Khi nói chuyện với anh, sau những thăm hỏi sức khỏe, tôi thường hỏi lúc này anh có viết gì không? Anh trả lời cũng muốn viết nhưng chỉ được một lát thì cái đầu nó bừng bừng lên, nên lại thôi, chả viết được gì nhiều.
Được tin anh vào nhà thương, tôi gọi điện thoại nhưng không thấy anh trả lời nên để lại lời nhắn: “Em là Phú. Nghe tin anh bệnh phải vào bệnh viện em điện thoại hỏi thăm. Chúc anh chóng bình phục.”
Muốn biết bệnh tình của anh ra sao, tôi tìm cách liên lạc và sau cùng có số điện thoại của cô Hạnh, người đang chăm sóc cho anh. Tôi điện thoại nói chuyện với cô vào sáng thứ Hai 1-10, hỏi cô xem có thể chuyển điện thoại cho tôi nói chuyện với anh, nhưng cô bảo anh còn mệt lắm không nói chuyện được.
Hỏi cô về bệnh tình và được biết là sau khi rọi quang tuyến và lấy mẫu tế bào phổi qua đường họng để thử nghiệm thì biết bệnh của anh là nặng với khối u trong phổi rất to.
Cô Hạnh nói chắc bác sỹ sẽ cho về nhà hay vào một hospice, nơi dành cho những người bệnh không thể chữa được. Cô nói bây giờ anh mệt, nhưng chắc sẽ khoẻ hơn chiều nay. Tôi nhắn là khi nào anh tỉnh, cô nói dùm là: “Có Phú ở Berkeley gửi lời thăm và chúc anh chóng bình phục.”.
Cô Hạnh kể đi đâu cô cũng mang tập thơ “Hoa địa ngục” để mọi người trong bệnh viện biết nên ai cũng làm hết sức giúp anh. Sáng nay có một linh mục vào làm phép bí tích cho anh nhưng cô không nhớ tên. Lúc sau cô điện thoại, để lại trong máy lời nhắn cho tôi biết đó là cha Cao Phương Kỷ.
Ước nguyện cuối đời của anh là được trở thành người Công giáo và anh đã chọn tên Thánh là Thomas More.
Sáng hôm sau 2-10 được tin anh trút hơi thở cuối cùng. Lòng tôi chùng xuống một nỗi buồn. Tôi cầu nguyện cho linh hồn anh được vào cõi thiên đường.
Tiếng vọng từ đáy vực
Cuối năm 2007, nhân chuyến đi của anh lên miền Bắc California để giới thiệu tập truyện “Hoả Lò / Hanoi Hilton Stories”, tôi có mời anh về nhà chơi và được anh dành cho cuộc phỏng vấn dài kể về cuộc đời, về thơ của anh.
Sau đó, trong một sinh hoạt với anh là diễn giả chính tổ chức tại trụ sở trung tâm VIVO ở San Jose, ban tổ chức mời tôi cùng với anh Nguyễn-Khoa Thái Anh là hai cựu sinh viên Đại học Berkeley, cũng là thành viên của ban chấp hành Hội Sinh viên Việt Nam thời đó, lên kể lại về đêm đọc thơ và hát ngục ca “Tiếng vọng từ đáy vực” ở Berkeley vào tháng 5-1981.
Tôi nhớ đến anh Nguyễn Chí Thiện từ ngày còn là một tù nhân lương tâm mà tôi được biết.
Khi còn học ở Đại học Berkeley, cuối thập niên 1970 tôi tham gia sinh hoạt với tổ chức Ân xá Quốc tế (AI), nhóm AI Campus Network do bà Laola Hironaka làm trưởng nhóm.
