Điền. Tại vùng Phủ Cam, bốn ngày sau khi Việt Cộng chiếm Huế, Nhà Thờ Lớn Phủ Cam bị ập vào, 300 thanh niên bị bắt đi, sau này xác của họ được tìm thấy ở vùng phía Tây Nam Hòa, tức vùng núi dọc khe Đá Mài, lăng Gia Long.”

Đã có bao nhiêu người bị giết, và đã có bao nhiêu địa điểm chôn người? Giáo Sư Nguyễn Lý Tưởng, cựu dân biểu đại diện khu vực Thừa Thiên, nói rằng con số 5 đến 6 ngàn người là không sai lệch mấy. Và khoảng 22 địa điểm trở thành nơi che giấu các thi hài: “Tại thành phố Huế và tỉnh Thừa Thiên, 22 địa điểm tìm được là các mồ chôn tập thể. Trong 22 địa điểm này, người ta đếm được 2,326 sọ người. Sau Tết, chúng tôi lập Hội Gia Đình Nạn Nhân Cộng Sản trong Tết Mậu Thân. Các gia đình kê khai có người chết, có người mất tích, lên đến 4,000 gia đình. Người ta ước tính vào khoảng 6,000 người. Có nhà báo ước tính 5,000. Chúng tôi cho con số 5 đến 6 ngàn là không sai lệch lắm đâu.”

Ông Nguyễn Lý Tưởng kể lại, cuộc tìm kiếm nạn nhân Tết Mậu Thân bắt đầu từ giai đoạn Tết đến Mùa Hè năm 1968 và đỉnh điểm là vụ Khe Đá Mài, thuộc đỉnh núi Đình Môn Kim Ngọc. Tại đây, khoảng 400 bộ hài cốt được tìm thấy. Những hài cốt tìm thấy tại Khe Đá Mài chính là của những người trú ẩn tại xứ đạo Phủ Cam, thuộc làng Phủ Cam, xã Thủy Phước, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên.

“Cộng Sản bắt đi trên 500 người, thanh niên từ 15, 16 tuổi đến ông già 60, 70 bị đưa đi giam ở chùa Từ Đàm. Đến đêm, họ bị dẫn lên đường núi và qua sông. Sau đó tàn sát hết mọi người trong tư thế bị trói. Khi tàn sát thì dùng súng máy, trung liên, đại liên, cả lựu đạn. Các xác sau đó bị vùi xuống khe.” Ông Nguyễn Lý Tưởng kể lại.

“Từ Tết, tức Tháng Hai, 1968 đến Tháng Chín, 1969, khoảng 20 tháng, có một số người của Cộng Sản về hồi chánh, đã chỉ ra địa điểm thảm sát. Phía Việt Nam Cộng Hòa mở đường hành quân vào tìm, thì tìm được. Tại đây, họ thấy sọ người, xương người dồn đống dưới khe. Nơi đây thuộc quận Nam Hòa, có tên là Khe Đá Mài, thuộc vùng núi Đình Môn Kim Ngọc.” Vẫn theo lời ông Nguyễn Lý Tưởng.

“Quân đội mang hết xương và sọ về để tại một trường tiểu học thuộc quận Nam Hòa, các đồ vật gồm có thẻ căn cước bọc nhựa, có áo quần, đồ dùng, vật kỷ niệm mang theo trong người. Hàng ngàn thân nhân đến tìm. Nhờ đó, gia đình tìm được dấu vết. Trong số các nạn nhân, có cả học trò tôi, như em Phan Minh, Bùi Kha, mới 16, 17 tuổi.”

Một trong những vụ thảm sát gây phẫn nộ dư luận quốc tế là vụ giết bốn bác sĩ người Đức sang giảng dạy và làm việc tại trường Đại Học Y Khoa Huế. Trong bài viết “The Vietcong Massacre at Hue,” xuất bản năm 1976, một bác sĩ có tên Elje Vannema kể rằng ông bà bác sĩ Horst Gunther Krainick và hai bác sĩ Raymund Discher cùng Alterkoster bị giết trong Tháng Hai, 1968 tại chùa Tường Vân hoặc một vùng đất nhiều cây cối cách chùa chừng nửa dặm, nơi người ta tìm thấy thi hài của các nạn nhân. Bác sĩ người Pháp, có tên Le Hir khám nghiệm tử thi các nạn nhân cho biết có dấu vết đạn xuyên qua đầu và ót.

Ngày 13 Tháng Tư, linh cữu đưa thi hài các bác sĩ này rời Việt Nam về Đức. Hơn 250 sinh viên y khoa Huế và Sài Gòn cùng đội quân danh dự của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đi theo chiếc xe có bốn ngựa kéo, bên trên chở linh cữu các ân nhân.

Một trong những người tham gia đi tìm các hố chôn tập thể thời ấy là ông Võ Văn Bằng, Trưởng Ban Truy Tìm và Cải Táng Nạn Nhân Tết Mậu Thân, nói rằng ủy ban của ông tìm được khoảng 3,000 hài cốt. Trong số ấy, đau đớn nhất, chỉ khoảng 10% là nhận diện được, và được gia đình mang về cải táng.

Số nạn nhân còn lại phải được an táng tập thể tại hai nghĩa trang ở Huế gần núi Ngự Bình là Ba Đồn và Ba Tầng. Dựa trên thi hài và đồ vật còn sót lại của nạn nhân, ông Bằng phỏng tính 20% nạn nhân là quân nhân, 40% là công chức và 40% là dân thường.

Về nguyên ủy thành lập Ủy Ban Truy Tìm và Cải Táng Nạn Nhân, ông Võ Văn Bằng cho biết nhờ “một sự tình cờ,” mà sau đó người dân Huế mới vỡ lẽ là thân nhân mình bị thảm sát tập thể: “Một năm sau, nhân cuộc hành quân của tiểu khu Thừa Thiên ngang qua khu vực giáp giới của Phú Vang, Hương Thủy và Phú Thứ, người ta thấy một đầu lâu trồi lên dưới một trảng cát dài hàng cây số. Đào lên, đó là thi hài của Thiếu Úy Trần Văn Đỉnh, nhận biết được nhờ tấm thẻ bài. Tin này loan ra rất nhanh nên tạo phong trào tìm xác ở Phú Thứ.”

Theo lời ông Võ Văn Bằng, vì người ta bị chôn lớp này trên lớp khác, đến khi tìm được vị trí, thân xác đã không còn nguyên vẹn. Để giúp thân nhân tìm được người thân, ủy ban phải đánh số lên thi hài và ghi các chi tiết liên quan, chẳng hạn “đầu vỡ,” “sọ bể,” tay bị cột như thế nào, dây lạt hay điện thoại, vạt áo, nilông còn sót.

Và rồi đến bước cuối cùng: “Loan tin trên đài phát thanh Huế để đồng bào nhận dạng.”

 Chối bỏ tội ác

 Nỗi kinh hoàng đối với dân Huế qua đi, nhưng trong lòng họ, nỗi đau vẫn còn. Người còn sống vẫn đau với vết thương chưa lành, trong khi người đã khuất vẫn chưa được giải oan.

Học giả Douglas Pike, thuộc Phòng Thông Tin Hoa Kỳ, trong bản báo cáo hoàn tất ngày 1 Tháng Hai, 1970 tại Sài Gòn, viết, chỉ trong một trận Mậu Thân tại Huế, gần 4,800 thường dân đã chết và mất tích. Ông Pike kết thúc lời mở đầu của báo cáo bằng một khẳng định: “Nếu báo cáo của tôi là một bản án đối với thái độ của người Cộng Sản, thì thật sự nó là như vậy đấy. Đơn giản vì thái độ ấy đáng bị lên án.”

Cho đến nay, chưa bao giờ chính quyền Hà Nội lên tiếng giải trình những thảm sát xảy ra cho Huế vào mùa Xuân 1968. Nhiều câu hỏi được đặt ra liên quan đến cuộc thảm sát kinh hoàng này: Ai sẽ chịu trách nhiệm cuối cùng trong Biến Cố Mậu Thân? Những cuộc thảm sát xảy ra trong hoàn cảnh nào? Các nạn nhân xấu số đã bị giết ra sao?