Nhóm quan tâm đến việc nhiều văn nghệ sĩ miền Nam bị Hà Nội bắt giam trong chiến dịch “càn quét văn hoá Mỹ-Ngụy” sau tháng 4-1975. Nhiều tên tuổi của văn đàn miền Nam đã phải vào tù như Doãn Quốc Sỹ, Duyên Anh, Hoàng Hải Thuỷ, Nguyễn Đình Toàn, Nhã Ca, Trần Dạ Từ…
Tôi và bà Laola có xuống nam California gặp nhà văn Võ Phiến, đạo diễn Đỗ Tiến Đức để tìm hiểu về hiện tình của văn nghệ sỹ bị cầm tù ở Việt Nam.
Khi AI biết có một thi sỹ từ miền Bắc bị giam tù nhiều năm vì làm thơ chống đối chế độ cộng sản thì tổ chức rất chú ý, vì từ bao năm AI không biết gì nhiều về tù nhân lương tâm ở miền Bắc Việt Nam mà chỉ có tù nhân lương tâm ở miền Nam, từ trong thời chiến tranh cho đến sau khi Việt Nam thống nhất.
Tù nhân lương tâm
Lúc đó câu chuyện về anh rất huyền bí. Tập thơ được chuyển ra nước ngoài bằng cách nào không ai rõ. Nhân thân tác giả cũng mơ hồ.
Những vần thơ được phổ biến, anh Đoàn Văn Toại gửi cho tôi tập thơ “Tiếng vọng từ đáy vực” đầu tiên. Sau đó là “Ngục ca” do Phạm Duy phổ thơ của người tù khuyết danh mà nhạc sĩ gọi là “Ngục sĩ”. Rồi có bài của Giáo sư Nguyễn Ngọc Bích viết về tập thơ trên tuần báo AsiaWeek xuất bản ở Hong Kong.
Khi sinh viên Berkeley tổ chức đêm thơ nhạc, qua AI tôi tìm hiểu về tác giả và được biết tên nhà thơ là Nguyễn Chí Thiện, đã bị tù đày ở miền Bắc 25 năm và tập thơ được một nhà ngoại giao Pháp đem ra nước ngoài.
Những chi tiết đó được ghi lại trong các tờ bướm quảng bá cho buổi đọc thơ và hát ngục ca chủ đề “Tiếng vọng từ đáy vực” vào tối ngày 1-5-1981 tại Đại học Berkeley do Hội Sinh viên Việt Nam tổ chức với sự bảo trợ của Center for South and Southeast Asia Studies.
Xem lại những điều mà sau này thế giới biết, so với năm 1981, thì danh tính Nguyễn Chí Thiện là đúng. Thời gian đã ở tù 25 năm không chính xác. Còn ai đã đem tập thơ ra khỏi Việt Nam thì đến nay vẫn là điều bí mật có lẽ vì sứ quán liên quan không muốn rắc rối ngoại giao.
Như thế tờ bướm của Hội Sinh viên ở Đại học Berkeley là chứng tích đầu tiên tiết lộ Nguyễn Chí Thiện chính là tác giả tập thơ, trước khi danh tính này được Giáo sư Huỳnh Sanh Thông dùng khi dịch thơ ra tiếng Anh và in trong tập “Flowers from Hell” xuất bản đầu tiên vào năm 1984.
Năm 1986 tôi qua Úc và thấy bưu điện ở đây có dán bích chương của AI kêu gọi thế giới quan tâm đến tù nhân lương tâm Nguyễn Chí Thiện, trên đó có ảnh chân dung, là tấm hình sau này in trên bìa tập truyện “Hỏa Lò / Hanoi Hilton Stories” do Đại học Yale xuất bản năm 2007.
Tôi luôn nhớ đến anh qua hình ảnh đó. Hình ảnh của người tù lương lâm đầu tiên từ miền Bắc Việt Nam mà tôi biết được.
Về thơ của anh tôi nhớ nhất hai câu: “Tự do tôi quí thiết tha/Mà sao tù ngục hết ra lại vào” vì đến nay ở Việt Nam vẫn còn những tù nhân lương tâm. Như anh.
Bùi Văn Phú
Theo BBC
Gửi ý kiến của bạn