Theo những báo cáo của các cuộc cảnh sát các xã thuộc 13 quận của thành phố Huế và tỉnh Thừa Thiên, do các xã báo cáo, khoảng 5,300 nạn nhân bị chôn sống tại tỉnh Thừa Thiên.

Nhiều nguồn dư luận được đưa ra, liên quan đến thủ phạm của vụ thảm sát. Có người nói, chính những thành phần thiên Cộng tại Huế, đa số là sinh viên, đã thoát ly lên mật khu năm 1966 trong các phong trào sinh viên tranh đấu phải chịu trách nhiệm. Trong số này, những tên tuổi được nhắc đi, nhắc lại gồm có Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Đắc Xuân, Lê Văn Hảo.

Thật sự, một số thành viên trong nhóm này đã về lại Huế trong những ngày Mậu Thân. Điều này được khẳng định bởi ông Nguyễn Phúc Liên Thành, vào thời điểm 1968 là Phó Trưởng Ty Cảnh Sát Đặc Biệt Lực Lượng Cảnh Sát Quốc Gia tại Thừa Thiên: “Năm 1966, như Hoàng Phủ Ngọc Phan, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân... đã vượt thoát lên mật khu, đã xâm nhập vào thành phố Huế trong thời gian đó.”

Trở về Huế, họ có tham gia vào các cuộc thảm sát trong 25 ngày thành Huế thất thủ? Ông Nguyễn Phúc Liên Thành tin rằng, trên thực tế, trong thành phần sinh viên trở về Huế, một số người đã thực hiện các vụ hành quyết, nhưng chỉ là một số rất ít, vì tư thù cá nhân. “Trường hợp đó chỉ là 1 phần trăm. Như trường hợp các sinh viên tranh đấu cũ, nay trở lại, vì thù hận bạn bè, nay mang ra xử và chôn sống, nhưng rất ít.”

Trong khi đó, ông Lê Văn Hảo, từng là chủ tịch Ủy Ban Nhân Dân Cách Mạng Thừa Thiên-Huế vào thời gian ấy, khẳng định về sự vô tội của cá nhân ông: “Đó không phải là sự thật lịch sử. Tôi chỉ là một con tin trong thế kẹt, phải nhận một chức vụ để bảo tồn sự sống còn để mong có ngày về với vợ con thôi. Chứ tôi nói thật, trong Tết Mậu Thân, vai trò của tôi hoàn toàn thụ động, chỉ ngồi trên núi thôi. Lâu lâu, các ông lãnh đạo, như Trần Văn Quang, ghé qua thăm, an ủi là thôi, sự việc diễn tiến như vậy thì mình đi theo Cách Mạng thôi.”

Ông Hảo, trong cuộc trả lời phỏng vấn với Đài Á Châu Tự Do hồi năm 2006 cũng nói về vai trò bù nhìn của Mặt Trận Giải Phóng: “Khi lên trên núi, tôi biết ngay Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam chỉ là một trò bịp bợm, một tổ chức hữu danh vô thực của Cộng Sản, do Hà Nội chỉ đạo.”

Như vậy, câu hỏi là: Ai sẽ phải chịu trách nhiệm cho những cái chết oan khuất của nhiều ngàn người Huế cách đây 45 năm?

Trước khi thử tìm cách trả lời câu hỏi này, hãy nghe những phát biểu nói về cố gắng che giấu tội ác và sự xúc phạm vào nỗi đau của các nạn nhân, từ phía chính quyền Hà Nội.

Nhà báo Vũ Ánh nhớ lại: “Một bản tin của đài Giải Phóng mà về sau tôi nghe được qua kiểm thính của nhân viên của đài (Truyền Thanh Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa) thì họ nói đó là cảnh sát và quân đội VNCH khi thua, rút đi thì làm điều đó. Chuyện đổ vạ là điều bình thường của Cộng Sản từ trước đến giờ. Nhân chứng vẫn còn sống đây thôi, cả trong lẫn ngoài nước. Họ không thể xóa được những điều ấy.”

Trong những trận đánh tại chiến trường Huế, người dân cố đô đã chọn cho mình phía bên nào? Trung úy tiểu đoàn 39 Biệt Động Quân đã tham gia trận tái chiếm Huế, ông Trần Tiễn San, kể lại: “Lúc đánh ở Vỹ Dạ, lực lượng chính của Việt Cộng không còn nữa. Nhưng khó đánh vô cùng. Mình tiến từ nhà này qua nhà khác, nhà thì có kẽm gai, bờ tường. Mình bên này thì dân chúng bên kia thấy là họ đâm đầu chạy qua theo. Không biết làm sao. Dân thì ở giữa làn đạn. Mà họ thấy mình thì họ đâm đầu chạy qua.”

Theo ông Liên Thành, thì năm 1972, ông bắt được một trung tá Việt Cộng, tên Hoàng Kim Loan, là thành ủy viên hoạt động bí mật tại Huế 20 năm. “Tôi [Liên Thành] hỏi: Tại sao các anh thảm sát đồng bào Huế man rợ đến như vậy? Thì Loan nói đây là chủ trương bạo lực cách mạng của cấp trên chỉ thị. Thứ hai, khi trên đường rút lui, do không thể đem theo tù nhân, nên phải giết. Loan nói, người Cộng Sản chúng tôi có chủ trương thà giết lầm còn hơn bỏ sót.”

“Tôi hỏi lại, tại răng không bắn họ, cho họ viên đạn còn dễ hơn lấy búa, dùng vật cứng đập đầu họ và đẩy xuống hố”. Loan nói: “Đạn chúng tôi để bắn Mỹ Ngụy. Đạn đâu để bắn những đám người như vậy.”

Rồi đến năm 1975, khi quân đội Bắc Việt tiến vào miền Nam, một lần nữa, những người đã khuất vẫn không được yên nghỉ. Nghĩa trang trên núi Ba Tầng, còn gọi là núi Bân, nơi an táng khoảng 400 thi hài tìm được nơi Khe Đá Mài vùng Đình Môn Kim Ngọc Tháng Chín, 1969 bị đập phá cả tấm bia và các bàn thờ. Linh Mục Phan Văn Lợi kể lại.

“Năm 1975, sau khi chiếm được miền Nam, Cộng Sản phá ngay tấm bia dựng ở phía sau và phá hai bàn thờ nằm ở phía trước. Từ đó về sau, người ta có đến cũng chỉ đến trong âm thầm lặng lẽ hoặc cá nhân mà thôi, không dám công khai.”

Gần nửa thế kỷ trôi qua kể từ Biến Cố Mậu Thân 1968, vụ thảm sát vẫn là một vết thương chưa lành, “vẫn còn đau mỗi khi trái gió, trở trời.” Người dân Huế sẽ vẫn tiếp tục sống, tiếp tục vươn lên, đó cũng chính là cá tính của người dân đất thần kinh. “Vết thương đó vẫn chưa khô máu, vết sẹo đó mỗi lần trái gió trở trời vẫn đau xót xa.” Nhà văn Huy Phương, cựu Phóng Viên Cục Tâm Lý Chiến VNCH, bày tỏ.

Bốn mươi lăm năm qua là 45 năm người dân Huế đón Xuân cùng lễ giỗ. Bốn mươi lăm năm nhưng vết thương chưa lành. Năm nay, người dân Huế ở hải ngoại lại tổ chức lễ tưởng niệm nạn nhân vụ thảm sát Mậu Thân. Thế nhưng, cho đến nay, đứng trước những cáo buộc suốt gần nửa thế kỷ, của những người thuộc Việt Nam Cộng Hòa, của giới nghiên cứu quốc tế, nhất là Hoa Kỳ, Hà Nội vẫn chưa bao giờ có câu trả lời chính thức: Ai, bằng cách nào, và tại sao, đã giết hàng ngàn người Huế, trong đó có cả sinh viên, thanh niên, học sinh và phụ nữ.

Riêng đối với người dân Huế, với sông Hương, với núi Ngự, với Nam Giao, với thành quách kinh đô cũ, Mùa Xuân 1968 vẫn luôn là một ngày đại tang. Đến bao giờ, công lý và công bằng sẽ được trả lại cho người đã chết?

 Thiện Giao/Người Việt

Ghi chú: Bài viết này được tổng hợp, biên tập lại từ loạt bài của cùng tác giả, đã phát trên đài phát thanh Á Châu Tự Do, RFA, vào năm 2008.

–-
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn